Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Thuận lợi hóa thương mại trong bối cảnh nền kinh tế số ở ASEAN và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.72 KB, 13 trang )

THUẬN LỢI HÓA THƢƠNG MẠI TRONG BỐI CẢNH NỀN KINH TẾ SỐ Ở ASEAN
VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Ths. Trần Thị Mai Thành
Viện Kinh tế Việt Nam
Tóm lược: Nền kinh tế số ASEAN được dự kiến sẽ tăng mạnh 6,4 lần, trong thời kỳ
2015-2025 và là động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế vùng. Do đó, các biện pháp
thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới nhanh chóng trở nên quan trọng khơng chỉ duy trì năng
lực cạnh tranh trong thương mại mà cịn giải quyết các thách thức về quản lý thương mại và
logistic cùng với sự gia tăng của thương mại điện tử xuyên biên giới. Tuy nhiên, mức độ thực
hiện các biện pháp trên là không đồng đều tại các quốc gia thành viên ASEAN. Do đó, lợi ích
tiềm tàng đến từ thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới sẽ là rất lớn, đặc
biệt khi các quốc gia cùng hợp tác và phát triển một cơ sở pháp lý và kỹ thuật thống nhất giúp
cho việc trao đổi xuyên suốt dữ liệu và chứng từ liên quan tới các quy định và giao dịch
thương mại dọc chuỗi cung tồn cầu.
Từ khóa: Thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới, thương mại phi giấy tờ, ASEAN
1. Lời mở đầu
Thuận lợi hóa thương mại có mục tiêu xuyên suốt hướng tới ―đơn giản hóa, hài hịa
hóa và tiêu chuẩn hóa những thủ tục trong thương mại quốc tế‖, qua đó cắt giảm chi phí
thương mại, thúc đẩy hoạt động thương mại giữa các quốc gia nhanh hơn, rẻ hơn và dễ dự
đoán hơn (ESCAP, 2002). Đây được coi là lĩnh vực trọng tâm trong quá trình hội nhập kinh tế
tại ASEAN (AJC, 2017). Bằng cách cải thiện cơ sở hạ tầng cứng và thực thi các biện pháp
thuận lợi hóa thương mại trong khu vực, chi phí lưu thơng hàng hóa xun biên giới giữa các
quốc gia thành viên và với các đối tác thương mại khác sẽ được giảm thiểu, nhờ đó các quốc
gia thành viên trong khu vực sẽ tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu
(Shepherd, 2016). Khi việc thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại tại khu vực Châu
Á Thái Bình Dương được tăng cường ở mức độ trung bình, GDP tồn khu vực có thể tăng
thêm 0,32% hàng năm trong thời kỳ 2015-2030, tương đương 87 tỷ đơ la Mỹ mỗi năm. Thêm
vào đó, hàng loạt các vấn đề tiêu cực về xã hội và mơi trường đi liền với tự do hóa thương
mại và đầu tư cũng sẽ được giảm thiểu (ESCAP, 2017).
Tuy nhiên, bối cảnh mới với sự tăng trưởng nhanh của thương mại hàng hóa hữu hình
và phát triển như vũ bão của thương mại điện tử trong nền kinh tế số, các biện pháp thuận lợi


hóa thương mại ngày càng coi trọng việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông hiện
đại vào các thủ tục thương mại gắn liền với sự di chuyển hàng hóa hữu hình và thương mại
điện tử xuyên biên giới. Các biện pháp đó được gọi là các biện pháp thuận lợi hóa thương mại
điện tử/ hoặc các biện pháp thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ. Đây chính là các biện pháp
thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới (Duval, và cộng sự, 2019). Với mục tiêu hình thành một
thị trường sản xuất đơn nhất, các quốc gia ASEAN đã rất nỗ lực trong việc nâng cao hiệu quả
của các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới tối đa, đặc biệt thông qua thực thi các
1018


hệ thống hải quan tự động, một cửa điện từ và các sáng kiến hải quan và các biện pháp thuận
lợi hóa thương mại điện tử khác (Duval, và cộng sự, 2019), nhưng mức độ thực hiện các biện
pháp trên là không đồng đều tại các quốc gia thành viên ASEAN. Bên cạnh đó, cũng như có
rất ít các nghiên cứu về thực trạng thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới
tại Việt Nam trong tương quan với các quốc gia thành viên ASEAN khác.
Nghiên cứu này hướng tới lấp đầy khoảng trống nghiên cứu trên với mục tiêu làm rõ
các quy định về các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới trong các Hiệp định
thương mại tự do (FTA) quốc tế và khu vực ASEAN. Đồng thời, nghiên cứu cũng tiến hành
phân tích thực trạng thực thi các biện pháp trên của các nước ASEAN. Để thực hiện được
mục tiêu trên, ngoại trừ phần mở đầu, nghiên cứu được chia thành ba phần: định nghĩa về các
biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới, so sánh về các quy định liên quan tới các biện
pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới của Hiệp định Thuận lợi hóa thương mại của WTO
(WTO TFA) và các hiệp định thương mại tự do của khu vực ASEAN; và thực trạng thực thi
các biện pháp trên của các quốc gia thành viên ASEAN.
2. Khái niệm và lợi ích của các biện pháp thuận lợi hóa thƣơng mại thế hệ mới
Để hiểu rõ về các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới, trước hết cần hiểu
rõ về khái niệm thương mại phi giấy tờ. Thương mại phi giấy tờ được tiến hành trên cơ sở các
chứng từ số, ví dụ các tờ khai hải quan điện tử, chứng nhận xuất xứ điện tử (Duval, và
Mengjing, 2017). Hệ thống thương mại phi giấy tờ bao gồm các khung khổ pháp lý và kỹ
thuật trong đó các giao dịch thương mại phi giấy tờ diễn ra như các cơ sở hải quan điện tử

