Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Cam kết mở cửa thị trường dược phẩm trong EVFTA và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.04 KB, 13 trang )

CAM KẾT MỞ CỬA THỊ TRƢỜNG DƢỢC PHẨM TRONG EVFTA
VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
TS. Nguyễn Kiều Dung
Trƣờng Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội

Tóm lược: Bài báo này tập trung phân tích hiện trạng thị trường dược phẩm, bao gồm
các đặc điểm của thị trường, hiện trạng sản xuất, xuất/nhập khẩu dược phẩm, đồng thời rà
sốt, phân tích, đối chiếu các cam kết của Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU
(EVFTA) với các thể chế và khuôn khổ pháp lý hiện hành của ngành dược. Ngoài ra, bài báo
nêu lên một số khuyến nghị để hỗ trợ phía Việt Nam thực thi các cam kết của EVFTA một
cách hiệu quả.
Từ khóa: cam kết EVFTA, dược phẩm, pháp lý, thể chế, thị trường.
1. Đặt vấn đề
Hiệp định EVFTA vừa được Nghị viện Châu Âu thông qua đầu năm 2020. EVFTA là
một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới điển hình, dự kiến sẽ có tác động sâu rộng đến
mơi trường kinh doanh của Việt Nam. Là một nền kinh tế thuộc nhóm tăng trưởng cao nhất
thế giới, Việt Nam giữ vị trí rất quan trọng đối với các nhà đầu tư châu Âu. Đối với ngành
dược, lĩnh vực chiếm gần 10% doanh thu xuất khẩu của Cộng đồng Châu âu (European Union
– EU) vào Việt Nam, việc ký kết hiệp định này hứa hẹn sẽ là cú hích lớn đối với các doanh
nghiệp dược của EU muốn tham gia thị trường Việt Nam, mở ra chân trời mới trong quan hệ
giữa Việt Nam và EU. Với mức tăng trưởng thu nhập khá và tốc độ già hóa dân số tương đối
cao, dự kiến nhu cầu dược phẩm chất lượng tốt ở thị trường nội địa sẽ tăng cao trong thời gian
tới (EuroCham, 2019).
Luật Dược được Quốc hội Việt Nam thông qua năm 2016 nhấn mạnh mục tiêu biến
ngành dược trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn bằng cách xây dựng một mạng lưới phân
phối và cung cấp dược phẩm tiên tiến, qua đó, đáp ứng đầy đủ nhu cầu thuốc chữa bệnh cho
tồn dân. Chính phủ cũng đang nỗ lực tiếp tục cải cách thể chế và khuôn khổ pháp l để phù
hợp với các cam kết EVFTA, trong đó chú trọng: (i) Tích cực hỗ trợ người tiêu dùng Việt
Nam tiếp cận các loại dược phẩm tiên tiến thông qua đơn giản hóa thủ tục đăng k và tham
gia thị trường cho các doanh nghiệp; và (ii) Xây dựng khn khổ pháp lý cho các doanh
nghiệp dược nước ngồi thành lập cơ sở kinh doanh ở Việt Nam để nhập khẩu và tăng cường


phạm vi hoạt động. EVFTA thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc theo đuổi
chính sách mở cửa, chuyển dịch nền kinh tế theo hướng tăng cường cạnh tranh và phát triển
bền vững.
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu rà sốt, đối chiếu các cam kết EVFTA với hiện trạng
ngành dược Việt Nam là cơng việc rất có nghĩa. Nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích thực
trạng thị trường dược phẩm Việt Nam, cơ sở thể chế và pháp l , đặc biệt là phân tích, đối
chiếu các cam kết EVFTA với thị trường dược phẩm. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đưa ra một
số khuyến nghị nhằm hỗ trợ thực thi các cam kết.
667


2. Tổng quan, cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Tổng quan tài liệu
Trong khi số lượng nghiên cứu về tác động của các hiệp định thương mại tự do (Free
trade agreement - FTA) khác lên thương mại và đầu tư của Việt Nam khá phong phú, nghiên
cứu về EVFTA vẫn cịn thiếu vắng. Ngun nhân có thể do thiếu thông tin bởi EVFTA vừa
mới được Nghị viên Châu Âu thông qua đầu năm 2020, số liệu thực tế để đánh giá tác động
sau can thiệp hầu như chưa có. Liên quan đến ngành dược, gần đây có một số nghiên cứu của
Nguyen (2014) và Angelino et al. (2017) khảo sát hiệu quả hoạt động, nhu cầu thị trường, sản
phẩm, doanh nghiệp, và năng lực cạnh tranh của toàn ngành. Các tài liệu VCBS (2014),
EVBN (2014), JAHR (2015), Luong (2018), KIS (2019), EuroCham (2019) phân tích các đặc
điểm của thị trường dược phẩm như giá cả, loại dược phẩm, kênh phân phối và các chính
sách, trong khi Hoang (2014) cố gắng định vị thị trường dược phẩm Việt Nam trên bản đồ
dược phẩm thế giới. Các báo cáo BMI (2015), KEN (2018), VIBIZ (2018) cung cấp dự báo
về tiềm năng phát triển của thị trường. Le (2015), VSC (2015) và Vu (2017) đưa ra những
đánh giá về xuất/nhập khẩu dược phẩm và đề xuất khung chẩn đoán tác động của EVFTA lên
ngành hàng dược và thương mại Việt Nam. Ngồi ra cịn phải kể đến các báo cáo, nghiên cứu
của Bộ Y Tế, Cục Quản l Dược Phẩm, Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam
(VCCI), Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan, các bộ/ngành, tổ chức khác và các bài viết
trên các tạp chí phổ thơng.

