Tải bản đầy đủ (.docx) (169 trang)

Biện pháp tạm giam theo quy định luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 169 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HOC LƯẠT
TP. HỔ CHÍ MINH

NGUYỄN PHƯƠNG LINH

BIỆN PHÁP TẠM GIAM THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ “Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
của Tiến sỹ Lê Huỳnh Tấn Duy. Những thông tin, tài liệu trong Luận văn được thu thập
một cách khách quan, trung thực, số liệu minh chứng có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2020
rri r _

___• 2

Tác giả


Nguyễn Phương Linh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS

: Bộ luật hình sự
: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT
TA
VKS
VKSND

: Cơ quan điều tra
: Tịa án
: Viện kiểm sát
: Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TẠM GIAM ĐỐI VỚI BỊ CAN VỀ TỘI ÍT NGHIÊM TRỌNG
CĨ HÌNH PHẠT TÙ ĐẾN 02 NĂM .....................................................................6
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về tạm giam đối với bị can về tội ít •/


• O


• O


nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm.......................................................6
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tạm giam đối với bị can về
tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm..............................................15
1.3. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng quy định của pháp luật về
tạm giam đối với bị can về tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm..23
1.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp pháp luật về tạm giam đối với
bị
can về tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm...................................23
1.3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật về tạm giam đối
với
bị can về tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm.................................24
CHƯƠNG 2. THỜI HẠN TẠM GIAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA,
TRUY TỐ............................................................................................................... 27
2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về thời hạn tạm giam trong giai đoạn
*/ • • • ” • • • ~ ~ ” •
điều tra, truy tố .................................................................................................27
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của luật tố tụng hình sự về thời hạn
tạm
• 1 • ~ 1 */ • • • ” • • •
giam trong giai đoạn điều tra, truy tố..............................................................33
2.3. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng quy định của luật tố
tụng hình
sự về thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố .............................41
Kết luận Chương 2...........................................................................................43
KẾT LUẬN .........................................................................................................44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời gian qua, cải cách tư pháp đang là một trong những vấn đề được
Nhà nước, xã hội đặc biệt quan tâm và chú trọng. Một số vấn đề cấp bách như: phải
đổi mới tổ chức bộ máy, cán bộ cho phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp; nâng cao
chất lượng của đội ngũ cán bộ các ngành tố tụng như Toà án, Viện kiểm sát và Cơ
quan điều tra; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động như luật
sư, thừa phát lại và đặc biệt là hoàn thiện chế định pháp luật là một trong số những
nhiệm vụ trọng tâm mà các Nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định, cũng như từng bước thực hiện.
Quá trình thay đổi này thể hiện rõ nhất qua lộ trình sửa đổi, bổ sung các Bộ luật,
Luật và các văn bản hướng dẫn pháp luật còn hạn chế trong thực tiễn.
Hệ thống pháp luật nước ta còn rất nhiều văn bản hạn chế và có thể thấy một
trong những văn bản pháp luật cịn bất cập, hạn chế mà Quốc hội đã đưa vào lộ trình
sửa đổi để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp đó là BLTTHS năm 2003. Thực tế
thi hành trong những năm vừa qua cho thấy Bộ luật này còn tồn tại rất nhiều điểm
khiếm khuyết và gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Một trong những
hạn chế bộc lộ rõ nhất là tình trạng áp dụng biện pháp tạm giam một cách tràn lan,
kéo dài thời hạn tạm giam không cần thiết dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền con người, quyền công dân của bị can, bị cáo; không phù hợp với mục đích, ý
nghĩa mà biện pháp này mang lại. Lý do của hạn chế nêu trên phần nào do tư tưởng
của một số người tiến hành tố tụng còn cho rằng phải “tạm giam trước, điều tra sau”;
tạm giam là biện pháp điều tra tốt nhất để bị can, bị cáo cung cấp lời khai, chứng cứ

liên quan đến vụ án và có mặt ngay khi Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên triệu tập;
trình độ năng lực của một số người tiến hành tố tụng còn hạn chế, chưa hiểu đúng
nội dung các quy định của BLTTHS. Tuy nhiên, ngồi các lý do chủ quan nêu trên
thì chế định tạm giam trong BLTTHS năm 2003 cũng thể hiện rất nhiều thiếu sót mà
các nhà làm luật chưa dự liệu hết khi soạn thảo như: căn cứ để tạm giam cịn mang
tính tuỳ nghi, chung chung; khơng cho phép tạm giam đối với các trường hợp bị can
phạm tội ít nghiêm trọng, không theo kịp với tốc độ phát triển của tội phạm ngày
nay; một số quy định về thời hạn tạm giam cịn thiếu tính chặt chẽ và đồng bộ.


2
Do đó, để đảm bảo yêu cầu cải cách tư pháp cũng như để khắc phục tình trạng
tạm giam tràn lan, khơng đúng với mục đích, ý nghĩa, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi
chế định này theo hướng: quy định cụ thể, chặt chẽ căn cứ và thẩm quyền áp dụng;
cụ thể hố những căn cứ mang tính tuỳ nghi; phân chia các căn cứ tạm giam theo các
nhóm tội phạm, từ đặc biệt nghiêm trọng cho đến ít nghiêm trọng. Đồng thời, để đảm
bảo tính chặt chẽ trong thời hạn tố tụng, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi theo hướng
rút ngắn thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố.
Có thể thấy, qua hơn 02 năm áp dụng BLTTHS năm 2015 đã mang lại nhiều
chuyển biến tích cực, giảm đi phần nào tình trạng lạm dụng biện pháp tạm giam
trong giải quyết vụ án hình sự. Đây là một bước tiến lớn trong cải cách tư pháp
nhưng cũng là một thách thức cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong q trình cơng
tác. Với tư cách là người làm việc trong cơ quan tiến hành tố tụng, học viên lựa chọn
đề tài “Biện pháp tạm giam theo quy định luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm đề
tài luận văn thạc sỹ luật học nhằm hiểu rõ hơn về biện pháp ngăn chặn này, góp phần
giúp các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng chuẩn xác và đúng quy định pháp luật
hơn, phần nào tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn mà các cơ quan tiến
hành tố tụng đang gặp phải.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm

giam nói riêng theo các quy định của BLTTHS năm 2003 được rất nhiều người quan
tâm, nghiên cứu. Có thể kể đến nhiều tài liệu, cơng trình nghiên cứu về đề tài này
như đối với công tác thực hành quyền công tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn thì có
Luận án tiến sỹ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình
sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của Nguyễn Văn Điệp, Đại học
Luật Hà Nội, năm 2005; Luận văn thạc sỹ “Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Phạm Tố Phong, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
năm 2013, sách “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” do
Tiến sỹ Lê Hữu Thể chủ biên.
Ngồi ra cịn có các bài viết đã cơng bố trên các tạp chí chuyên ngành như
“Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam” của
PGS, TS Trần Văn Độ đăng trên trang Trường đại học kiểm sát; Bài viết “Về việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”
của PGS. TS. Nguyễn Đức Thuận đăng trên Tạp chí Luật học số 07/2008; Tài liệu
tập huấn kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và thi hành án hình sự do Viện


