Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Thực hiện quy trình kỹ thuật chăm sóc và phòng, trị một số bệnh phổ biến trên đàn bò sữa tại trung tâm giống và chuyển giao kỹ thuật mộc châu, sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.16 KB, 51 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

VŨ THỊ HOA
Tên chun đề:
“THỰC HIỆN QUY TRÌNH KỸ THUẬT CHĂM SĨC
VÀ PHỊNG, TRỊ MỘT SỐ BỆNH PHỔ BIẾN TRÊN ĐÀN BÒ SỮA
TẠI TRUNG TÂM GIỐNG VÀ CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT
MỘC CHÂU, SƠN LA”

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
••••

Hệ đào tạo:
Chính quy
Chun ngành: Thú y
Khoa:
Chăn ni Thú y
Khóa học:
2016 - 2021

Thái Ngun - năm 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

Tên chuyên đề:
“THỰC HIỆN QUY TRÌNH KỸ THUẬT CHĂM SĨC
VÀ PHỊNG, TRỊ MỘT SỐ BỆNH PHỔ BIẾN TRÊN ĐÀN BÒ SỮA
TẠI TRUNG TÂM GIỐNG VÀ CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT


MỘC CHÂU, SƠN LA”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
••••

Hệ đào tạo:
Chính quy
Chun ngành: Thú y
Lớp:
K48 TY NO3
Khoa:
Chăn ni Thú y
Khóa học:
2016 - 2021
Giảng viên hướng dẫn: TS. Phạm Thị Trang

Thái Nguyên - năm 2020


3

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực tập, để hoàn thành khóa luận của mình, em đã
nhận được sự chỉ bảo tận tình của cơ giáo hướng dẫn, sự giúp đỡ của BCN
khoa Chăn nuôi Thú y. Trung tâm giống và chuyển giao kỹ thuật Mộc Châu.
Em cũng nhận được sự cộng tác nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp, sự giúp
đỡ, cổ vũ động viên của người thân trong gia đình.
Nhân dịp này em xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS.
Phạm Thị Trang đã rất tận tình và trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài và
hồn thành khóa luận này.

Em xin cảm ơn BCN khoa Chăn nuôi Thú y đã tạo điều kiện thuận lợi
và cho phép em thực hiện đề tài tốt nghiệp đại học.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới Cơng ty cổ phần giống bị sữa
Mộc Châu, Trung tâm giống và chuyển giao kỹ thuật, cùng tồn thể các cơ,
chú, anh, chị, em kỹ thuật - công nhân trong trung tâm đã giúp đỡ và tạo điều
kiện để em hoàn thành đợt thực tập tốt nghiệp này.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân cùng
bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên em trong suốt thời gian hồn thành
khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Ngun, ngày tháng năm 2020
Sinh viên

Vũ Thị Hoa
DANH MỤC CÁC BẢNG


4

iii

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
•'•

CMT :

California Masttis Tets

CNTY:


Chăn nuôi thú y

cs:

Cộng sự

NCKH:
Nghiên cứu khoa học
NHÀ XUẤT BẢN: Nhà xuất bản
Vsv:

Vi sinh vật


5

MỤC LỤC


6

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1.

Đặt vấn đề

Cùng với sự phát triển nhanh số lượng đàn bò trong nước, đàn bò sữa
nước ta trong những năm gần đây tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Các đàn bò lai F1, F2 dần được thay thế bằng đàn bò lai F3 và bò cao sản được

nhập từ Mỹ, Úc... và vì thế sản lượng sữa tươi trong nước cũng tăng, đáp ứng
được một phần nhu cầu sữa tươi trong nước.
Theo Cục Chăn nuôi - Bộ Nơng nghiệp, tính đến hết năm 2020, số lượng
bò sữa cả nước năm 2020 là 227.000 con (tăng 22,1% so với năm 2019). Sản
lượng sữa trong nước sản xuất ước tính là 549.533 tấn. Năm 2019 cả nước sản
xuất 1,9 tỷ lít sữa tươi. Mục tiêu đến năm 2022 tăng lên là 2,6 tỷ lít sữa và đến
năm 2026 là 3,4 tỷ lít sữa.
Tuy nhiên, song hành với ngành chăn nuôi luôn tồn tại các vấn đề như
con giống, dinh dưỡng, kỹ thuật chăm sóc, dịch bệnh và rác thải chăn ni.
Trong đó dịch bệnh là khâu khó giải quyết nhất, gây thiệt hại lớn nhất, và
người chăn nuôi luôn quan tâm nhiều nhất. Đầu tiên và quan trọng nhất phải kể
đến nhóm bệnh truyền nhiễm, tiếp đến là nhóm bệnh ký sinh trùng, các bệnh
sản khoa và bệnh viêm vú ở bò sữa. Đối với những bệnh lây lan nhanh, mạnh,
khó kiểm sốt như bệnh truyền nhiễm thì đã có vắc xin can thiệp rất hiệu quả,
hay khó điều trị như bệnh ký sinh trùng thì ln được người chăn ni phịng
và tẩy trừ rất sớm nên 2 nhóm bệnh này thường ít xảy ra trên bị sữa. Duy chỉ
có các bệnh viêm tử cung, các bệnh về chân móng và bệnh viêm vú thì rất hay
xảy ra trên bị sữa, mà thường khơng dự báo trước được, gây nhiều khó khăn
cho người chăn ni. Xuất phát từ những yêu cầu trên, dưới sự hướng dẫn của
cô giáo TS. Phạm Thị Trang, tôi tiến hành chuyên đề: “Thực hiện quy trình kỹ
thuật chăm sóc và phịng, trị một số bệnh phổ biến trên đàn bò sữa tại trung tâm
giống và chuyển giao kỹ thuật Mộc Châu, Sơn La”.