Tuy nhiên, tất cả các tài liệu nêu trên đều chưa rà soát, đối chiếu các cam kết của
EVFTA lên thị trường dược phẩm, các thể chế và khuôn khổ pháp lý hiện tại của Việt Nam.
Đó là l do chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
2.2. Cơ sở lý thuyết
Theo mơ hình Heckscher-Ohlin, EVFTA có thể sẽ tác động lên ngành dược theo
hướng tăng cường tính cạnh tranh của các doanh nghiệp dược, đồng thời thúc đẩy phát triển
sản xuất trong nước và xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam ra nước ngồi. Mặt khác, EVFTA
cũng có thể dẫn đến việc cắt giảm sản xuất một số dược phẩm và ngun liệu dược trong
nước do khơng có khả năng cạnh tranh với sản phẩm và nguyên liệu nước ngoài. Nghiên cứu
này rà soát đối chiếu các cam kết EVFTA với thực trạng thị trường, thể chế và khuôn khổ
pháp l ngành dược như một bước khởi đầu để hỗ trợ cho những nghiên cứu tiếp theo đưa ra
những dự báo tác động của EVFTA đối với thị trường dược phẩm, tạo cơ sở cho các bên xây
dựng cơ chế thúc đẩy thực hiện các cam kết.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Các nghiên cứu đánh giá tác động của EVFTA thường sử dụng phương pháp định
lượng, hoặc định tính, hoặc kết hợp cả hai phương pháp đó. Phương pháp định tính là phương
pháp chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu này. Các phương pháp định tính để nghiên cứu
về EVFTA bao gồm: (i) Phương pháp nghiên cứu kinh tế học: dựa trên các lý thuyết về tự do
thương mại của Adam Smith, David Ricardo, Heckscher - Ohlin, các lý thuyết khác về kinh tế
vĩ mô, kinh tế vi mô, kinh tế quốc tế để phát triển phân tích; (ii) Phương pháp phân tích, tổng
668


hợp tài liệu thứ cấp: phân tích các tài liệu, cơ sở dữ liệu từ các nguồn đáng tin cậy, kế thừa
các nghiên cứu sẵn có để so sánh, đánh giá, hệ thống hóa các luận điểm và vấn đề về tác động
của các cam kết EVFTA; (iii) Phương pháp phân tích, so sánh: đánh giá thực tiễn về tác động
của các cam kết EVFTA lên một quốc gia khác, so sánh với bối cảnh Việt Nam, phân tích xu
hướng và đưa ra bài học đối với Việt Nam; (iv) Phương pháp khảo sát và tham vấn chuyên
gia: tham khảo tài liệu kết hợp với điều tra, khảo sát thực tế và phỏng vấn chuyên gia từ các
bộ/ngành, tổ chức có liên quan.

Nghiên cứu này chủ yếu dựa trên phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu thứ cấp,
trong đó bao gồm các tài liệu hàn lâm về EVFTA, thị trường dược phẩm, các tài liệu về thể
chế và pháp lý của Việt Nam, EU, các báo cáo, phân tích chính sách của các bộ ngành, và các
cơ quan tư vấn. Ngồi ra, nghiên cứu cũng tiến hành phân tích số liệu, xây dựng các biểu đồ
dựa trên những nguồn dữ liệu đáng tin cậy của Tổng cục Thống Kê, Tổng cục Hải quan,
Business Monitor International (BMI), Ken Reseach...
3. Thực trạng thị trƣờng dƣợc phẩm và các cam kết EVFTA
3.1. Thực trạng thị trường dược phẩm
3.1.1. Thị trường nội địa và nhập khẩu dược phẩm
Theo BMI, năm 2019 tốc độ tăng 9
14%
11.8%
7.74
trưởng của thị trường dược phẩm Việt Nam 8
12%
11.0% 10.9% 10.5%7.01
10.4%
7
9%
đứng thứ 13 thế giới (khoảng 10%). Tính
5.81
6.42 9.2%
10%
6
5.24
4.72
8%
đến hết 2017 doanh thu thị trường đạt 5 4.22
4
6%

khoảng 5.2 tỷ USD (tăng 11% so với 2016).
3
4%
Nhu cầu dược phẩm dự báo sẽ tiếp tục tăng 2
2%
do tăng trưởng kinh tế và thu nhập. tốc độ 1
0
0%
tăng trưởng chi tiêu cho dược phẩm dự kiến
2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021
sẽ duy trì ở mức 14% vào năm 2025
(Nguồn: số iệu của BMI)
(VNNews, 2017).
Hình 1. Doanh thu ngành dược 2015-2019
và dự báo năm 2020-2021 (tỷ USD)
Tuy đạt mức tăng trưởng tốt, sản
xuất dược phẩm trong nước vẫn ở mức
khiêm tốn, chỉ đáp ứng được 52.5% nhu cầu nội địa. Việc đáp ứng một nửa nhu cầu dược
phẩm còn lại phải dựa vào nhập khẩu. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn
2008-2017, tổng giá trị tân dược nhập khẩu đã tăng 3.4 lần, từ 834 triệu USD lên 2819 triệu
USD. Tính đến giữa năm 2018, cả nước có 180 doanh nghiệp sản xuất dược phẩm bao gồm cả
doanh nghiệp có vốn đầu tư trong và ngồi nước (Ly, 2018). Số doanh nghiệp sản xuất dược
phẩm nội địa dự kiến sẽ tăng lên 230 vào năm 2022. Mười doanh nghiệp dược uy tín nhất
năm 2019 bao gồm Hậu Giang, Traphaco, Pymepharco, Domesco, Imexpharm, Bình Định,
Hà Tây, OPC, Sanofi Aventis và Mekopha. Từ 2018, bức tranh thị trường dược thay đổi mạnh
mẽ với sự tham gia của các nhà bán l và phân phối nổi tiếng như Mobile World, FPT Retail,
Digiworld và Nguyễn Kim (VCCI-News, 2018; KEN, 2018; Quang, 2019).