một cửa, khung pháp lý cho giao dịch điện tử. Nói cách khác, thương mại phi giấy tờ thường
đề cập đến tổ chức các giao dịch thương mại quốc tế sử dụng điện tử hơn là dữ liệu và văn
bản bằng giấy (Ha và Lim, 2014). Theo điều 3, Hiệp định khung về thuận lợi hóa thương mại
thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới tại Châu Á Thái Bình Dương, ―thương mại phi giấy tờ
hàm ý thương mại hàng hóa, bao gồm xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh và các dịch vụ liên
quan, diễn ra trên cơ sở các liên lạc điện tử, bao gồm trao đổi dữ liệu và chứng từ liên quan
tới thương mại dưới hình thức điện tử‖ (ESCAP, 2019, 3). Khái niệm này có thể được diễn
giải cụ thể hơn như sau:
- Thương mại ―diễn ra trên cơ sở của các thông tin liên lạc điện tử, bao gồm trao đổi
dữ liệu và chứng từ thương mại có liên quan dưới dạng mẫu điện tử‖ (ESCAP, 2019, 3).
- Mục tiêu cuối cùng của thương mại phi giấy tờ là phi vật chất hóa tất cả dịng
thơng tin đi cùng với một giao dịch nhất định cho tất cả các bên liên quan (Duval, và cộng
sự, 2019).
- Các sáng kiến thương mại phi giấy tờ thương tập trung vào thuận lợi hóa dịng dữ
liệu và chứng từ giữa các doanh nghiệp và chính phủ (BtoG) và/hoặc giữa các chính phủ
(GtoG) (Duval, và cộng sự, 2019).
Trong bối cảnh thương mại quốc tế, thương mại phi giấy tờ được xem như một tác
nhân nền tảng của thương mại điện tử xuyên biên giới, với các điều khoản chung về thương

1019


mại phi giấy tờ hoặc giao dịch thương mại phi giấy tờ ngày càng được bao gồm trong các
chương thương mại điện tử của các hiệp định thương mại vùng hoặc hiệp định đối tác kinh tế.
Do đó, thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới, theo điều 7 của Hiệp định Khung, sẽ tập
trung vào việc thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại điện tử tại cửa khẩu quốc gia
và các biện pháp thuận lợi hóa thương mại điện tử xuyên biên giới, thông qua việc cho phép
trao đổi dữ liệu và chứng từ dưới hình thức điện tử. Theo Khảo sát Toàn cầu của Liên hiệp
quốc về thực thi Thuận lợi hóa Thương mại và Thương mại phi giấy tờ (UN, 2019), các biện
pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới được cụ thể hóa như sau:

Thứ nhất, nhóm các biện pháp thuận lợi hóa thương mại điện tử tại cửa khẩu quốc gia:
- Hệ thống hải quan tự động
- Kết nối Internet sẵn có cho hải quan và các cơ quan quản lý thương mại khác tại
xuyên biên giới
- Hệ thống hải quan một cửa điện tử
- Nộp tờ khai điện tử
- Ứng dụng và phát hành giấy phép trên nền tảng điện tử, nếu được yêu cầu
- Nộp trực tuyến các bản lược khai vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng khơng
- Nộp trực tuyến các bản lược khai vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy
- Ứng dụng và phát hành chứng nhận xuất xứ ưu đãi trên nền tảng điện tử
- Thanh tốn điện tử các khoản phí và lệ phí hải quan
- Ứng dụng điện tử cho hồn phí hải quan
Thứ hai, nhóm các biện pháp thuận lợi hóa thương mại điện tử xuyên biên giới, tức là
các quốc gia đối tác kết hợp thực thi để tạo ra sự đồng bộ, liên thông giữa các cơ quan quản lý
cửa khẩu:
- Luật và quy định đối với các giao dịch điện tử
- Cơ quan chứng nhận được công nhận
- Trao đổi tờ khai hải quan trên nền tảng điện tử
- Trao đổi giấy chứng nhận xuất xứ trên nền tảng điện tử
- Trao đổi giấy chứng nhận SPS trên nền tảng điện tử
- Phương thức thu hộ điện tử áp dụng cho chứng từ tín dụng thư
Trong bối cảnh nền kinh tế số ASEAN đang phát triển mạnh mẽ, dự kiến sẽ tăng mạnh
6,4 lần, từ 31 tỷ đô la Mỹ năm 2015 lên 197 tỷ vào năm 202532 và là động lực tăng trưởng
kinh tế của nền kinh tế vùng (ERIA, 2019), thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới sẽ đóng vai
trị ngày càng quan trọng trong việc duy trì năng lực cạnh tranh về thương mại của vùng và
giúp giải quyết các thách thức trong quản lý thương mại, và logistic phát sinh khi thương mại
điện tử xuyên biên giới tăng trưởng quá nhanh (Duval, và cộng sự, 2019).Thuận lợi hóa
thương mại thế hệ mới sẽ giúp tiết kiệm rất nhiều loại chi phí thương mại khác nhau khác
nhau, bao gồm cả chi phí trực tiếp (ví dụ, chi phí phát sinh khi các cơng ty phải chuẩn bị
32