3
kiểm sát nhân dân tối cao soạn thảo năm 2013. Đối với quyền của người bị tạm giữ,
tạm giam thì có Tài liệu Hội thảo quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự:
Hồn thiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp của PGS. TS. Trần Văn Độ năm 2010.
Đối với BLTTHS năm 2015, học viên nhận thấy không nhiều bài viết hoặc
công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến biện pháp tạm giam, có thể kể đến
Luận văn thạc sỹ “Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam” của Trần Thanh Phương (năm 2018), “Biện phạm tạm giam trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của Trần Vĩnh Long (năm 2018). Nội dung của 02 luận văn này
chủ yếu là phân tích và đánh giá các quy định, căn cứ của BLTTHS năm 2015 về
biện pháp tạm giam trong thực tiễn áp dụng. Ngoài ra cịn có một số bài viết có liên
quan như: “Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định BLTTHS năm 2015” của

tác giả Hoàng Tám Phi đăng trên Tạp chí kiểm sát số 07/2018; Bài viết “Quy định về
biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả M. Nhất
đăng trên trang website của Bộ tư pháp2. Tuy nhiên, các bài viết này chủ yếu phân
tích, so sánh các điểm khác nhau giữa Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và năm
2015.
Qua nghiên cứu những cơng trình khoa học nêu trên có một số điểm học
viêncó thể kế thừa và phát triển để đưa vào luận văn thạc sỹ trên cơ sở phân tích,
đánh giá tình hình, đặc điểm và số liệu của địa bàn tỉnh Bình Thuận để mang lại hiệu
quả thiết thực hơn trong việc áp dụng biện pháp tạm giam tại địa bàn tỉnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích cuối cùng của luận văn là tìm ra các giải pháp nhằm góp phần hồn
thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
tạm giam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ cụ thể
phải giải quyết gồm:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến biện pháp tạm giam;
- Phân tích và đánh giá quy định của pháp luật về biện pháp tạm;
- Phân tích, đánh giá những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng biện
pháp tạm giam và xác định nguyên nhân;
2M.Nhất, (truy cập ngày
28/3/2020).


4
- Đề xuất các giải pháp khắc hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng quy định
của pháp luật về biện pháp tạm giam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số quy định của BLTTHS năm
2015 về biện pháp tạm giam và thực tiễn áp dụng. Đối với một số nội dung, luận văn
có sự so sánh với quy định của BLTTHS năm 2003 về biện pháp tạm giam.
Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về biện
pháp tạm giam đối với người bị can về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình
phạt tù đến 02 năm và thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố theo quy
định BLTTHS năm 2015.
- Về không gian: Luận văn khảo sát thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam trên
phạm vi cả nước, trong đó chú trọng đến địa bàn tỉnh Bình Thuận.
- Về thời gian: Luận văn khảo sát việc áp dụng biện pháp tạm giam từ năm
2017đến 06 tháng đầu năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, học viên sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu phù hợp với khoa học pháp lý, cụ thể bao gồm:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận
văn.
- Phương pháp thống kê: được áp dụng trong q trình phân tích số liệu thực
tế tại Chương 1 và Chương 2 liên quan đến trường hợp tạm giam bị can về tội ít
nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm và thời hạn tạm giam bị can, bị cáo.
- Phương pháp nghiên cứu các vụ án điển hình: nghiên cứu các vụ án thực tế
có phát sinh vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, làm rõ vướng mắc trong
quá trình áp dụng biện pháp tạm giam.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 về trình tự, thủ tục và căn cứ tạm giam. Từ đó đưa ra các bất cập, vướng mắc
và đề nghị liên ngành tư pháp trung ương có văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất.
Đồng thời nâng cao năng lực, nhận thức của cán bộ tư pháp về áp dụng biện pháp
tạm giam.



5
Kết quả nghiên cứu giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng vào thực
tiễn áp dụng pháp luật. Ngồi ra, kết quả cịn có thể sử dụng trong công tác đào đạo,
giảng dạy pháp luật.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đựợc chia
thành 02 chương:
Chương I.Tạm giam đối với bị can về tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù đến
02 năm
Chương 2. Thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố


CHƯƠNG 1
TẠM GIAM ĐỐI VỚI BỊ CAN VỀ TỘI ÍT NGHIÊM TRỌNG
CĨ HÌNH PHẠT TÙ ĐẾN 02 NĂM
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về tạm giam đối với bị can về tội ít
*/ • • • ~ ~ • • nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm
Trải qua 02 năm thi hành BLTTHS năm 2015 có thể thấy việc nhà làm luật cho
phép được tạm giam bị can về tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm đã phần
nào tháo gỡ được những khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết
vụ án hình sự, nhất là trong các trường hợp bị can bỏ trốn và phải tiến hành truy nã.
Tuy nhiên, vì đây quy định hồn tồn mới nên về mặt lý luận các cơ quan tiến hành
tố tụng vẫn còn lúng túng trong cách hiểu để vận dụng chuẩn xác vào thực tiễn. Qua
nghiên cứu các trường hợp tạm giam bị can bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng có hình
phạt tù đến 02 năm, học viên nhận thấy quy định tại khoản 3 Điều 119 BLTTHS năm
2015 khi được áp dụng lại tạo ra khơng ít khó khăn mới mà nhà làm luật chưa dự liệu
được trong quá trình xây dựng.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểmcủa biện pháp tạm giam
Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự của trường Đại học Luật thành phố Hồ

Chí Minh thì: “Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do các
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp luật
định nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án”.3 Từ khái niệm trên có thể rút ra các đặc điểm sau:
- Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS.
- Về chủ thể áp dụng: đây là biện pháp cưỡng chế mang tính quyền lực nhà
nước, tác động trực tiếp đến sự tự do của người bị áp dụng, do đó chủ thể áp dụng
phải là cơ quan, cá nhân được nhà nước trao quyền. Cụ thể, theo quy định tại khoản 5
Điều 119 thì chỉ có một số chủ thể tại các cơ quan sau đây mới có thẩm quyền áp
dụng biện pháp tạm giam:
Đối với CQĐT: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT. Tuy nhiên Quyết định
tạm giam của chủ thể này phải được VKS cùng cấp phê chuẩn thì mới có hiệu lực thi
hành.
Đối với VKS: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp
hoặc Viện kiểm sát quân sự các cấp.
3Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2017), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội
luật gia Việt Nam, tr.314.