669



Các nhà sản xuất niêm yết tại Việt Nam chủ yếu tham gia thị trường tân dược, mặc dù
cũng có một số doanh nghiệp nổi tiếng sản xuất đông dược, chẳng hạn như OPC và Traphaco.
Việt Nam đã sản xuất được hầu hết các
dạng bào chế, từ dạng viên nén, viên
2819
3000
2563
nang, thuốc dạng lỏng, thuốc tiêm,
2320
2500
2036
đơng khơ, thuốc giải phóng chậm. Tuy
1793 1880
2000
nhiên, do hoạt động nghiên cứu và phát
1525
1239
1500
1099
triển (R&D) chưa được chú trọng đúng
834
1000
mức, sản xuất trong nước chủ yếu vẫn
500
là các loại thuốc generic để phục vụ nhu
0
cầu nội địa và gia cơng cho nước ngồi.
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Thêm vào đó, các dược phẩm này cũng

(Nguồn: số iệu của Tổng c c Thống kê)
khơng phải loại có giá trị cao và việc
Hình 2. Tổng giá trị nhập khẩu tân dược
sản xuất có nhiều trùng lặp. Dược phẩm
(triệu USD)
sản xuất trong nước chủ yếu để chữa
các bệnh thông thường như thuốc kháng sinh, giảm đau, chống viêm…Các loại thuốc có bằng
sáng chế và biệt dược thường phải nhập khẩu. Trung bình mỗi năm ngành dược tiêu thụ
khoảng 60,000 tấn dược liệu các loại, trong đó 80%-90% dược liệu phải nhập khẩu (Ly, 2018;
Luong, 2018).
Mặc dù chính phủ ưu tiên khuyến khích sản xuất trong nước, người tiêu dùng vẫn có
xu hướng chuộng hàng ngoại nhập. Những quốc gia xuất khẩu dược phẩm vào Việt Nam
nhiều nhất là Pháp, Ấn Độ, Đức, Hàn Quốc và Ý. Do 90% nguyên liệu và bao bì phải nhập
ngoại, các doanh nghiệp trong nước thường phải chịu nhiều áp lực do biến động giá cả,
nguồn cung và tỷ giá. Năm 2017, Việt Nam nhập khẩu 375 triệu USD nguyên liệu dược,
trong đó 78% từ Trung Quốc và Ấn Độ, bởi đó là các nguồn cung có chi phí thấp trên thế
giới, mặc dù chất lượng nguyên liệu từ hai quốc gia này không đảm bảo như nhiều quốc gia
khác. Mekophar là doanh nghiệp duy nhất sản xuất nguyên liệu kháng sinh ở Việt Nam từ
năm 1993, nhưng gần đây cũng cân nhắc ngừng sản xuất do áp lực cạnh tranh, đặc biệt từ
phía Trung Quốc (Luong, 2018).
3.1.2. Xuất khẩu dược phẩm trên thị trường quốc tế
Thị trường quốc tế là ―miếng bánh lớn‖ cho các doanh nghiệp Việt muốn tham gia
xuất khẩu. Theo Market Research, thị trường dược phẩm toàn cầu dự kiến sẽ đạt tới 1,170 tỷ
USD vào năm 2021. Già hóa dân số, tăng thu nhập đầu người và chi tiêu cho y tế cao là
những yếu tố đảm bảo thị trường toàn cầu tăng trưởng bền vững ở mức 5.8%/năm. Thị trường
tiềm năng nhất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam là Nhật Bản. Năm 2017, Nhật
Bản chi 95 tỷ USD cho dược phẩm và là quốc gia tiêu thụ mặt hàng này lớn nhất thế giới.
Mặc dù năng lực sản xuất lớn, Nhật Bản vẫn phải nhập khẩu 38% dược phẩm để đảm bảo đủ
đáp ứng nhu cầu nội địa (TDV, (2019).


670


So với nhập khẩu, tổng giá trị
xuất khẩu dược phẩm của Việt nam khá
148.4
160.0
nhỏ, (chỉ 148.4 triệu USD năm 2017
140.0
113.8 117.9
106.6
120.0
theo Trend Economy), nghĩa là chỉ
91.2
84.6
100.0
67.4
bằng khoảng 5% tổng giá trị nhập khẩu.
80.0
60.0
Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn
40.0
nhất của Việt Nam (USD 18.5 triệu,
20.0
0.0
tương đương 12.5% tổng giá trị xuất
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
khẩu). Các quốc gia nhập khẩu dược
(Nguồn: Số iệu của Trend Economy)
phẩm quan trọng khác của Việt Nam là

H nh 3. Tổng giá trị xuất khẩu dược phẩm
Đức (11.6%), Campuchia (10.7%),
(triệu USD)
Miến Điện (9.8%), Đảo Síp( 6.9%),
Philippines (6.9%), Bulgaria (3.9%), Malaysia (3.7%), Trung Quốc (3.4%), và Thái lan
(2.3%). Trung Đông và các nước thuộc Liên Xô cũ cũng được coi là khách hàng tiềm năng.
Việt Nam cũng đã xuất khẩu dược phẩm tới hơn 20 quốc gia châu Phi. Tuy nhiên, phần lớn
dược phẩm xuất khẩu là xuất khẩu tại chỗ, (khoảng 24%), nghĩa là xuất khẩu trở lại các doanh
nghiệp nước ngoài liên doanh với doanh nghiệp trong nước, đặc biệt đối với các doanh nghiệp
của Nga, Đức, Mỹ. Ví dụ một số liên doanh như Hasan – Dermapharm (Đức), Domestic –
Abott (Mỹ). Với tổng GDP 2600 tỷ USD và hơn 600 triệu dân, ASEAN cũng là thị trường
hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Việt, trong đó, Indonensia là thị trường lớn nhất (ước tính
đạt tới 10 tỷ USD năm 2021). Việt Nam có lợi thế hơn các quốc gia xuất khẩu khác nhờ có
các hiệp định chung với các nước ASEAN và nhiều điểm tương đồng về văn hóa, nhu cầu
thuốc chữa bệnh và phương thức phân phối. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
bao gồm thuốc trị sốt rét, tiêu chảy, và các loại vắc-xin (VSC, 2015; Angelino et al., 2017;
Invest, 2018).
Tuy nhiên, các tiêu chuẩn cao về dược phẩm của Nhật Bản, ASEAN và phương tây là
thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt. Ngồi ra, Việt Nam cần nỗ lực chuẩn
hóa ngun liệu dược phẩm để tận dụng khai thác các loại nguyên liệu trong nước, đồng thời
chủ động sản xuất nguyên liệu, tránh phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài. Việc
chuẩn hóa nguyên liệu sẽ góp phần đảm bảo chất lượng sản phẩm và nâng cao tính cạnh tranh
của dược phẩm Việt (TDV, (2019).
3.1.3. Các doanh nghiệp dược phẩm
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2017 tổng số doanh nghiệp dược nội địa đang hoạt
động là 483, tăng 10.2% so với năm 2016 và 22.6% so với năm 2015. Trong đó có 443 doanh
nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) và 40 doanh nghiệp lớn. Về hiệu quả hoạt động, 212 DNVVN
nội địa thông báo lãi năm 2017 với tổng số lãi là 1667 tỷ đồng (nghĩa là khoảng 7.86 tỷ
đồng/doanh nghiệp). Hầu hết các doanh nghiệp lớn (39/40 doanh nghiệp) thông báo lãi với
mức lãi trung bình là 81.8% tỷ đồng/doanh nghiệp, nghĩa là có sự giảm nhẹ 3.1% và 1.1% so

với hai năm trước đó. Năm 2017, tổng số doanh nghiệp dược có vốn đầu tư nước ngồi
671