truy cập vào 3pm ngày 13 tháng 1 năm 2020

1020


chứng từ và tuân thủ các thủ tục hải quan truyền thống) và chi phí gián tiếp (ví dụ, hàng hóa
được lưu thơng xun suốt hơn, thời gian lưu kho hàng hóa ngắn hơn). Thuận lợi hóa thương
mại thế hệ mới đồng thời mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) tham gia
hiệu quả hơn vào thương mại xuyên biên giới, nộp chứng từ vận tải thủy đúng thời gian và
giảm các sai sót trong quá trình nhập lại dữ liệu. Thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới cũng
giúp cắt giảm thời gian thông quan, giúp tăng hiệu quả của cảng, giảm tắc nghẽn tại cảng và
các vấn đề có liên quan.
Nếu dịch chuyển từ phương thức thương mại truyền thống (dựa trên giấy tờ) sang
thương mại phi giấy tờ, khu vực Châu Á Thái Bình Dương sẽ thu được lợi ích ước tính từ 36
tỷ tới 257 tỷ đô la Mỹ, phụ thuộc vào quy mơ tự động hóa và phi vật chất hóa thủ tục và
chứng từ. Hơn nữa, thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới cũng giúp khu vực cắt giảm chi phí
khoảng 7 tỷ đơ la Mỹ và tiết kiệm được 24% thời gian xuất khẩu (Shepherd và Duval, 2015).
Các quốc gia thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới sẽ thu được lợi ích
gấp đôi so với chỉ thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại truyền thống của WTO
TFA. Đồng thời, UN (2019) cũng công bố rằng thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương
mại bởi các đối tác thương mại có thể giảm đáng kể chi phí thương mại của một quốc gia. Do
đó, để cắt giảm chi phí thương mại và tăng cường thương mại, các chính phủ nên chủ động
phối hợp thực hiện, đặc biệt là các sáng kiến thuận lợi hóa thương mại điện tử xuyên biên
giới, ngay cả khi thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại điện tử tại cửa khẩu của
quốc gia đó đang ở mức cao.
3. Thuận lợi hóa thƣơng mại thế hệ mới trong khuôn khổ đa phƣơng và khu vực ASEAN
Trong khuôn khổ đa phương, phạm vi của thuận lợi hóa thương mại được giới hạn vào
những chủ đề được bao phủ trong ba điều khoản của Hiệp định chung về thương mại và thuế
quan (GATT) là V, VIII và X. Sau đó, Hiệp định thuận lợi hóa thương mại (TFA) ra đời và

được kỳ vọng sẽ cải thiện tính minh bạch, khả năng tham gia chuỗi giá trị tồn cầu và giảm
mức độ tham nhũng có liên quan tới các thủ tục hải quan và thủ tục thương mại. Các điều
khoản tập trung vào các thủ tục hải quan, như giải phóng và thơng quan hàng hóa, bao gồm
hàng hóa quá cảnh, các biện pháp hợp tác hiệu quả giữa hải quan và các cơ quan phù hợp
khác trong thuận lợi hóa thương mại, và các điều khoản về hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng
lực ở lĩnh vực hải quan. Tuy nhiên, việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin và truyền thơng cũng
như số hóa các thủ tục, chứng từ liên quan tới thương mại xuyên biên giới chưa thực sự được
chú trọng và các biện pháp thuận lợi hóa thương mại vẫn tập trung vào các thủ tục thương mại
truyền thống sử dụng giấy tờ. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các điều
khoản của TFA chỉ được đề cập tới trong một số điểm như:
Để cải thiện tính sẵn có của thông tin về quy định và thủ tục của các thị trường
xuất khẩu, TFA đã yêu cầu các quốc gia thành viên đã phê chuẩn cần xuất bản thông tin trực
tuyến về thủ tục xuất nhập khẩu trong phạm vi nguồn lực sẵn có, và thành lập các điểm liên
lạc để nhận và phản hồi các yêu cầu của doanh nghiệp xuất, nhập khẩu;

1021


- Tự động hóa và cung cấp các dịch vụ điện tử, trong đó các chứng từ điện tử và

thanh tốn điện tử có thể được chấp nhận nếu phù hợp;
- Khuyến khích các quốc gia nên thành lập hải quan một cửa hoặc một số điểm hỏi
đáp để hài hịa hóa quy trình và tiêu chuẩn giữa các quốc gia, nâng cao tính minh bạch, dễ dự
báo của các quy trình và thủ tục thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác các cơ
quan biên giới và hợp tác hải quan.
Trong khuôn khổ khu vực, các điều khoản về thuận lợi hóa thương mại trong hội nhập
khu vực ASEAN đã phát triển một thời gian dài và được quy định bởi nhiều tầng lớp hiệp
định và tuyên bố khác nhau. Ban đầu, Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) chỉ tập trung
vào cắt giảm thuế quan thông qua thực thi Hiệp định Thuế quan Ưu có hiệu lực chung (CEPT)
và chưa chú trọng tới thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại. Sau đó, trong bản kế