7

1.2.

Mục đích và u cầu


1.2.1.

Mục đích

- Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trung tâm giống và chuyển giao kỹ
thuật Mộc Châu, Sơn La.
- Áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc, ni dưỡng cho đàn bị sữa ni
tại trung tâm.
- Xác định tình hình nhiễm, áp dụng và đánh giá hiệu quả của quy trình
phịng, trị bệnh cho đàn bị sữa ni tại trung tâm.
1.2.2.

u cầu

- Đánh giá được tình hình chăn ni tại Trung tâm giống và chuyển giao
kỹ thuật Mộc Châu, Sơn La.
- Áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc, ni dưỡng cho đàn bị sữa ni
tại trung tâm đạt hiệu quả cao.

Xác
địnhtrình
được phịng,
tình hình
áp đàn
dụngbị
vàsữa
đánh
giátại
hiệu
quả

của quy
tâm.
trịnhiễm,
bệnh cho
nuôi
Trung


Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.

Điều kiện cơ sở thực tập

2.1.1.

Ví trí địa lí

Trung tâm giống và chuyển giao kỹ thuật Mộc Châu đặt tại Thị trấn
Nông trường Mộc Châu, là trại lớn của Cơng ty cổ phần giống bị sữa Mộc
Châu, với quy mô trại với tổng số con khoảng 2.000 con. Trung tâm được xây
dựng trên địa bàn thị trấn nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn
La với tổng diện tích là 120ha.
Thị trấn Nơng trường Mộc Châu được thành lập từ ngày 15 tháng 11
năm 1968. Đến ngày 26 tháng 2 năm 1980, toàn bộ xã Chờ Lồng và hai bản Bó
Bun, Chiềng Đi của xã Phiêng Luông được hợp nhất với thị trấn Nông trường
Mộc Châu trước đó để tạo thành thị trấn Nơng trường Mộc Châu như ngày nay.
Thị trấn Nông trường Mộc Châu hiện có diện tích 74,51 km 2, dân số là khoảng
23.507 người, mật độ dân số đạt 315 người/km2. Thị trấn Nơng trường Mộc
Châu có tuyến đường liên xã nối đến quốc lộ 6 tại xã Phiêng Luông. Nền kinh

tế của thị trấn phụ thuộc vào nông nghiệp, đặc biệt là trồng chè, chăn ni bị
sữa và trồng hoa. Những đồi chè rộng lớn trên địa bàn thị trấn tạo ra một
phong cảnh tươi đẹp.
2.1.2.

Điều kiện khí hậu

Mộc Châu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đơng lạnh
khô, mùa hè mát ẩm và mưa nhiều. Mộc Châu có độ cao lớn lại nằm giữa sơng
Đà và sơng Mã do đó khí hậu ở Mộc Châu quanh năm mát mẻ, nhiệt độ khơng
khí trung bình/năm khoảng 18,50C, lượng mưa trung bình/năm khoảng 1.560
mm. Độ ẩm khơng khí trung bình 85%. Nhiệt độ trung bình hàng năm của Mộc
Châu thấp hơn so với các khu vực lân cận như Thành phố Sơn La (21,1 0C),
Hịa Bình (23,00C), Điện Biên (23,00C).


Nền nhiệt độ thấp như vậy được coi là lý tưởng ở đất nước nhiệt đới như
Việt Nam, chỉ có ở các khu vực nổi tiếng về du lịch nghỉ dưỡng ở Việt Nam
như Sa Pa, Tam Đảo, Bà Nà, Đà Lạt, Bạch Mà... mới có những điều kiện khí
hậu tương tự.
2.1.3.

Cơ cấu tổ chức của trung tâm

Trung tâm gồm có 63 người:
+ 01 giám đốc
+ 01 phó giám đốc
+ 10 kỹ thuật chính của Trung tâm, gồm:
- 01 kỹ sư dinh dưỡng thức ăn chăn nuôi
- 07 bác sỹ thú y

- 02 kỹ sư dẫn tinh nhân tạo
+ 01 thợ sửa chữa nước
+ 02 thợ điện
+ 03 thợ cơ khí
+ 01 kế tốn
+ 44 cơng nhân
2.1.4.