(Foreign investment enterprise – FIE) đang hoạt động là 50, tăng 2 FIE so với năm 2015.
Trong số đó, 37 doanh nghiệp thông báo lãi với tổng số lãi là 1,612 tỷ đồng (khoảng 32.24 tỷ
đồng/doanh nghiệp), chiếm 74% tổng số doanh nghiệp của khu vực này.
Thị trường dược Việt
Nam được đánh giá là khá hấp
dẫn đối với các FIE và các công
443
40 50
2017
ty đa quốc gia (Multinational
company - MNC) nhờ lao động
398
36 50
2016
giá r . Chi phí cho lao động có
360
34 48
2015
kỹ năng ở Việt Nam thấp hơn
20-30% so với Trung Quốc và
100
200
300
400
500
600

Ấn Độ. Lương tối thiếu trong
Doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp lớn Doanh nghiệp FIE
các MNC ở Việt Nam khoảng
(Nguồn: số iệu của Tổng c c Thống kê)
130 USD/tháng, là một trong
H nh 4. Tổng số doanh nghiệp dược đang hoạt động
những mức lương thấp nhất trên
thế giới, thấp hơn nhiều so với mức 240 USD/tháng và 190 USD/tháng ở Trung Quốc và Ấn
độ. Chi phí xây dựng và vận hành một cơ sở sản xuất dược phẩm đạt chuẩn Thực hành Sản
xuất Tốt của Tổ chức Y tế Thế giới (GMP-WHO) ở Việt Nam cũng thấp hơn 30% - 40% so
với hai nước nêu trên. Việt Nam còn được coi là kênh xuất khẩu đến các quốc gia khác ở châu
Á. Hiện nay, nhiều FIE đã cộng tác với các doanh nghiệp nội địa để sản xuất và phân phối sản
phẩm. Điều này cũng hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa cải thiện chất lượng sản phẩm và tăng
cường năng lực cạnh tranh. Một số FIE năng động trên thị trường bán buôn cố gắng kiểm soát
những mảng thị phần đáng kể, đặc biệt là thị phần dược phẩm ngoại nhập (Sivabushnam,
2017; VNNews, 2017; Angelino et al., 2017).
Cũng theo Tổng cục Thống kê, các doanh nghiệp dược chủ yếu tập trung ở hai thành
phố lớn. Năm 2017, Hà Nội có 134 doanh nghiệp (chiếm 25%) và TP Hồ Chí Minh có 159
doanh nghiệp (chiếm 29.5%). Trong khi đó, 19 tỉnh khơng có doanh nghiệp nào đăng k kinh
doanh. Việt Nam hiện có trên 2000 nhà phân phối (bao gồm cả doanh nghiệp khơng có đăng
k ), hơn 100 nhà nhập khẩu, và khoảng 40,000 hiệu thuốc (VNN, 2017). Sự tập trung các
doanh nghiệp ở các tỉnh/thành phố lớn dẫn tới sự tập trung về phân phối. Ở các tỉnh nhỏ, số hiệu
thuốc cũng nhỏ hơn. Thêm vào đó, nhiều cơ sở y tế xã ở các tỉnh thiếu danh mục thuốc có bảo
hiểm hoặc danh mục các loại dược phẩm thiết yếu. Các các tỉnh miền núi cịn đặc biệt thiếu
thuốc và hóa chất cần thiết để phịng ngừa và kiểm sốt bệnh dịch (VSC, 2015; JAHR, 2015).
3.1.4. Thể chế và khuôn khổ pháp lý
Cơ quan chịu trách nhiệm chính về quản l dược phẩm ở Việt Nam là Cục Quản lý
Dược, Bộ Y Tế. Nghị định 37-CP của Chính phủ đề ra mục tiêu của ngành dược là ―đáp ứng
đầy đủ nhu cầu dược phẩm nội địa‖, phản ánh vai trò thiết yếu thay vì vai trị tìm kiếm lợi
nhuận của ngành hàng này. Việt Nam đã cam kết giảm thuế trong WTO đối với 47 dược

phẩm từ 10-15% năm 2006 xuống 2.5% năm 2012. Các quyền kinh doanh cũng được mở
672


rộng tuy vẫn phụ thuộc vào các các
kênh được chính phủ phê duyệt. Từ
Hà nội
năm 2007, các sản phẩm dược nội địa
TP Hồ Chí Minh
122
được yêu cầu phải đạt chuẩn GMP134
Bình Dương
13
ASEAN, và sau đó là các chuẩn
Cần Thơ
16
16
GMP-WHO, PIC/S, EU-GMP. Chính
Hưng Yên
21
159
34
23
sách này đã thúc đẩy thị trường nội
Đồng Nai
địa hội nhập với thị trường quốc tế.
Long An
Nhờ đó, đến năm 2018 Việt Nam đã
Nam Định
có 158 doanh nghiệp có nhà máy đạt