hoạch chi tiết của Cộng động Kinh tế ASEAN (AEC) được thông qua vào năm 2007, rất
nhiều phần thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại từ năm 2008 tới 2015 đã được
xác định. Một bước tiến xa nữa đối với hội nhập khu vực ASEAN là việc khối thông qua Hiệp
định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) vào năm 2009. Hiệp định có hiệu lực vào ngày
17/5/2010, củng cố và hợp lý hóa tất cả các điều khoản của CEPT và các hiệp định hợp tác
kinh tế có liên quan khác thành một cơng cụ pháp lý duy nhất. Thuận lợi hóa thương mại
được chú trọng hơn và được quy định khá rõ ràng trong điều 46, 47 của ATIGA.
Dựa trên các điều khoản của ATIGA, khối ASEAN đã tiếp tục ban hành Khung thuận
lợi hóa thương mại. So với phạm vi của Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại của WTO,
Khung thuận lợi hóa thương mại (ATFF) của ASEAN có phạm vi rộng hơn, bao gồm thuận
lợi hóa hải quan và vận tải, minh bạch của các quy định và thủ tục, tiêu chuẩn và sự phù hợp,
sự tham gia của khu vực tư nhân. Đồng thời, chương trình hành động thuận lợi hóa thương
mại của ASEAN có thêm các đặc thù của khu vực là vấn đề quy tắc xuất xứ ATIGA, hội nhập
hải quan ASEAN.
Đồng thời, ASEAN đã nhấn mạnh hơn việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông như một biện pháp trọng tâm của thuận lợi hóa thương mại của khối. Trong Hiệp định
ATIGA, điều khoản 47, Khung Thuận lợi hóa thương mại, và Bản kế hoạch chi tiết AEC đều
đã nêu rõ ―Hiện đại hóa và sử dụng công nghệ mới‖ là một trong những nguyên tắc cơ bản
của thuận lợi hóa thương mại của khối. Trên nền tảng khoa học cơng nghệ, tồn khối ASEAN
hướng tới phát triển các quy trình, thủ tục hải quan và trao đổi thơng tin theo hướng đơn giản
hóa, hài hịa hóa và chuẩn hóa; củng cố sự phối hợp giữa các cơ quan hải quan; xây dựng hệ
thống hải quan điện tử; thiết lập hải quan một cửa quốc gia; và xây dựng hệ thống một cửa
tích hợp của tồn ASEAN (Layton, 2008). Đồng thời, điều 13 của ATIGA cũng đã nêu rõ các
nội dung liên quan tới Kho dữ liệu thương mại ASEAN.
Sau đó, một số sáng kiến thuận lợi hóa thương mại do ASEAN khởi xướng đã được
tiến hành và làm cơ sở cho việc thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới
như sau:

1022



- Hiện đại hóa và hội nhập hải quan trong đó các quốc gia thành viên ASEAN đã

tham gia tăng cường hiện đại hóa các kỹ thuật và thủ tục hải quan với mục tiêu tăng cường
thuận lợi hóa thương mại và xúc tiến q trình thơng quan hàng hóa tại hải quan;
- Cơ chế một cửa trong đó các quốc gia thành viên ASEAN đã thông qua Hiệp định
Thiết lập và Thực thi ASEAN Một cửa vào năm 2005, cho phép các công ty trong lĩnh vực
thương mại và vận tải được đăng ký một chứng từ và/hoặc tiếp cận dữ liệu tiêu chuẩn tại duy
nhất một điểm đăng ký để đồng thời thực hiện nhập khẩu, xuất khẩu và các yêu cầu quy định
quá cảnh trong các quốc gia ASEAN. Cơ chế một cửa cũng cho phép trao đổi giấy chứng
nhận xuất xứ (C/O). C/O sẽ được phát hành trực tuyến và có thể thay thế C/O giấy tại các
quốc gia có thỏa thuận với nhau. Đồng thời, tất cả những điều chỉnh/sửa đổi hoặc kiểm tra
liên quan cũng sẽ được thực hiện trực tuyến, từ đó giúp tiết kiệm thời gian, công sức;
- Kho dữ liệu thương mại ASEAN (ATR) là một giao diện điện tử, thông qua đó mọi
người có thể tiếp cận tự do các thơng tin sẵn có trên kho tư liệu thương mại quốc gia (NTR)
của từng quốc gia thành viên ASEAN. ATR bao gồm thông tin về các chủ đề sau: biểu thuế
quan; thuế suất tối huệ quốc, thuế suất ưu đãi theo Hiệp định ATIGA và các hiệp định khác
của ASEAN với các đối tác đối thoại; Quy tắc xuất xứ …Mục tiêu của ATR là cải thiện tính
minh bạch, đóng vai trị như một cổng thơng tin thương mại ở cả cấp độ khu vực và quốc gia.
So với các mức độ bao phủ rộng trong ATIGA và Kế hoạch chi tiết AEC, các điều
khoản thuận lợi hóa thương mại trong các FTAs +1 của ASEAN thiếu tính cụ thể và cam kết
sâu. Năm lĩnh vực chủ chốt trong hợp tác thuận lợi hóa thương trong phạm vi các FTA+1 của
ASEAN bao gồm: thủ tục và hợp tác hải quan; rào cản kỹ thuật đối với thương mại và biện
pháp SPS; rào cản thương mại phi thuế quan (NTBs), đặc biệt các phí và thuế quản lý; tính
minh bạch hóa của luật, quy định và các quy tắc hành chính; và sử dụng công nghệ thông tin
và truyền thông (ITC) và thương mại điện tử (Bin, 2008).
Bảng 1: Bảng tóm tắt các điều khoản thuận lợi hóa thương mại trong ASEAN
và các ASEAN+1 FTA
Nội dung thuận lợi hóa thương mại ASEAN ANZFTA ACFTA AIFTA AJCEP AKFTA
Thủ tục và hợp tác hải quan


X

Các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật
và các biện pháp SPS

X

NTBs, đặc biệt là phí và lệ phí
hành chính

X

Tính minh bạch của luật, quy địn
và các quy tắc hành chính
Sử dụng ICT và thương mại
điện tử