Đối với Tịa án: Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án nhân dân các cấp hoặc
Hội đồng xét xử.
- Căn cứ, thẩm quyền, trình tự và thủ tục áp dụng được quy định chặt chẽ và
cụ thể trong luật. Bởi lẽ, đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong TTHS,
tác động trực tiếp đến quyền tự do của bị can, bị cáo do đó khi áp dụng chủ thể có
thẩm quyền phải tn theo trình tự luật định để tránh trường hợp áp dụng không
đúng, vi phạm quyền con người đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013.
- Đối tượng bị áp dụng: là bị can, bị cáo. Do đây là biện pháp nghiêm khắc
nhất trong hệ thống biện pháp ngăn chặn và tác động trực tiếp đến một trong các
quyền cơ bản của công dân quy định tại Điều 23 Hiến pháp năm 2013, dẫn đến chỉ có
cá nhân bị khởi tố hình sự (tức thời điểm này đã là bị can hoặc bị cáo) thì mới bị áp

dụng biện pháp này.
- Mục đích: là một trong những biện pháp ngăn chặn nên mục đích chủ yếu
của tạm giam là ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, gây khó khăn cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử; đảm bảo thi hành án.
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy tạm giam có ý nghĩa rất quan trọng
trong cơng tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự xã hội, kịp thời ngăn
chặn tội phạm xảy ra và là cơng cụ hữu hiệu trong q trình điều tra, xác định sự thật
của vụ án. Bên cạnh đó, mặc dù là biện pháp tác động trực tiếp đến quyền tự do của
bị can, bị cáo tuy nhiên trình tự, thủ tục và thời hạn đều được thực hiện một cách chặt
chẽ theo luật định, tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm bảo đảm quyền tự do cơ bản
của công dân được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
1.1.2. Căn cứ tạm giam đối với bị can về tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù
đến 02 năm
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong hệ thống biện pháp
ngăn chặn hiện nay, bởi lẽ tác động của tạm giam đến người bị áp dụng là khá lớn,
hạn chế phần nào quyền tự do đã được Hiến định của bị can, bị cáo. Do đó pháp luật
chỉ cho phép được tạm giam đối với người hội đủ các căn cứ luật định.
So sánh với BLTTHS năm 2003 có thể nhận thấy, trước đây nhà làm luật
không cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng được phép tạm giam bị can ít nghiêm
trọng có hình phạt đến 02 năm mà chỉ cho phép áp dụng các biện pháp ngăn chặn
khác như cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn xuất cảnh cho dù bị can có hành vi
cản trở hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Việc quy định như trên gây ra bất cập
cho các cơ quan tiến hành tố tụng như thời hạn điều tra đối với các vụ án này chỉ tối


đa 04 tháng nếu tính ln thời hạn gia hạn điều tra vụ án (khoản 2 Điều 119 BLTTHS
năm 2003 chỉ cho phép gia hạn thời hạn điều tra một lần khơng q 02 tháng đối với
tội phạm ít nghiêm trọng). Trong trường hợp này nếu bị can là người sống lang thang,
khơng có nơi cư trú ổn định thì một mặt không thể áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi
cư trú, mặc khác không thể áp dụng biện pháp tạm giam do không đủ điều kiện,

CQĐT cũng không thể cử cán bộ, trinh sát theo dõi bị can 24/24 phịng trừ trường
hợp bị can bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án, một số trường hợp
phải tạm đình chỉ điều tra vụ án, bị can để thực hiện hoạt động truy nã. Bên cạnh đó,
nếu bị can đủ điều kiện áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng trong quá
trình được tại ngoại, bị can không hợp tác với cơ quan điều tra khi triệu tập, bỏ trốn
khỏi nơi cư trú hoặc có các hành vi khác gây cản trở đến hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể áp dụng biện pháp tạm giam
để đảm bảo bị can không cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Như vậy, có thể thấy quy định tại Điều 88 BLTTHS năm 2003 chỉ mang ý
nghĩa nhân đạo mà không mang ý nghĩa đấu tranh, phòng chống tội phạm trong thực
tiễn. Cho đến khi ban hành BLTTHS năm 2015, nhà làm luật Việt Nam đã khắc phục
điểm hạn chế này bằng cách bổ sung thêm khả năng được áp dụng biện pháp tạm
giam đối với bị can về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02
năm nếu thuộc một trong hai trường hợp sau đây (khoản 3 Điều 119 BLTTHS năm
2015):
Trường hợp thứ nhất: Bị can tiếp tục phạm tội.
BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn khơng quy định hoặc giải thích
cụm từ “tiếp tục phạm tội” như thế nào. Tuy nhiên về mặt ngôn ngữ, “tiếp tục” có
nghĩa là giữ sự nối tiếp, sự liên tục, hoạt động, không ngừng, không thôi 4; “phạm tội”
là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.
Như vậy, theo định nghĩa trên, tiếp tục phạm tội là trường hợp người thực hiện
hành vi phạm tội đã thực hiện tiếp nối một hành vi nguy hiểm cho xã hội khác
màBLHS quy định là tội phạm. Trong trường hợp này, mặc dù bị can bị khởi tố vềtội
ít nghiêm trọng, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn (điểm a khoản 1
Điều 9 BLHS năm 2015) nhưng để đảm bảo bị can không tiếp tục thực hiện các hành
vi vi phạm pháp luật xâm hại đến các quan hệ xã hội mà BLHS bảo vệ thì cần thiết
phải cách ly bị can ra khỏi xã hội một thời gian bằng biện pháp tạm giam. Đây là một
trong những điểm tiến bộ của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003, góp
4Phạm Lê Liên (chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 955.