Các tỉnh/thành khác
chuẩn GMP-WHO (Angelino et al.
(Nguồn: số iệu của Tổng c c Thống kê)
H nh 5. Số doanh nghiệp dược
2017; Ly, 2018). Luật Dược 2016 đã
theo địa phương (2017)
có tác động đáng kể đến sự phát triển
của ngành dược nội địa nhờ chủ trương ưu tiên mua các sản phẩm nội địa bao gồm các dược
phẩm generic và tương đương, thảo dược, đơng dược có thành phần thảo dược nội địa, và
dược phẩm sản xuất từ các cơ sở đạt chuẩn quốc tế. Mặt khác, Luật Dược cũng khuyến khích
việc thành lập các FIE để tạo điều kiện cho người tiêu dùng nội địa tiếp cận những dược phẩm
và kỹ thuật y tế tiên tiến nhất và các loại thuốc chữa bệnh nan y.
Tuy nhiên, việc quản l dược phẩm ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều vấn đề, chẳng hạn
như: (i) Khơng có chiến lược dài hạn; (ii) Quản lý chất lượng kém hiệu quả; (iii) Nhiều rào
cản đăng k kinh doanh và thử nghiệm lâm sàng; (iv) Bất bình đẳng trong tiếp cận thị trường
và đấu thầu giữa các doanh nghiệp nội địa và các FIE; (v) Quy định thành lập nhà thuốc lỏng
l o dẫn đến thị trường kém hiệu quả và làm tăng giá thuốc; và (vi) Quản lý sở hữu trí tuệ kém
hiệu quả.
Theo một điều tra mới đây của công ty VNR, đấu thầu thuốc ở các bệnh viện và sự phụ
thuộc vào nguyên liệu ngoại nhập là hai cản trở lớn nhất đối với các doanh nghiệp dược. Thêm
vào đó, việc đăng k sản phẩm với Cục Quản l Dược, Bộ Y tế thường đòi hỏi thời gian thử
nghiệm dài cũng tạo ra bất lợi lớn cho các doanh nghiệp (VNNews, 2017; Angelino et al.,
2017). Nghị định 54/2017/ND-CP Hướng dẫn Thi hành Luật Dược được cho là gây nhiều khó
khăn cho các FIE bởi hạn chế quyền phân phối, vận chuyển, bảo quản thuốc và nguyên liệu làm
thuốc trừ thuốc và nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam, đồng thời ngăn cản các đơn vị có giấy
phép nhập khẩu sử dụng dịch vụ vận chuyển, bảo quản thuốc của bên thứ ba mà phải tự đầu tư
kho chứa, tự bảo quản và vận chuyển (Angelino et al., 2017; Nguyen, 2018).
Về phát triển xuất khẩu, Việt Nam có tiềm năng về nguồn dược liệu nhưng chưa có
chính sách kết hợp quy hoạch vùng trồng và khai thác nguyên liệu dược để xuất khẩu dược
liệu. Thể chế và khuôn khổ pháp l của Việt Nam chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu. Rất

cần quy định cụ thể về sản xuất dược phẩm, đặc biệt là vắc xin, sinh phẩm y tế theo tiêu
chuẩn GMP-WHO để hỗ trợ xuất khẩu (VNPCA, 2009).

673


3.2. Các cam kết EVFTA và khả năng thực thi từ phía Việt Nam
EVFTA là một FTA thế hệ mới với phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao. Các
lĩnh vực cam kết chính trong hiệp định bao gồm: thương mại hàng hóa (thuế quan), quy tắc
xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và
kiểm dịch, hàng rào kỹ thuật, phòng vệ thương mại, thương mại dịch vụ, đầu tư, cạnh tranh,
doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của chính phủ, sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững, pháp l
và thể chế, hợp tác và xây dựng năng lực (VCCI-WTO, 2019). EVFTA có phụ lục riêng cho
ngành dược phẩm bởi ngành này đóng góp đáng kể vào tổng doanh thu từ xuất khẩu của EU
vào Việt Nam (khoảng 10%). Phần phân tích dưới đây dựa trên các nguồn tài liệu của EU
(2017), VCCI-WTO (2017), DuaneMorris (2017), và EuroCham (2019).
3.2.1 Các cam kết về thuế quan và phi thuế quan
Theo EVFTA, dược phẩm và nguyên liệu dược từ EU nhập khẩu vào Việt Nam được
loại bỏ một phần thuế quan. Cụ thể, 71% dược phẩm và nguyên liệu dược sẽ được loại bỏ
thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực, và 29% cịn lại sẽ được loại bỏ thuế dần dần trong 5-7
năm tiếp theo. Như vậy, chỉ khoảng 50% dược phẩm sẽ phải chịu tác động của hiệp định và
tác động cũng không lớn.
Về các biện pháp phi thuế quan, hai bên có một số thỏa thuận như sau:
- Về các tiêu chuẩn: Theo cam kết EVFTA, các tiêu chuẩn kỹ thuật mới liên quan
đến dược phẩm và y tế cần dựa trên các tiêu chuẩn của WHO, OECD, ICH, PIC/S. Với cam
kết này, Việt Nam cần nâng cao năng lực xây dựng các tiêu chuẩn, nhưng đồng thời cũng
được hưởng lợi do cam kết kết này ngăn cản phía EU thiết lập các tiêu chuẩn quá cao về
dược phẩm, ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam vào EU. Việc áp dụng các tiêu chuẩn
quốc tế cũng giúp các doanh nghiệp Việt Nam tăng cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị quốc tế
thông qua sản xuất dược liệu, tăng cường năng lực cạnh tranh với các sản phẩm của Trung

Quốc và các quốc gia Đơng Nam Á khác, và có thể thay thế Trung Quốc một phần trong
chuỗi giá trị với EU.
- Về thủ t c cấp phép ưu hành: Cam kết EVFTA yêu cầu mỗi dược phẩm cụ thể phải
tuân theo một quy trình cấp ph p lưu hành riêng do đặc thù liên quan mật thiết đến sức khỏe
của ngành dược. Quy định này góp phần đảm bảo chất lượng của dược phẩm, tuy nhiên cũng
giống như các giấy ph p con, quy định này cũng cản trở việc đưa dược phẩm vào thị trường
nội địa. Ngoài ra, yêu cầu về khoản thời gian tối thiểu (05 năm) giữa thời điểm cấp phép tại
EU và thời điểm xin ph p lưu hành dược phẩm tại Việt Nam và các yêu cầu không phù hợp
với các chuẩn mực quốc tế về nghiên cứu lâm sàng (đặc biệt là các chuẩn của ICH) cũng được
EU yêu cầu Việt Nam bãi bỏ.
- Về tính minh bạch: Tính minh bạch trong cam kết EVFTA bao gồm (i) Phổ biến các
văn bản quy phạm pháp luật và các quy định, thủ tục liên quan đến giá cả, quản l dược
phẩm, và thiết bị y tế; (ii) Tiếp nhận phản hồi của các cơ quan liên quan và các chuyên gia về
các dự thảo văn bản và các quy định, thủ tục đó; (iii) Cơng khai các thủ tục đăng k , phê
duyệt liên quan đến giá.
674