X

X

X

X

X

X


X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X


X

X

X

Nguồn: Wong và Pellan (2012)
Các thủ tục hải quan được xác định là lĩnh vực hợp tác trong tất cả các FTA của
ASEAN. Tuy nhiên, về việc sử dụng ICT và thương mại điện tử, Hiệp định Đối tác Kinh tế
1023


toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP), Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ
(AIFTA), Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định thương
mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA) chỉ xác định ICT và thương mại điện tử như các
lĩnh vực trong đó sự phối hợp giữa các bên có thể được củng cố, hoặc các hoạt động hợp tác
kinh tế có thể được thực hiện. ANZFTA tiến bộ hơn khi đã bao gồm các điều khoản chi tiết về
ICT và thương mại điện tử, các điều khoản về củng cố hợp tác giữa các bên về thương mại
điện tử và thương mại phi giấy tờ. Điều này cho thấy, dù đã có nhiều lĩnh vực chung liên quan
tới thuận lợi hóa thương mại, nhưng năm FTA của ASEAN, bao gồm AJCEP, AIFTA,
ACFTA, ANZFTA và AKFTA chưa có một cách tiếp cận nhất quán về vấn đề này. Đồng
thời, chỉ có duy nhất Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Australia - New Zealand
(AANZFTA) có các nội dung liên quan tới một số biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ
mới như thương mại phi giấy tờ, đánh giá rủi ro, thông báo kết quả trước và cơ chế một cửa.
Một trong những dấu mốc quan trọng đánh dấu vai trị ngày càng quan trọng của cơng
nghệ thơng tin và truyền thơng đối với thuận lợi hóa thương mại và xa hơn là các biện pháp
thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới là các quốc gia thành viên ASEAN tham gia ký kết Hiệp
định khung về thuận lợi hóa thương mại thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới tại Châu Á
Thái Bình Dương được thơng qua bởi các quốc gia thành viên Liên Hiệp quốc ESCAP vào
tháng 5 năm 2016. Hiệp định khung có 53 thành viên, hướng tới thuận lợi hóa thương mại phi

giấy tờ (trao đổi dữ liệu) giữa các thành viên của Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á Thái Bình
Dương (ESCAP) bằng cách cung cấp một khung khổ liên chính phủ dành riêng cho phát triển
các giải pháp pháp lý và cơng nghệ. Hiệp định khung đóng vai trị bổ trợ cho WTO TFA cũng
như các nỗ lực thuận lợi hóa thương mại khác của khu vực. Một số điều khoản đáng chú ý của
Hiệp định khung về thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới như sau:
- Điều 5: quy tắc chung: bao gồm 7 quy tắc, trong đó đáng chú ý là quy tắc không
phân biệt đối xử trong sử dụng giao tiếp điện tử, cải thiện niềm tin xuyên biên giới, phối hợp
giữa khu vực nhà nước và tư nhân.
- Điều 8: công nhận chung xuyên biên giới về dữ liệu và chứng từ liên quan tới
thương mại dưới dạng mẫu điện tử từ các bên (đối tác thương mại) khác nhau trên cơ sở mức
độ tin cậy tương đương.
- Điều 11: sự phối hợp về thể chế: hướng tới thiết lập một hội đồng thương mại phi
giấy tờ bao gồm các nhân sự cấp cao từ mỗi thành viên ESCAP. Đồng thời, hội đồng sẽ được
hỗ trợ bởi một ủy ban thường trực, giám sát và phối hợp thực thi hiệp định khung và gửi các
đề xuất cho hội đồng để xem xét. Các ủy ban thường trực sẽ thành lập các nhóm hành động để
báo cáo tình hình thực thi các chương trình hành động có liên quan.
4. Thực trạng thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thƣơng mại trong bối cảnh cơng
nghệ số ở ASEAN
Để đánh giá mức độ thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại cụ thể của các
quốc gia thành viên ASEAN, tác giả sử dụng hai bộ số liệu. Thứ nhất là bộ Chỉ số Thuận lợi
hóa thương mại (TFI) của OECD, bao phủ toàn diện thủ tục hải quan và các quy định về thủ
1024


tục thương mại khác tại biên giới được quy định trong TFA. Bộ chỉ số gồm 133 biến, chia
thành 11 khía cạnh chính sách: Tính sẵn có của thơng tin (A); Sự tham gia của cộng đồng
thương mại (B); Quy định trước (C); thủ tục kháng cự (D); Phí và lệ phí (E); Chứng từ (F);
Thủ tục (H); Sự hợp tác của các cơ quan biên giới trong quốc gia (I); Hợp tác giữa các cơ
quan biên giới ngoài quốc gia (J); quản trị và công bằng (K). TFI là cơng cụ hữu ích nhằm
giám sát và cho điểm mức độ thực thi của một quốc gia đối với các biện pháp thuận lợi hóa

thương mại chung, với thang điểm từ 0 (thực thi kém nhất) và 2 (thực thi tốt nhất). Mức độ
thực thi 11 mục cụ thể của TFA của các quốc gia thành viên ASEAN được biểu diễn cụ thể
trong đồ thị 1 và 2.