phần tháo gỡ khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi tiến hành điều tra, truy
tố và xét xử đối với các bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà có hình phạt tù đến
02 năm. Đối với căn cứ này sẽ xảy ra 02 trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất: bị can đã bị cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố về tội ít
nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm, không thuộc trường hợp bỏ trốn và bị bắt
theo quyết định truy nã (hành vi phạm tội thứ nhất). Theo quy định tại khoản 3 Điều
119, bị can không thuộc trường hợp bị tạm giam nên các cơ quan tiến hành tố tụng có
thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác (cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh)
hoặc không áp dụng bất kỳ biện pháp ngăn chặn nào. Tuy nhiên, sau đó trong q
trình điều tra, bị can tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội khác (hành vi phạm tội thứ
hai). Trong trường hợp này, bị can có thể bị tạm giam theo khoản 3 Điều 119
BLTTHS năm 2015.
Trường hợp thứ hai: một người thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội
phạm (hành vi phạm tội thứ nhất). Quá trình cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang giải quyết nguồn tin về tội phạm
thì người này lại thực hiện tiếp một hành vi phạm tội và hành vi này là tội phạm ít
nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm (hành vi phạm tội thứ hai) và đã bị CQĐT
hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án,
khởi tố bị can. Trong trường hợp này, khi thực hiện hành vi phạm tội thứ hai thì bị
can chưa bị khởi tố về hành vi phạm tội ban đầu, như vậy bị can có được xem là “tiếp
tục phạm tội” hay khơng để áp dụng biện pháp tạm giam?
Thực tế xảy ra vụ án sau:5 Ngày 01/12/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện
Phú Giáo, tỉnh Bình Dương bắt quả tang Lâm Thị H có hành vi mơi giới mại dâm tại
qn cà phê 7777 thuộc ấp B, xã T, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Ngồi ra,
CQĐT cịn nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tố cáo H có hành vi cho vay
lãi nặng trong giao dịch dân sự và tiến hành khám xét nhà của H (quán 7777), thu giữ
các tài liệu, vật chứng có liên quan đến hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự của H. Như vậy, trong trường hợp này H đã có hành vi phạm vào tội “Môi giới
mại dâm” quy định tại Điều 328 BLHS năm 2015 và chưa bị CQĐT khởi tố vụ án,

khởi tố bị can, sau đó H tiếp tục bị CQĐT phát hiện, xử lý về hành vi “Cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 201 BLHS năm 2015 (có
5Bản án số 32/2019/HS-ST ngày 27/6/2019 của TAND huyện Phú Giáo,tỉnh Bình Dương đối với Lâm Thị H
về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”, Xem Phụ lục số 1.


khung hình phạt là phạt tiền hoặc phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm) thì có
được xem là tiếp tục phạm tội hay không?
Trong 02 trường hợp trên, do khơng có văn bản hướng dẫn như thế nào là “tiếp
tục phạm tội” dẫn đến trong thực tiễn áp dụng tại các địa phương cịn vướng mắc 6,
thậm chí các cơ quan tiến hành tố tụng chia thành 02 luồng quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất:
Bị can chỉ được coi là tiếp tục phạm tội nếu thời điểm thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm thì hành vi phạm tội ban đầu đã
được cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Quan
điểm này dựa trên luận điểm: ý nghĩa của hoạt động khởi tố là xác định có dấu hiệu
tội phạm để thực hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo như điều tra, thu thập chứng cứ,
truy tố và xét xử. Các hoạt động tiền tố tụng khác như tiếp nhận và giải quyết đơn,
thụ lý và xác minh tin báo tố giác tội phạm đều chỉ mang ý nghĩa xác minh có hay
khơng có dấu hiệu tội phạm, kết quả của các hoạt động này đó là Quyết định khởi tố
vụ án nếu xác định có dấu hiệu tội phạm hoặc Quyết định không khởi tố vụ án nếu
xác định khơng có dấu hiệu tội phạm. Do đó, nếu chưa có Quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can thì chưa thể khẳng định hành vi vi phạm pháp luật của người bị buộc
tội là hành vi phạm tội để làm căn cứ xác định dấu hiệu “tiếp tục phạm tội” nhằm
thực hiện biện pháp tạm giam đối với bị can.
Ngoài ra, đối với các bị can, bị cáo có tiền án, tiền sự nhưng chưa được xố án
tích, nếu tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội
phạm thì được xem là tiếp tục phạm tội và có thể tạm giam theo khoản 3 Điều 119
BLTTHS năm 2015. Bởi lẽ, khoản 1 Điều 31 của Hiến pháp năm 2013 khẳng định
“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình

tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”. Do đó, trong
trường hợp này hành vi phạm tội đầu tiên đã được điều tra và chứng minh theo trình
tự, thủ tục tố tụng do luật định và đã bị xét xử và kết tội bằng một bản án đã có hiệu

6 VKSND tỉnh Bình Thuận, Báo cáo 262/BC-VKS ngày 17/6/2020 sơ kết 02 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015, trong mục II về những vướng mắc, bất cập trong các quy định của BLTTHS, có nội dung như sau
“Hiện nay, điểm d khoản 2, khoản 3 Điều 119 chỉ cho phép tạm giam đối với bị can phạm tội ít nghiêm trọng
nếu có căn cứ xác định bị can tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội dẫn đến khó khăn cho các cơ
quan tiến hành tố tụng. Trường hợp bị can thực hiện liên tiếp hành vi mà BLHS coi là tội phạm, tuy nhiên hành
vi ban đầu chưa bị khởi tố vụ án, bị can hoặc bị can đã có tiền án lại thực hiện hành vi phạm tội thì có được coi
là tiếp tục phạm tội hay không?”.


lực pháp luật, nên hành vi vi phạm pháp luật tiếp theo đương nhiên được xác định là
tiếp tục phạm tội. Điển hình như vụ án sau đây:7
Ngày 03/01/2019, tổ cơng tác phịng cảnh sát hình sự Cơng an tỉnh KonTum
bắt quả tang H. A. T có hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự tại chỗ ở của
T thuộc 108 Nguyễn Trường Tộ, phường Duy Tân, thành phố KonTum, tỉnh Kontum.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố KonTum đã khởi tố vụ án, khởi tố bị
can đối với T về tội “cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” quy định tại khoản 1
Điều 201 BLHS năm 2015 (hình phạt cao nhất là cải tạo không giam giữđến 03 năm).
Tuy nhiên, tại thời điểm khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự, T vẫn chưa được xóa án tích về tội “trộm cắp tài sản” nên Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an thành phố KonTum đã áp dụng biện pháp tạm giam đối với
T từ ngày 11/01/2019, đến ngày 28/01/2019 thì T được VKS huyện KonTum cho
thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh.
Quan điểm thứ hai:
Bị can được coi là tiếp tục phạm tội nếu sau khi thực hiện hành vi phạm tội
ban đầu đã tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khác mà BLHS quy định
là tội phạm, không cần hành vi ban đầu đã bị khởi tố vụ án. Quan điểm này dựa trên

luận điểm: để phân biệt giữa hành vi phạm tội và hành vi vi phạm pháp luật khác
phải dựa trên 04 yếu tố cấu thành tội phạm là khách thể, mặt khách quan, chủ thể và
mặt chủ quan của tội phạm. Nếu hành vi vi phạm pháp luật thoả mãn 04 yếu tố trên
thì đã là tội phạm, không liên quan đến giai đoạn tố tụng8. Bên cạnh đó, khi xem xét
áp dụng biện pháp tạm giam, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá một cách
toàn diện dựa trên các yếu tố hành vi, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật của bị
can. Việc bị can thực hiện liên tiếp các hành vi vi phạm pháp luật thể hiện thái độ coi
thường pháp luật, nhân thân xấu do đó việc xem xét áp dụng biện pháp ngăn chặn là
cần thiết để tránh trường hợp bị can tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