Phía Việt Nam mới chỉ đáp ứng được một phần những cam kết này. Luật Dược
2016 và Thông tư 32/2018/TT-BYT Hướng dẫn Đăng k Dược phẩm và Lưu hành Dược
phẩm đã loại bỏ thời gian tối thiểu 05 năm và dược liệu được đăng k ngay khi được phê
duyệt bởi những cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan Dược Phẩm Châu Âu (European
Medicines Agency – EMA) được coi là một trong những cơ quan có thẩm quyền đó, và
các sản phẩm được EMA phê duyệt sẽ được cắt giảm nhiều thủ tục hành chính khi tham
gia vào thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, yêu cầu về Giấy Chứng Nhận Dược Phẩm
(Certificate of Pharmaceutical Product - CPP) vẫn là rào cản đáng kể đối với các dược
phẩm do EMA phê duyệt và đăng k ở Việt Nam.
3.2.2. Cam kết về các quyền kinh doanh và phân phối dược phẩm
Các cam kết của Việt
Nam trong EVFTA về quyền

kinh doanh khơng có gì mới so
với cam kết trong WTO. Ví dụ,
trước khi EVFTA có hiệu lực,
theo luật định các FIE có quyền
nhập khẩu dược phẩm vào Việt
Nam nhưng không được quyền
phân phối mà phải thông qua
doanh nghiệp nội địa để phân
phối sản phẩm. Ngoài ra các FIE
cũng được quyền xây dựng kho
bảo quản dược phẩm và tiến hành
nghiên cứu lâm sàng. Tuy nhiên,
Nguồn: Sơ đồ của Pharma Supply Chain trên thực tế, mặc dù các quyền
Hình 6: Chuỗi giá trị ngành dược
kinh doanh của FIE đã được Việt
Nam cam kết với WTO trước đây nhưng khơng được phía Việt Nam thực thi đầy đủ, ví dụ
các FIE khơng được quyền nhập khẩu trực tiếp vào thị trường nội địa. Với sự nhắc lại trong
EVFTA, các quyền này sẽ được đảm bảo hơn. Mới đây, tháng 8/2019, Sanofi là doanh nghiệp
đầu tiên được cấp giấy phép nhập khẩu dược phẩm trực tiếp vào Việt Nam.
Ngoài ra, EVFTA vẫn giữ các quy định giống như cam kết WTO về việc FIE không
được trực tiếp bán dược phẩm, nhưng được phép bán các loại thực phẩm chức năng dưới dạng
viên nén, viên con nhộng, hoặc dạng bột. Như vậy, EVFTA không tác động đáng kể đến
quyền phân phối của các FIE.
3.2.3. Cam kết về mua sắm của Chính phủ
Việc mua sắm chính phủ ở Việt Nam được quy định trong chương 9 của EVFTA.
Chương này đặt ra các tiêu chí về minh bạch quy trình đấu thầu mua sắm công và tạo thuận
lợi cho các doanh nghiệp EU được tham gia vào các gói thầu đó ở Việt Nam. Các cam kết này
được chia làm hai nhóm, bao gồm các cam kết nguyên tắc và các ngoại lệ.
675



- Các cam kết nguyên tắc: Theo EVFTA, các nhà thầu EU được ph p tham gia đấu thầu
mua sắm chính phủ nếu đáp ứng được các điều kiện của các cơ quan Trung Ương (các đơn vị của
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và Bộ Y tế) hoặc của các cơ quan địa phương và các đơn vị sự nghiệp
(Sở Y tế Hà Nội, sở Y tế TP HCM, và 33 bệnh viện được nêu chi tiết).
- Các ngoại lệ về dược phẩm: Tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì một số ngoại lệ về đấu
thầu dược phẩm. Theo đó, các cơ quan nhà nước được ưu tiên các doanh nghiệp nội địa (tỷ lệ
ưu tiên về giá trị gói thầu cho các doanh nghiệp nội địa giảm dần từ 100% đến 50% trong
vịng 16 năm, tính từ năm EVFTA có hiệu lực). Ngồi ra, các gói thầu mua sắm một loại dược
phẩm với giá trị dưới 130000 SDR (khoảng 4.1 tỷ VND), các gói thầu mua sắm kèm phân
phối, các gói thấu liên quan đến tài trợ quốc tế, an ninh, quốc phịng, lợi ích cơng, và các biện
pháp ưu đãi trong nước…được coi là ngoại lệ, không chịu sự điều chỉnh của EVFTA.
Phía Việt Nam mới thực thi được một phần các cam kết này. Thông tư 15/2019/TT-BYT
Quy định về việc Đấu thầu Dược phẩm tại các cơ sở y tế công lập đề xuất một cơ chế tồn diện về
mua sắm chính phủ đối với dược phẩm. Tuy nhiên, các cam kết về tăng dần truy cập thị trường
cho các FIE trong lĩnh vực mua sắm chính phủ chưa được đưa vào pháp luật Việt Nam.
3.2.4. Cam kết về sở hữu trí tuệ
Các cam kết về sở hữu trí tuệ trong EVFTA đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ đối với dược phẩm, bao gồm các quy định về sáng chế và độc quyền dữ liệu. Đặc biệt, các
cam kết này được áp dụng đối với tất cả các chủ thể thuộc mọi quốc gia chứ không chỉ hạn
chế trong phạm vi Việt Nam hay EU.
- Cam kết đền bù chậm trễ trong cấp phép ưu hành dược phẩm: Việt Nam và EU cam
kết đền bù chậm chễ nếu việc chậm chễ là bất hợp lý và ảnh hưởng đáng kể đến thời gian khai
thác thương mại của dược phẩm được bảo hộ độc quyền. Cam kết này có thể khiến thời gian
bảo hộ độc quyền dược phẩm dài hơn thời gian bảo hộ tối đa được pháp luật quy định, dẫn
đến tăng giá thuốc và ảnh hưởng đến thời gian được phép sản xuất thuốc generic của các
doanh nghiệp.
- Cam kết về bảo hộ dữ liệu độc quyền: Cam kết về bảo hộ dữ liệu độc quyền đề cập
đến trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền khi yêu cầu người xin cấp ph p lưu hành dược
phẩm phải xuất trình các dữ liệu thử nghiệm. Theo đó, cơ quan này cần phải bảo mật các dữ