Nguồn: />Đồ thị 1: So sánh mức độ thực thi thuận lợi hóa thương mại
của các quốc gia thành viên ASEAN phân theo nhóm biện pháp năm 2017

Nguồn: />Đồ thị 2: So sánh mức độ thực thi thuận lợi hóa thương mại
của các quốc gia thành viên ASEAN năm 2017
1025


Nhóm K (quản trị và cơng bằng) và nhóm E (Phí và lệ phí) là nhóm biện pháp thuận
lợi hóa thương mại được thực thi tốt nhất ở khu vực ASEAN với tổng số điểm thực thi của 10
quốc gia lần lượt là 16,95/20 và 16,62/20. Trái lại, các nhóm biện pháp phối hợp giữa các cơ
quan biên giới, với các cơ quan nước ngoài (J) và trong nước (I) và thủ tục – tự động hóa (G)
là điểm yếu nhất của các quốc gia thành viên ASEAN khi điểm thực thi lần lượt là 8,05; 9,26
và 10,59. Điểm thực hiện của ba nhóm này tai mỗi quốc gia thành viên ASEAN khơng đồng
đều và có sự phân hóa rõ ràng. Tại nhóm J và I, Singapore (SGP), Brunei (BRN) là hai quốc
gia thực thi phối hợp giữa các cơ quan hải quan tốt nhất tại khu vực. Tại nhóm G, Singapore,
Thái Lan (THA), Brunei, và Việt Nam (VNM) là bốn quốc gia có điểm số thực hiện vượt trội
so với nhóm các quốc gia cịn lại, đạt lần lượt là 2; 1,72; 1,61; và 1,38. Các còn lại của nhóm
CLMV là Lào (LAO), Myanmar (MMR), Campuchia (KHM) có chỉ số thực hiện tự động hóa
thủ tục rất thấp, lần lượt là 0,25; 0,4; và 0,6. Thực tế này cho thấy cơ sở hạ tầng thông tin và
truyền thông ở các quốc gia ASEAN phát triển không đồng đều. Một số quốc gia đã có cơ sở
hạ tầng thơng tin truyền thông khá tốt, tuy nhiên, một số quốc gia khác trình độ phát triển cịn
rất hạn chế. Do đó, trong ngắn hạn, việc triển khai các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế
hệ mới trong khn khổ WTO TFA dựa trên nền tảng công nghệ thông tin và truyền thơng sẽ
gặp nhiều thách thức.
Phân tích cụ thể hơn về thực trạng thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế

hệ mới, tác giả tiếp tục sử dụng kết quả từ nguồn số liệu thứ hai, Khảo sát Tồn cầu về Thực
thi Thuận lợi hóa thương mại và Thương mại phi giấy tờ do Ủy ban Vùng Liên hiệp quốc
(UNRCs) phối hợp với các đối tác toàn cầu và khu vực tiến hành. Phạm vi nội dung của cuộc
khảo sát bao gồm 38 biện pháp thuận lợi hóa thương mại và thương mại phi giấy tờ, chia
thành bốn nhóm: các biện pháp thuận lợi hóa thương mại chung (WTO TFA), các biện pháp
thương mại phi giấy tờ, các biện pháp thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới, các biện pháp
thuận lợi hóa thương mại quá cảnh. Trong phạm vi của bài viết, tác giả tập trung vào thực
trạng thực thi của một số các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới thuộc hai nhóm
biện pháp thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ và các biện pháp thương mại phi giấy tờ
xuyên biên giới (do sự phân hóa về thực trạng thực thi của các quốc gia thành viên ASEAN
và hạn chế về số liệu, nên tác giả chỉ lựa chọn một số biện pháp trọng tâm trong khn khổ
ASEAN và có đầy đủ số liệu) và một số biện pháp thuận lợi hóa thương mại thuộc nhóm
chung như: Hội đồng thuận lợi hóa thương mại (TLHTM) quốc gia (tiền đề quan trọng trong
việc thực thi thuận lợi hóa thương mại) và Xuất bản các quy định liên quan tới XNK trên
internet (là bước đầu của việc ứng dụng ICT, minh bạch hóa thủ tục XNK, và tiến tới thực thi
các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới khác) của 9 quốc gia ASEAN: Cambodia,
Lào, Myanmar, Việt Nam trong bảng 3 và nhóm nước ASEAN5: Singapore, Indonesia,
Malaysia, Philippines và Thái Lan trong bảng 4. Thực trạng thực thi được chia thành 4 cấp
độ: Thực thi toàn diện (FI); Thực thi một phần (PI); Đang có kế hoạch thực thi (PS); Chưa
thực thi (NI).

1026


Bảng 3: Thực trạng thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ
của nhóm nước CLMV năm 2019
Myanmar Việt Nam

Cambodia


Lào

Hội đồng TLHTM quốc gia

PI

FI

FI

PI

Xuất bản các quy định liên quan tới XNK trên
internet

FI

FI

PI

PI

Tham vấn các bên liên quan về các bản thảo quy
định mới

FI

PI


PI

FI

xuất bản/thông báo trước về các quy định mới
trước khi thực thi

PI

PI

PI

FI

Hệ thống hải quan điện tử/tự động

FI

PI

PI

FI

hệ thống hải quan một cửa

PI

PS


PI

PI

Luật và quy định về giao dịch điện tử

NI

PI

PI

PI

Cơ quan chứng nhận được công nhận

NI

PS

PI

PI

Khung pháp lý quốc gia và sắp xếp thể chế sẵn
có để đảm bảo cho các cơ quan biên giới hợp tác
với các quốc gia khác

FI


FI

PI

PI

Thỏa thuận về thời gian thông quan với các quốc
gia láng giềng tại biên giới

PI

PI

PS

PI

Thỏa thuận về thủ tục thông quan với các nước
láng giềng tại các cửa khẩu biên giới