7 Bản án số 58/2019/HSST ngày 24/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Kontum, tỉnh Kontum, https://
congbobanan.toaan.gov.vn/2ta411924t1cvn/chi-tiet-ban-an, Xem Phụ lục số 2.
8 Điều 8 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:
“1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác củatrật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa
mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì khơng
phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”


Thực tiễn tại tỉnh Bình Thuận đã vận dụng và thực hiện theo quan điểm thứ
nhất. Cụ thể tại cuộc họp giao ban giữa VKS tỉnh và TA tỉnh, khi các VKS và TA cấp
huyện nêu ra khó khăn về căn cứ “tiếp tục phạm tội” thì lãnh đạo 02 ngành đã thống
nhất xác định nội dung này như sau “tiếp tục phạm tội theo điểm d khoản 2 Điều 119
Bộ luật tố tụng hình sự là trường hợp bị can, bị cáo đang trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tơf.
Theo quan điểm của VKS và TA tỉnh Bình Thuận thì chỉ khi các cơ quan tiến hành tố

tụng khởi động giai đoạn điều tra vụ án, tức là có quyết định khởi tố vụ án, quyết
định khởi tố bị can thì hành vi phạm tội tiếp theo mới được coi là tiếp tục phạm tội,
các trường hợp còn lại khi đối tượng chưa là bị can thì khơng thuộc trường hợp này.
Theo quan điểm này, thì chỉ có trường hợp thứ nhất mới được coi là tiếp tục phạm
tội, còn trường hợp thứ hai thì do khơng được xem là tiếp tục phạm tội nên cũng
không thể áp dụng biện pháp tạm giam, đây cũng là quan điểm được các cơ quan tiến
hành tố tụng tại tỉnh Bình Dương vận dụng vào trong vụ án Lâm Thị H bị khởi tố về
tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” nêu trên. Mặc dù H có 02 lần liên tiếp
thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm nhưng do hành vi thứ nhất chưa bị
khởi tố nên CQĐT chỉ áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với H khi khởi tố
vụ án, khởi tố bị can về hành vi phạm tội thứ hai.
Mặc dù về lý luận, một hành vi được coi là tội phạm nếu thỏa mãn 04 yếu tố
cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, về phương diện áp dụng pháp luật để xác định hành
vi có thỏa mãn 04 yếu tố cấu thành tội phạm hay khơng, cần phải có quyết định khởi
tố của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, xác định hành vi của bị can là tội
phạm nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc tạm giam khơng đúng quy định pháp
luật. Đây cũng là tình trạng chung của các cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương
do tâm lý sợ oan, sai trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự. Thậm chí có địa
phương tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị can đã bị Tòa án xét xử sơ thẩm
về một hành vi khác, tuy nhiên bản án chưa có hiệu lực pháp luật do bị can đang
kháng cáo nên các cơ quan tiến hành tố tụng không áp dụng biện pháp tạm giam đối
với bị can mà chỉ ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để tránh trường hợp khi Tòa án cấp
phúc thẩm hủy án do hành vi của bị can khơng cấu thành tội phạm. Điển hình như
vụ án sau:9

9Bản án số 04/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 của TAND huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, https://congbobanan.
toaan.gov.vn/2ta452732t1cvn/chi-tiet-ban-an, Xem Phụ lục số 3.


Từ ngày 04/4/2019 đến ngày 04/10/2019, Nguyễn Đăng H đã cho 04 người

dân tại huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An vay tổng số tiền 236.000.000 đồng, mức lãi
suất 108%/năm thì bị phát hiện. H bị cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đô
Lương khởi tố vụ án, bị can về tội “cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” quy định
tại khoản 1 Điều 201 BLHS năm 2015, đồng thời H bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi
nơi cư trú từ ngày 22/10/2019 cho đến ngày xét xử sơ thẩm 16/01/2020. Thời điểm
điều tra H về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, về nhân thân H đã bị TAND
huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm về tội “đánh bạc” quy định tại Điều
321 BLHS năm 2015 vào ngày 16/10/2019, tuy nhiên H đang kháng cáo bản án sơ
thẩm nên án vẫn chưa có hiệu lực pháp luật, do đó Cơ quan điều tra huyện Đô Lương
vẫn không coi H thuộc trường hợp tiếp tục phạm tội để áp dụng biện pháp tạm giam
đối với H.
- Trường hợp thứ hai: Bị can bỏ trốn và bị bắt theo Quyết định truy nã.
Tương tự như trường hợp tiếp tục phạm tội, khoản 3 Điều 119 BLTTHS năm
2015 cho phép tạm giam đối với trường hợp bị can bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng
có hình phạt tù đến 02 năm nếu thỏa mãn 02 điều kiện là bỏ trốn và bị bắt theo quyết
định truy nã.
Mặc dù khơng có định nghĩa chính thức như thế nào là bỏ trốn tuy nhiên qua
nghiên cứu từ điển tiếng Việt10 có thể hiểu bỏ trốn là bị can khơng có mặt tại nơi cư
trú,rời khỏi nơi cư trú một cách bí mật mà cơ quan tiến hành tố tụng không biết được
nơi ở mới, gây khó khăn cho hoạt động giải quyết vụ án.
Về thủ tục truy nã, theo quy định tại các Điều 231, Điều 247, Điều 281 và
Điều 290 BLTTHS năm 2015, sau khi khởi tố bị can nếu xác định bị can bỏ trốn hoặc
không biết bị can đang ở đâu thì CQĐT đang thụ lý vụ án phải ra Quyết định truy nã
nếu vụ án đang trong giai đoạn điều tra. Nếu vụ án trong giai đoạn truy tố thì VKS
phải có văn bản u cầu CQĐT ra Quyết định truy nã đồng thời ra Quyết định tạm
đình chỉ vụ án nếu hết thời hạn truy tố mà không bắt được bị can. Tương tự nếu vụ án
đang trong giai đoạn xét xử thì Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên toà nếu
đang trong thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc Hội đồng xét xử nếu trong thời hạn xét xử
vụ án phải yêu cầu CQĐT ra quyết định truy nã đồng thời ra Quyết định tạm đình chỉ
nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử chưa bắt được bị can hoặc nếu bị cáo khơng có mặt

tại phiên toà. Bởi lẽ, hoạt động truy nã là hoạt động đặc thù nên chỉ có CQĐT mới có
10Phạm Lê Liên (Chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng việt thông dụng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr 986, định nghĩa
“trốn có nghĩa là giấu mình vào chổ kín đáo để khỏi bị trông thấy hoặc bỏ đi, tránh đi nơi khác một cách bí mật
để khỏi bị giữ lại, khỏi bị bắt”.