liệu đó, khơng cho ph p các doanh nghiệp khác sử dụng vì mục đích thương mại. Ngoài ra,
Việt Nam cần xác nhận lại các nghĩa vụ theo Hiệp ước Hợp tác Sáng chế, đơn giản hóa và
phát triển các thủ tục đăng k bằng sáng chế với tham chiếu Hiệp ước Luật Bằng Sáng chế,
thiết lập một hệ thống phục hồi bằng sáng chế trong thời gian lên đến 02 năm, và một ủy ban
đặc biệt Rà sốt Bảo vệ Sở hữu Trí tuệ cần được thành lập hàng năm.
Cam kết về độc quyền dữ liệu có thể dẫn đến giảm cạnh tranh về số lượng, nguồn
cung, và giá dược phẩm. Trước nay, Việt Nam khơng có quy định rõ ràng về đảm bảo độc
quyền và bảo mật dữ liệu mà các doanh nghiệp dược phải xuất trình để tham gia thị trường.
Các cam kết này chưa được đưa vào Luật Dược 2016 và đang tiếp tục được nghiên cứu để bổ
sung vào Luật Sở hữu Trí tuệ.
676


4. Kết luận và khuyến nghị giải pháp
4.1. Kết luận
Dược phẩm là một trong những ngành hàng quan trọng nhất chịu sự điều chỉnh của
EVFTA. Thị trường dược phẩm Việt Nam thuộc nhóm có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế
giới nhưng còn nhiều bất cập như: (i) Sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 52%
nhu cầu nội địa; (ii) Phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu ngoại nhập; (iii) Dược phẩm sản
xuất trong nước chủ yếu vẫn là các loại thuốc generic, khơng có giá trị cao và chỉ để chữa các
bệnh thông thường; (iv) Các loại biệt dược, thuốc chữa bệnh nan y nói chung phải nhập ngoại;
(v) Mất cân đối lớn giữa xuất khẩu và nhập khẩu (tổng giá trị xuất khẩu chỉ bằng 5% tổng giá
trị nhập khẩu); (vi) Ngồi ra cịn nhiều bất cập khác về thể chế và khuôn khổ pháp luật.
Những phân tích trong bài cho thấy các cam kết về thuế quan sẽ không tạo ra những
thay đổi đáng kể trong kinh doanh dược phẩm giữa Việt Nam và EU. Tuy nhiên các cam kết
khác dự kiến sẽ có tác động nhất định một khi EVFTA có hiệu lực, đó là: (i) Việc nhập khẩu
Dược phẩm từ EU vào Việt Nam sẽ thuận lợi hơn; (ii) Bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với dược
phẩm sẽ nghiêm ngặt hơn, khiến sản xuất dược phẩm generic khó khăn hơn, và khó giảm giá
hơn; (iii) Cạnh tranh trong các gói thầu mua sắm dược phẩm cho các bệnh viện được quy định
trong EVFTA sẽ được tăng cường. Các loại biệt dược và thuốc chuyên dụng sẽ chịu nhiều ảnh

hưởng từ EVFTA, nhưng các loại dược phẩm thông thường và các loại thuốc generic mà Việt
Nam đã sản xuất được không bị tác động nhiều.
Các loại doanh nghiệp dược Việt Nam cũng sẽ chịu tác động của EVFTA rất khác
nhau: (i) Các doanh nghiệp sản xuất không phải chịu tác động cạnh tranh đáng kể; (ii) Các
doanh nghiệp chờ hết hạn bảo hộ thuốc biệt dược để tự do sản xuất sẽ gặp nhiều cản trở; (iii)
Các doanh nghiệp muốn xin cấp ph p lưu hành các dược phẩm vốn đã được lưu hành trên thị
trường bởi doanh nghiệp khác sẽ gặp nhiều hạn chế; (iv) Sức ép cạnh tranh từ các nhà cung
cấp EU đối với doanh nghiệp trong nước trong các gói thầu mua sắm cơng sẽ tăng mạnh. Do
vậy, các doanh nghiệp cần nắm vững các cam kết EVFTA để phán đốn đúng tác động đối
với doanh nghiệp mình.
4.2. Các khuyến nghị và giải pháp
Dưới đây là một số khuyến nghị đối với Chính phủ Việt Nam:
- Về các quyền kinh doanh: Nhờ các cam kết EVFTA, các công ty nước ngồi đã có
khn khổ pháp l để thành lập các chi nhánh như FIE để nhập khẩu dược phẩm và triển khai
các hoạt động rộng hơn. Chính phủ Việt Nam và EU cần tiếp tục hỗ trợ để đảm bảo thực thi
quyền thành lập các FIE, nhập khẩu dược phẩm và tiếp tục đóng góp cho ngành y tế của quốc
gia. Các FIE đã được cấp ph p và đang hoạt động cung cấp dịch vụ vận chuyển, lưu kho, bảo
quản thuốc tại Việt Nam không nên bị điều chỉnh bởi nghị định 54/2017/NĐ-CP do họ đã đầu
tư đáng kể vào các hoạt động này
- Đăng ký dược phẩm: Luật Dược và Thông Tư 32/2018/TT-BYT đã bãi bỏ yêu cầu
về thời hạn tối thiểu 05 năm và các yêu cầu bổ sung liên quan đến các nghiên cứu lâm sàng
vượt ra ngồi những quy định theo thơng lệ quốc tế (đặc biệt là hướng dẫn của ICH) để được
cấp giấy phép tiếp thị dược phẩm (bao gồm thuốc, vắc-xin, sinh học). Đây là một bước tiến