PI

PI

PS

PI

SMEs tiếp cận một cửa


PI

NI

PS

NI

SMEs trong hội đồng thuận lợi hóa thương mại
quốc gia

PI

NI

PS

NI

Nguồn: UN Global Survey on Digital and Sustainable Trade Facilitation 2019
Đối với nhóm các biện pháp liên quan tới WTO TFA, các quốc gia thành viên
ASEAN đã thực thi khá tốt. 67,7% các quốc gia thành viên ASEAN đã thành lập hội động
thuận lợi hóa thương mại quốc gia. 33,3% các quốc gia còn lại đều đã thực thi một phần.
Trong trường hợp của Việt Nam, nước này chưa có Ủy ban TLHTM quốc gia, tuy nhiên, một
Ủy ban chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN, cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận
lợi thương mại đã được thành lập vào năm 2016 theo Quyết định số 1899/QĐ-TTG ngày 04
tháng 10 năm 2016.
Một điều đáng ngạc nhiên là mức độ thực thi biện pháp Hải quan một cửa và Hải quan
tự động tại nhóm nước CLMV không cao, chủ yếu ở mức độ thực thi một phần dù hai biện pháp

này luôn được coi là trọng tâm trong thực thi thuận lợi hóa thương mại tại khối ASEAN, trong
khi nhóm năm nước phát triển hơn đạt mức độ thực thi khá đồng đều và đều ở mức thực thi toàn
diện. Tại Việt Nam, hệ thống Hải quan một cửa đã thực sự là bước đà quan trọng trong thực thi
biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới khác. Hệ thống đã có tổng cộng 13 Bộ, ngành
1027


tham gia kết nối, triển khai 173 thủ tục hành chính, xử lý 1,97 triệu bộ hồ sơ và trên 28 nghìn
doanh nghiệp tính đến ngày 15 tháng 3 năm 2019. Trong thời gian từ ngày 01 tháng 01 năm
2018 đến ngày 15 tháng 3 năm 2019, tổng số C/O mẫu D do Việt Nam gửi đi là 121,198; tổng
số C/O mẫu D Việt Nam nhận được từ các nước ASEAN là 69,26433. Tuy nhiên, thực thi hệ
thống Hải quan một cửa của Việt Nam vẫn chưa thực sự ―sát với quy định tại các văn bản pháp
luật, mức độ hài lòng của doanh nghiệp chưa cao, số lượng doanh nghiệp tham gia chưa nhiều,
chưa đảm bảo tạo thuận lợi thương mại với chống gian lận thương mại‖34.
Bảng 4: Thực trạng thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ
của nhóm nước ASEAN5 năm 2019
Singapore Indonesia Malaysia Philippines Thailand
Hội đồng TLHTM quốc gia

PI

FI

FI

FI

FI

Xuất bản các quy định liên quan tới XNK

trên internet

FI

FI

FI

FI

FI

Tham vấn các bên liên quan về các bản
thảo quy định mới

FI

PI

FI

FI

FI

xuất bản/thông báo trước về các quy định
mới trước khi thực thi

FI


FI

FI

FI

FI

Hệ thống hải quan điện tử/tự động

FI

FI

FI

FI

FI

Hệ thống hải quan một cửa

FI

FI

FI

PI


FI

Luật và quy định về giao dịch điện tử

FI

PI

FI

PI

PI

Cơ quan chứng nhận được công nhận

FI

NI

FI

PI

FI

Khung pháp lý quốc gia và sắp xếp thể
chế sẵn có để đảm bảo cho các cơ quan
biên giới hợp tác với các quốc gia khác


FI

PI

PI

PI

PI

Thỏa thuận về thời gian thông quan với
các quốc gia láng giềng tại biên giới

FI

FI

FI

NA

FI

Thỏa thuận về thủ tục thông quan với các
nước láng giềng tại các cửa khẩu biên giới

FI

FI


FI

NA

FI

SMEs tiếp cận một cửa

FI

NI

FI

NI

PI

SMEs trong hội đồng thuận lợi hóa
thương mại quốc gia

FI

NI

FI

NI

NI


Nguồn: UN Global Survey on Digital and Sustainable Trade Facilitation 2019
Trong số các biện pháp thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới, hai biện pháp, Luật và
quy định cho giao dịch điện tử và cơ quan cấp chứng nhận được công nhận là những tiền đề
hướng tới hiện thực hóa trao đổi và cơng nhận pháp lý của dữ liệu và chứng từ liên quan tới
thương mại không chỉ giữa các bên liên quan trong phạm vi một quốc gia mà còn giữa các
33
34

truy cập lúc 10 a.m ngày 15 tháng 1 năm 2020
truy cập lúc 10 a.m ngày 15 tháng 1 năm 2020

1028


bên liên quan dọc chuỗi cung ứng. Ở cấp độ khu vực, ngoại trừ Singapore, Malaysia và Thái
Lan đã thực thi khá tốt hai biện pháp trên, các quốc gia còn lại vẫn ở giai đoạn thực thi một
phần, thậm chí khơng thực thi hai biện pháp này. Tuy hơn 70% các quốc gia các quốc gia tại
khu vực Đông Nam Á, Châu Á Thái Bình Dương tuy đã phát triển một phần khung pháp lý và
quy định cần thiết để hỗ trợ các giao dịch điện tử, nhưng các khung này chưa sẵn sàng hỗ trợ
sự nhận dạng pháp lý của dữ liệu và chứng từ điện tử nhận được từ các bên tại các quốc gia
khác. Đây cũng là thực trạng của các cơ quan chứng nhận được được công nhận, dù đã được
thiết lập bởi đa số các quốc gia thành viên ASEAN nhưng chưa hoàn thiện các bước đi cần
thiết để ban hành các chứng chỉ xuất, nhập khẩu điện tử được công nhận trong phạm vi tồn
khu vực cho các cơng ty xuất, nhập khẩu trong khu vực. Do thiếu khung thể chế là pháp lý để
hỗ trợ thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới, sự tham gia vào trao đổi dữ liệu điện tử xuyên
biên giới liên quan tới thương mại cũng bị hạn chế rất nhiều, chỉ trong một phạm vi nhỏ các
đối tác nhất định, và thường chỉ được thực thi một phần hoặc trong giai đoạn thử nghiệm. Đây
cũng chính là lý do dẫn tới sự tham gia, sử dụng các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế
hệ mới, đặc biệt là hệ thống Hải quan một cửa của SMEs rất thấp tại khu vực ASEAN. Chỉ