thẩm quyền ra Quyết định truy nã bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng, VKS và
TA chỉ có thẩm quyền yêu cầu CQĐT ra Quyết định truy nã khi vụ án đang ở giai
đoạn truy tố hoặc xét xử. Về thẩm quyền ra Quyết định truy nã: theo quy định tại
khoản 2, khoản 3 Điều 36 BLTTHS năm 2015, Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng
CQĐT có thẩm quyền ra Quyết định truy nã.
Như vậy, trong trường hợp bị can bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng mà BLHS
quy định hình phạt tù đến 02 năm, thoả mãn 02 điều kiện là bỏ trốn và bị bắt theo
quyết định truy nã thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể có thể tạm giam để đảm bảo
giải quyết vụ án. Vấn đề đặt ra trường hợp bị can sau khi có Quyết định truy nã đã ra
đầu thú thì có thể áp dụng biện pháp tạm giam hay khơng? Nếu áp dụng thì có đúng
quy định pháp luật hay không? Và nếu như không áp dụng biện pháp tạm giam thì có
ảnh hưởng đến việc điều tra, xác định sự thật khách quan của vụ án hay không?
Theo quan điểm của học viên, trong trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố
tụng không thể tạm giam bị can vì khơng thỏa mãn điều kiện thứ hai là “bị bắt theo
quyết định truy nã”. Bởi vì: Theo Thông tư liên tịch số 13 ngày 09/12/2012 hướng
dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS và Luật thi hành án hình sự về truy nã đã
chia ra 02 trường hợp về truy nã đó là bắt người đang bị truy nã và tiếp nhận người
đang bị truy nã.11 Trong đó tiếp nhận người đang bị truy nã bao gồm hoạt động tiếp
nhận người bị truy nã ra đầu thú hoặc tiếp nhận người bị bắt theo quyết định truy nã.
Như vậy, bản thân Điều luật đã phân định rõ việc người bị truy nã ra đầu thú không
thuộc trường hợp bắt truy nã. Do đó, để đảm bảo việc áp dụng pháp luật một cách
chuẩn xác thì mặc dù bị can đã có hành vi bỏ trốn nhưng do không thoả mãn điều
kiện bị bắt theo Quyết định truy nã nên Cơ quan tiến hành tố tụng không thể áp dụng
biện pháp tạm giam bị can.

Ngồi ra, chính sách hình sự của nước ta hiện nay cũng thể hiện rõ phải
“Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm,
lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện
tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”.12 Do đó khi bị can ra đầu thú đã thể hiện thái độ ăn
năn đối với hành vi phạm tội của mình nên khơng cần thiết phải cách ly bị can ra
khỏi xã hội. Bên cạnh đó, việc bị can đầu thú phần nào giảm nhẹ kinh phí cho nhà
11Thơng tư liên tịch số 13/2012 về hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS và Luật thi hành án hình
sự về truy nã, Chương III, Điều 13.
12Điểm d khoản 1 Điều 3BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).


nước trong hoạt động truy nã và giảm áp lực cho cơ quan nhà nước trong công tác
chuyên môn.
Thực tế tại một số địa phương như tỉnh Bắc Giang cũng áp dụng quan điểm
này trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với trường hợp bị can bỏ trốn và
quay về đầu thú. Cụ thể trong vụ án sau:13
Chung Văn B sau khi bị CQĐT Công an huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang
khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” quy định tại
khoản 1 Điều 158 BLHS năm 2015 (có khung hình phạt tù đến 02 năm) đã bỏ trốn
khỏi địa phương nên bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn ra Quyết
định truy nã. Đến ngày 19/10/2018, B đến Công an huyện Lục Ngạn đầu thú và khai
nhận hành vi phạm tội của mình. Sau khi đầu thú, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
huyện Lục Ngạn chỉ áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với B.
1.2.
Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tạm giam đối với bị can
về tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm
Qua nghiên cứu kết quả thực hành quyền cơng tố và áp dụng biện pháp ngăn
chặn của tồn ngành KSND nói chung và VKSND tỉnh Bình Thuận nói riêng,14 có
thể thấy các cơ quan tiến hành tố tụng đã có động thái cẩn trọng hơn khi áp dụng biện

pháp tạm giam đối với bị can kể từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực..., cụ thể:
- Năm 2017: VKSND hai cấp thuộc tỉnh Bình Thuận đã khởi tố 1.241 bị can,
áp dụng biện pháp tạm giam 777 bị can, chiếm tỷ lệ 63%. Trong đó, số bị can bị khởi
tố về tội ít nghiêm trọng bị tạm giam 32 bị can/ 538 bị can mới khởi tố.
- Năm 2018: VKSND hai cấp thuộc tỉnh Bình Thuận đã khởi tố: 1.290 bị can,
áp dụng biện pháp tạm giam 585 bị can, chiếm tỷ lệ 45%. Trong đó, số bị can bị khởi
tố về tội ít nghiêm trọngbị tạm giam 31 bị can/531 bị can khởi tố mới.
- Năm 2019: VKSND hai cấp thuộc tỉnh Bình Thuận đã khởi tố: 1.398 bị bị
khởi tố về tội ít nghiêm trọng bị tạm giam 38 bị can/485 bị can mới khởi tố.
- 06 tháng đầu năm 2020: VKSND hai cấp thuộc tỉnh Bình Thuận đã khởi tố:
742 bị can, áp dụng biện pháp tạm giam 367 bị can, chiếm tỷ lệ 49%. Trong đó, số bị
can bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng bị tạm giam 28 bị can/242 bị can mới khởi tố.
13Bản án phúc thẩm số 53/2019/HSPT ngày 10/4/2019 đối với bị cáo Chung Văn B, https://congbobanan.
toaan.gov.vn/2ta322911t1cvn/chi-tiet-ban-an, Xem Phụ lục số 4.
14VKSND tỉnh Bình Thuận (2017), Báo cáo số 773/BC/VKS-VP ngày 04/12/2017 kết quả công tác kiểm sát
năm VKSND tỉnh Bình Thuận (2018), Báo cáo số 699/BC-VKS ngày 06/12/2018 kết quả cơng tác kiểm sát
năm VKSND tỉnh Bình Thuận (2019), Báo cáo số 744/BC-VKS ngày 06/12/2019 kết quả công tác kiểm sát
năm VKSND tỉnh Bình Thuận (2020), Báo cáo 245/BC-VKS ngày 05/6/2020 kết quả công tác kiểm sát 06
tháng đầu năm.