677


lớn, thúc đẩy quyền tiếp cận của bệnh nhân đối với các dược phẩm mới, chất lượng cao. Tuy
nhiên vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến CPP. EMA và chính phủ Việt Nam cần tiếp tục đối
thoại để đảm bảo rằng phía Việt Nam điều chỉnh các yêu cầu về CPP theo mẫu của WHO và

phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Về mua sắm chính phủ: Thơng tư 15/2019/TT-BYT về Hướng dẫn Sử dụng Dược
phẩm được ban hành gần đây là một tín hiệu tích cực, phản ánh những nỗ lực của Chính phủ
Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho môi trường bền vững hơn, đảm bảo các loại dược phẩm tiên
tiến nhất được dự trữ đầy đủ trong các bệnh viện công để điều trị cho bệnh nhân. Chính phủ
cần tiếp tục xây dựng các quy định toàn diện về việc đăng k , đấu thầu và bồi hoàn thuốc để
đáp ứng nhu cầu của một hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện đại. Các cam kết tăng dần khả
năng tiếp cận thị trường cho các công ty EU trong mua sắm chính phủ cần được đưa vào luật
pháp Việt Nam.
- Về sở hữu trí tuệ: Phía Việt Nam cần đảm bảo các cam kết EVFTA được tôn trọng,
bao gồm nhưng không giới hạn trong việc áp dụng bảo vệ bằng sáng chế, hệ thống thực thi có
hiệu quả, bảo vệ dữ liệu theo quy trình tự động, điều chỉnh các biện pháp bảo vệ sở hữu trí tuệ
khác phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, nhằm tạo ra một môi trường chuẩn mực hơn cho các nhà
đầu tư, thúc đẩy đổi mới và hỗ trợ giải quyết các vấn đề liên quan đến thuốc giả.
- Các khuyến nghị khác: Chính phủ cần xây dược chiến lược phát triển ngành dược
với tầm nhìn dài hạn, trên cơ sở đó đề ra những cơ chế, chính sách cụ thể. Cần có các chính
sách tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp nước ngoài, chính
sách khuyến khích R&D để phát triển mạng lưới phân phối dược phẩm tiên tiến, hiện đại.
Việc thành lập các cơ sở sản xuất thuốc, thành lập nhà thuốc cũng cần được quản lý chặt chẽ
nhằm tăng cường tính minh bạch và cạnh tranh của thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Anh
Angelino, A., Do, K., Nguyen, Ha., & Pham., T. (2017). Pharmaceutical industry in
Vietnam: Sluggish sector in a growing Market. International Journal of Environmental
Research and Public Health, 14 (976), 1-18.
BMI. (2015). Vietnam pharmaceuticals and healthcare. Report. Q2, Business Monitor
International Ltd.
DuaneMorris (2017). Pharmaceutical sector in Vietnam – Outlook on the European
Union Vietnam free trade agreement. Duan Morris Blog.
EU. (2017). The economic impact of the EU-Vietnam free trade agreement. Report.

European Union.
EuroCham. (2019). The EU-Vietnam free trade agreement: Perspective from Vietnam.
European Chamber of Commerce in Vietnam.
EVBN. (2014). Healthcare: research report. EU-Vietnam Business Network. Ho Chi
Minh City.

678


Hoang, H. (2014). Sector report of the pharmaceuticals. FPT Securities, Hanoi.
JAHR. (2015). Strengthening primary health care at the grassroots towards universal
health coverage. Joint annual health report. Health Partnership Group.
KEN. (2018). Vietnam Healthcare Market on the Basis of Revenue is Expected to
Reach USD 18 Billion by 2022. Ken Research.
Nguyen. H. (2014). The ASEAN economic community in the new context and
Vietnam‟s integration. Ministry of Science and Technology, Hanoi.
Sivabushnam, S. (2017). Low cost and market potential make Vietnam a favorable
pharma hub. Boroe Advance Procurement.
VCCI-News (2018). Development potential of Vietnam pharmaceutical industry.
Online News. Vietnam Chamber of Commerce and Industry.
VNN. (2017). Beneath pharma growth, a problem. Vietnamnet online. April 11.
VNNews. (2017). VN Pharma sector set for growth. Vietnam News, December 26.
VSC. (2015). Pharma supply chain. Vietnam Supply Chain.
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
Invest, (2018). Tổng quan nghiên cứu ngành dược. Invest Vietnam.
KIS. (2019). Triển vọng ngành Dược 2019: Siết chặt cho dài hạn. Báo cáo ngành. KIS
Vietnam Securities Corporation.
Le, V. (2015). Việt Nam đang nhập khẩu dược phẩm nhiều nhất từ Pháp. Kinh tế và
Dự báo. April 2.
Luong, C. (2018). Tổng quan ngành dược phẩm. Báo cáo ngành. ACBS research

department.
Ly, T. (2018). Thị trường dược phẩm Việt Nam: Sân chơi rộng mở cho doanh nghiệp
nội!. Cơng Thương. June 18.
Nguyen, T. (2018). Tìm giải pháp g khó cho doanh nghiệp FDI ngành dược.
Vietnamfinance.vn. October 13.
Quang, H. (2019). Dược Hậu Giang dẫn đầu danh sách công ty sản xuất dược phẩm uy
tín. Đầu Tư Online. December 16.
TDV, (2019). Xuất khẩu thuốc ‗rộng cửa‘ với doanh nghiệp dược nội địa. Tuoitre.vn.
VCBS. (2014). Vietnam‟s pharmaceutica sector report. Vietcombank Securities
Company, Hanoi.
VCCI-WTO. (2017). EVFTA và ngành sản xuất dược phẩm Việt Nam. Trung tâm
WTO và Hội nhập. Phòng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam.
VCCI-WTO. (2019). Tóm lược chung về hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU.
Trung tâm WTO và Hội nhập. Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam.
VIBIZ. (2018). Ngành dược phẩm, hiện trạng 2017, xu hướng phát triển 2022. ViBiz
Report. Vietnam Business Monitor.
VNPCA, (2009). Hướng đi cho dược phẩm xuất khẩu? Vnpca.vn.
Vu, H. (2017). Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU: tác động đối với thương mại
hàng hoá giữa hai bên và hàm ý cho Việt Nam. Luận án Tiến sỹ. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

679



×