duy nhất Singapore và Malaysia thực thi toàn diện cơ chế để các SMEs tiếp cận hiệu quả tới
hệ thống Hải quan một cửa. Thái Lan và Cambodia đang đã thực thi một phần, Myanmar
đang trong giai đoạn lập kế hoạch và bốn quốc gia thành viên còn lại là Lào, Việt Nam,
Indonesia và Philippines chưa thực thi biện pháp này.
Tóm lại, bài viết đã tập trung phân tích các biện pháp thuận lợi hóa thương mại dựa
trên cơng nghệ thơng tin và truyền thơng tiên tiến, cịn gọi là các biện pháp thuận lợi hóa
thương mại phi giấy tờ hoặc các biện pháp thương mại thế hệ mới. Trong khi những thành tựu
đạt được trong việc thực thi các biện pháp thương mại phi giấy tờ và thuận lợi hóa thương mại
quốc gia rất đáng khích lệ thì việc thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới
xuyên biên giới vẫn ở mức thấp và phân hóa rõ rệt trong khối ASEAN. Các quốc gia phát
triển hơn trong khối ASEAN tuy đã có hệ thống thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ nhưng
khơng hồn tồn tương tác với các quốc gia thành viên khác trong khu vực bởi vì các quốc gia
kém phát triển hơn trong khu vực vẫn đang ở giai đoạn đầu phát triển hệ thống thuận lợi hóa
thương mại thế hệ mới quy mơ quốc gia. Do đó, lợi ích tiềm tàng đến từ thực thi các biện
pháp thuận lợi hóa thương mại thế hệ mới sẽ là rất lớn, đặc biệt khi các quốc gia cùng hợp tác
và phát triển một cơ sở pháp lý và kỹ thuật thống nhất giúp cho việc trao đổi xuyên xuốt dữ
liệu và chứng từ liên quan tới các quy định và giao dịch thương mại dọc chuỗi cung toàn cầu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AJC (2017). Global Value Chains in ASEAN, A Regional Perspective, Paper 1,
September 2017, [ />
1029


2. Bin, P. (2008). Trade Facilitation Provision in Regional Trade Agreements in Asia
and the Pacific, No 108, Working Paper Series, United Nations Economic and Social
Commission for Asia and the Pacific (ESCAP)
3. Duval, Y. và cộng sự (2019). Next-generation Trade Facilitation for Asian
Integration: Cross-border Paperless Trade, [ />2631684618821473]
4. Duval, Y., & Mengjing, K. (2017). Digital trade facilitation: Paperless trade in
regional

trade
agreements,
ADBI
Working
Paper
Series,
ADBI
[ />5. ERIA, (2019). Study on MSMEs Participation in the Digital Economy in ASEAN,
Nurturing ASEAN MSMEs to Embrace Digital Adoption [ />/05/ASEAN-MSME-Full-Report-Final.pdf]
6. ESCAP,
(2002).
Trade
Facilitation
Handbook
for
the
GMS
[www.unESCAP.org/tid/publication/t&ipub2224.pdf]
7. ESCAP, (2017). Trade Facilitation and Paperless Trade Implementation In Asia and
the Pacific Regional Report 2017 [ />8. ESCAP, (2019). Framework Agreement on Facilitation of Cross-border Paperless
Trade in Asia and the Pacific [ />UNESCAP%20Framework%20Agreement%20e-book.pdf]
9. Ha, S.H. and Lim, S.W., (2014). The Progress of Paperless Trade in Asia and the
Pacific: Enabling International Supply Chain Integration, ADB working paper series on
regional economic integration, No.137 [ />10. Layton, B., (2008). ‗Trade facilitation: a study in the context of the ASEAN
economic community Blueprint‘, in H. Soesastro (ed.), Deepening Economic Integration—
The ASEAN Economic Community and Beyond—ERIA Research Project Report 2007‐1‐2,
Chiba, IDE‐JETRO.
11. Shepherd, B. (2016). Trade Facilitation and Global Value Chains: Opportunities
for Sustainable Development, Issue Paper, ITCSD, [ />files/research/trade_facilitation_and_global_value_chains_0.pdf]
12. Shepherd, B. và Duval Y., (2015). ―Estimating the benefits of cross-border paperless

trade in Asia and the Pacific‖, Chapter V in Reducing Trade Costs in Asia-Pacific Developing
Countries, ESCAP Studies in Trade and Investment No. 84, United Nations, Bangkok
13. UN, (2019). Digital and Sustainable trade facilitation: global report 2019,
[ />14. Wong, M. H., và Pellan, M. I., (2012). Trade Facilitation: The Way Forward for
ASEAN and Its FTA Partners, ERIA Policy Brief, No. 2012-04, July 2012

1030



×