Năm 2018, tồn ngành kiểm sát đã khơng phê chuẩn 175 Lệnh bắt bị can để
tạm giam (tăng 10 trường hợp so với năm 2017) và 321 Lệnh tạm giam (tăng 94
trường hợp so với năm 2017), trong đó VKSND tỉnh Bình Thuận đã khơng phê chuẩn
08 Lệnh bắt bị can để tạm giam và 08 Lệnh tạm giam. Năm 2019, tồn ngành kiểm
sát khơng phê chuẩn 185 Lệnh bắt bị can để tạm giam và 262 Lệnh tạm giam, trong
đó VKSND tỉnh Bình Thuận đã khơng phê chuẩn 05 Lệnh bắt bị can để tạm giam và
03 Lệnh tạm giam. Trong 06 tháng đầu năm 2020, toàn ngành kiểm sát đã không phê
chuẩn 68 Lệnh bắt bị can để tạm giam và 139 Lệnh tạm giam, VKSND tỉnh Bình
Thuận đã khơng phê chuẩn 06 Lệnh tạm giam (khơng có trường hợp không phê

chuẩn Lệnh bắt bị can để tạm giam).15
Có thể thấy, với sự điều chỉnh của BLTTHS năm 2015, các Thông tư liên tịch
và đặc biệt là Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao16, các đơn vị trong ngành kiểm
sát đã thể hiện rất tốt vai trò thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của mình,
nhất là trong lĩnh vực áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Tuy nhiên mặc dù con
số bị can bị tạm giam có chiều hướng giảm khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực
nhưng con số bị can bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng bị tạm giam qua từng năm lại
không giảm nhiều, một phần do BLTTHS năm 2015 đã mở rộng thêm một trường
hợp mà các cơ quan tiến hành tố tụng có thể tạm giam đó là trường hợp bị can, bị cáo
phạm tội ít nghiêm trọng có hình phạt đến 02 năm. Qua đánh giá, đây là điểm tiến bộ
của BLTTHS năm 2015 nhằm tháo gỡ khó khăn của BLTTHS năm 2003 nhưng thực
tiễn áp dụng vẫn còn nảy sinh một số vấn đề mà BLTTHS năm 2015 chưa điều chỉnh
được. Trải qua hơn 02 năm vận dụng Điều 119 BLTTHS năm 2015 vào thực tiễn, học
viên nhận thấy việc điều luật chỉ quy định 02 trường hợp được phép tạm giam như
khoản 3 Điều 119 là cịn chưa tồn diện, chưa đáp ứng được nhu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm hiện nay. Thực tiễn có rất nhiều trường hợp bị can về tội ít
nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm nhưng do không thỏa mãn các điều kiện
quy định tại khoản 3 Điều 119 nên các cơ quan tiến hành tố tụng không thể tạm giam
bị can để phục vụ điều tra, gây cản trở rất nhiều trong quá trình giải quyết án. Trong
15VKSND tối cao (2020), Báo cáo tổng kết công tác ngành kiểm sát các năm 2018, 2019 và 06 tháng năm
2020.
16Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 quy định về sự phối hợp giữa Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Chỉ thị 06/CTVKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng VKSND tối cao tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; Chỉ thị
05/CT-VKSTC ngày 27/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường trách nhiệm công tố trong giải
quyết các vụ án hình sự, đáp ứng u cầu đấu tranh phịng, chống tội phạm.


phần này, học viên xin nêu ra một số hạn chế của Điều luật mà các cơ quan tiến hành
tố tụng vướng phải trong quá trình áp dụng khoản 3 Điều 119 BLTTHS năm 2015.

Trường hợp bị can bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng vi
phạm.
Đối với các bị can bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù đến 02 năm
khơng thuộc trường hợp “tiếp tục phạm tội” hoặc “bỏ trốn và bị bắt theo Quyết định
truy nã” thì các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có thể áp dụng biện pháp cấm đi khỏi
nơi cư trú để đảm bảo hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, khoản 2 Điều
123 BLTTHS năm 2015 lại quy định “trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ
cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam”. Quy định này có thể hiểu, nếu bị
can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú mà vi phạm nghĩa vụ thì
ngay lập tức phải được thay thế bằng biện pháp tạm giam. Trong khi đó, khoản 3
Điều 119 BLTTHS năm 2015 lại khơng liệt kê trường hợp này là một căn cứ để tạm
giam. Điều này gây lúng túng cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng vào thực
tiễn.
Phân tích các nghĩa vụ của bị can khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ nhận thấy
đối với một số nghĩa vụ nếu bị can vi phạm thì dễ dàng dẫn chiếu đến khoản 3 Điều
119 để áp dụng biện pháp tạm giam. Cụ thể đó là trường hợp: bị can vi phạm nghĩa
vụ “không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 123
BLTTHS năm 2015, theo quy trình tố tụng ngay khi phát hiện bị can bỏ trốn thì Cơ
quan điều tra căn cứ vào Điều 231 BLTTHS năm 2015 ra Quyết định truy nã bị can,
sau khi bắt được bị can thì ra Quyết định đình nã, đồng thời ra Lệnh tạm giam, tất
nhiên vẫn phải loại trừ trường hợp bị can quay về đầu thú sau khi có Quyết định truy
nã. Tương tự, khi bị can vi phạm nghĩa vụ “không tiếp tục phạm tội”, căn cứ khoản 3
Điều 119 BLTTHS năm 2015, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp
tạm giam đối với bị can.
Tuy nhiên, đối với các nghĩa vụ còn lại được quy định tại khoản 2 Điều 123
BLTTHS năm 2015 thì lại khơng thể dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 119 để thực hiện
việc tạm giam bị can mặc dù rõ ràng các bị can đã có hành vi gây khó khăn cho hoạt
động điều tra. Dễ dàng bắt gặp nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật là trường hợp
bị can đi khỏi nơi cư trú mà không được cơ quan ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho
phép hoặc bị can khơng có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra mà khơng vì

lý do bất khả kháng hoặc vì trở ngại khách quan. Trong trường hợp này, nếu hiểu và
áp dụng theo khoản 2 Điều 123 BLTTHS năm 2015 thì Cơ quan điều tra có thể ra


Lệnh tạm giam do bị can đã vi phạm nghĩa vụ cam đoan. Tuy nhiên, nếu áp dụng
khoản 3 Điều 119 BLTTHS năm 2015 thì rõ ràng đây khơng phải là trường hợp có
thể tạm giam vì khơng thuộc 01 trong 02 trường hợp mà Điều luật đã liệt kê. Đây là
một trong các vướng mắc mà cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương thường xuyên
vấp phải trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thực tế này phần nào được minh
chứng qua vụ án sau:17
Trong vụ án về tội “xâm phạm chỗ ở người khác” quy định tại khoản 1 Điều
158 BLHS năm 2015 xảy ra tại huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận theo quyết
định thay đổi quyết định khởi tố vụ án số 1860/PC44 ngày 13/8/2018 của CQĐT
Cơng an tỉnh Bình Thuận. Mặc dù bị can Lê Thị Ánh Tuyết và Nguyễn Ngọc Hà khi
được CQĐT triệu tập hợp lệ 02 lần để tống đạt Quyết định khởi tố bị can đồng thời
hỏi cung bị can nhưng Tuyết và Hà vẫn không chấp hành. Ngồi ra, q trình xác
minh tin báo thì các đối tượng này cũng có thái độ chống đối, khơng cung cấp lời
khai hoặc khơng có mặt theo u cầu của CQĐT. Tuy nhiên do không thuộc 01 trong
02 trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 BLTTHS năm 2015 nên khi CQĐT
Cơng an tỉnh Bình Thuận ra lệnh bắt bị can để tạm giam lần lượt số 1861/PC44 và
1862/PC44 đối với Hà và Tuyết thì VKS tỉnh Bình Thuận đã có các quyết định số
03/QĐ-VKSBT-HS và 04/QĐ-VKSBT-HS ngày 28/8/2018, không phê chuẩn các
lệnh bắt bị can để tạm giam của CQĐT. Ngày 29/8/2018, CQĐT Cơng an tỉnh Bình
Thuận buộc phải ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Hà và Tuyết để đảm bảo giải
quyết vụ án.
Theo quan điểm của học viên, trong trường hợp này các cơ quan tiến hành tố
tụng không thể tiến hành tạm giam bị can, bị cáo dù các đối tượng này đã có hành vi
gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử bởi các lý do sau:
Thứ nhất, BLTTHS đã quy định tách bạch trường hợp tạm giam và trường hợp
không được tạm giam (theo phương pháp loại trừ), theo đó chỉ cho phép các cơ quan

tiến hành tố tụng xem xét áp dụng biện pháp tạm giam nếu thuộc 01 trong các căn cứ
được liệt kê trong điều luật, các trường hợp khác đều không được áp dụng. Đây là
cách để nhà làm luật hạn chế tình trạng áp dụng tràn lan các biện pháp ngăn chặn
khơng thật sự cần thiết.
Thứ hai, có thể dễ dàng nhận thấy loại tội phạm đang được đề cập đến là tội ít
nghiêm trọng, mức độ nguy hại cho xã hội thấp nhất so với các loại tội phạm khác do
đó khung hình phạt tù tối đa có thể áp dụng chỉ đến 02 năm. Nếu chúng ta áp dụng
17Xem Phụ lục số 5.


biện pháp tạm giam trong quá trình điều tra, truy tố tuy nhiên khi xét xử lại khơng áp
dụng hình phạt tù mà chỉ áp dụng các hình phạt khác nhẹ hơn thì sẽ dẫn đến tình
trạng khơng tương xứng, khơng có ý nghĩa phịng, chống tội phạm và khơng bảo đảm
mục đích của hình phạt. Thực tế trong vụ án Lê Thị Ánh Tuyết và Nguyễn Ngọc Hà
nêu trên, TA huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận đã tuyên 02 bị cáo mức án 06
tháng tù và cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 12 tháng.
Ngoài ra tại Cơng văn 5024 của VKSND tối cao18 đã có nội dung khẳng định
trong trường hợp bị can phạm tội ít nghiêm trọng có hình phạt tù trên 02 năm có các
hành vi như không khai báo, không nhận các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra
thì khơng thuộc trường hợp cản trở điều tra do đó khơng thể áp dụng biện pháp tạm
giam bị can. Mặc dù đây là nội dung hướng dẫn đối với trường hợp bị can phạm tội ít
nghiêm trọng có hình phạt tù trên 02 năm nhưng đã thể hiện rõ quan điểm của
VKSND tối cao là không được tùy tiện áp dụng biện pháp tạm giam nếu không rơi
vào các trường hợp luật định.
Trường hợp bị can có hành vi cản trở hoạt động điều tra quy định tại điểm
đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS năm 2015.
Như đã phân tích, đối với bị can bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng có hình phạt
tù đến 02 năm, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có thể áp dụng biện pháp tạm giam
khi bị can rơi vào 01 trong 02 trường hợp “tiếp tục phạm tội” hoặc “bỏ trốn và bị bắt
theo quyết định truy nã”. Các trường hợp còn lại, các cơ quan tiến hành tố tụng

không được phép áp dụng như đã phân tích tại phần khó khăn nêu trên. Tuy nhiên,
ngồi 02 trường hợp này thì học viên nhận thấy còn 01 trường hợp mà nhà làm luật
chưa dự liệu đến khi sửa đổi Điều 88 BLTTHS năm 2003, đó là các hành vi gây cản
trở hoạt động điều tra đã được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS năm
2015, cụ thể bao gồm:
“Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối,
cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án,
tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người m chứng, bị
hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này”.
Có thể thấy, mục đích hoạt động điều tra vụ án hình sự là thu thập chứng cứ,
làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án thông qua các hoạt động tố tụng
được pháp luật quy định chặt chẽ trong BLTTHS và dưới sự kiểm sát, phê chuẩn của
18Công văn 5024/VKSTC-V14 ngày 19/11/2018 của VKSND tối cao giải đáp thắc liên quan đến các quy định
về BLTTHS và nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự trong ngành KSND
của VKSND tối cao, mục 19.


×