Cơ sở vật chất của trung tâm

+ Cơ sở vật chất của trung tâm
Trung tâm được chia thành 3 khu vực chăn nuôi riêng biệt có tên trung
tâm giống số 1, trung tâm giống số 2 và trung tâm giống số 3.
Trung tâm giống số 1 để chăm sóc và ni dưỡng bị đang chửa, cạn sữa.
Diện tích xây dựng 10ha gồm: 2 chuồng, chiều dài của 1 chuồng là 100 m,
rộng 10 m, mỗi chuồng chia thành 2 dày (có đường đi ở giữa). Mỗi dày đều có
sân cát, mỗi chuồng có 1 sân chơi nền đất.
Trung tâm giống số 2 để chăm sóc và ni dưỡng bị đang trong chu kì
sản xuất cho sữa. Diện tích xây dựng 25ha gồm: 1 nhà máy sản xuất thức ăn


tổng hợp cho bò sữa, 1 nhà máy vắt sữa, 4 chuồng, chiều dài một chuồng là
100m, rộng 10m, mỗi chuồng chia thành 2 dãy (có đường đi ở giữa). Mỗi dãy
đều có sân cát, mỗi chuồng có 1 sân chơi nền đất.
Trung tâm giống số 3 để chăm sóc và ni dưỡng bê cai sữa. Diện tích
xây dựng 10ha gồm: 2 chuồng, chiều dài của 1 chuồng là 100 m, rộng 10 m,
mỗi chuồng chia thành 2 dãy (có đường đi ở giữa). Mỗi dãy đều có sân cát,
mỗi chuồng có 1 sân chơi nền đất
- Mỗi trung tâm đều có nhà điều hành, nhà cho cơng nhân, bếp ăn các
cơng trình phục vụ cho cơng nhân và các hoạt động khác của trung tâm.

Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các chuồng, các khu khác đều
được đổ bê tơng và có các hố sát trùng.
Hệ thống nước trong khu chăn nuôi đều là nước giếng khoan. Nước uống,
nước tắm, nước phục vụ cho công tác khác được cấp từ một bể lớn, bể được bố
trí xây dựng ở đầu chuồng và có hệ thống lọc và xử lí trước khi dẫn nước vào
chuồng.
Có đầy đủ các thiết bị, máy móc để phục vụ cho cơng nhân và sinh viên
sinh hoạt hàng ngày như: máy giặt, tắm nóng lạnh, tivi, tủ lạnh, quạt,...
Cơ sở vật chất trong chuồng trại chăn nuôi được trại chú trọng đầu tư hơn
hết.
- Có hệ thống quạt gió, phun sương, điện sáng, máng uống nước t ự độ ng.
- Có hệ thống đèn điện sưởi ấm cho bê con vào mùa đơng.
- Ngồi ra, trại cịn có một máy phát điện cơng suất lớn đủ cung cấp điện
cho cả trung tâm sinh hoạt và hệ thống chuồng nuôi khi mất điện.
+ về cơ sở hạ tầng:
- Trại xây dựng gồm 2 khu tách biệt: khu nhà ở và sinh hoạt của công
nhân, khu chuồng ni.
- Khu nhà ở rộng rãi có đầy đủ nhà tắm, nhà vệ sinh tiện nghi.


- Khu nhà bếp rộng rãi và sạch sẽ.
- Trung tâm có một nhà kho là nơi chứa thức ăn cho bò và một kho thuốc
là nơi cất giữ và bảo quản các loại thuốc, vắc xin, dụng cụ kỹ thuật để
phục vụ cơng tác chăm sóc, điều trị cho đàn bị sữa của trung tâm.
2.1.5.

Thuận lợi và khó khăn

* Thuận lợi
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đầu tư lớn cho phát triển

chăn ni bị sữa, đã và đang có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ ngành này phát
triển.
Trung tâm được xây dựng ở vị trí thuận lợi: Xa khu dân cư, thuận tiện
đường giao thông.
Giám đốc trung tâm có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã
hội, ln quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ kỹ thuật và
cơng nhân, sinh viên.
Cán bộ kỹ thuật có trình độ chun mơn vững vàng, cơng nhân nhiệt
tình và có tinh thần trách nhiệm cao trong chăn nuôi.
Con giống tốt, thức ăn, thuốc chất lượng cao, quy trình chăn ni khép
kín và khoa học đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trung tâm.
* Khó khăn
Dịch bệnh diễn biến phức tạp, nên chi phí dành cho phịng và chữa bệnh
lớn, làm ảnh hưởng đến giá thành và khả năng sinh trưởng, phát triển của đàn
bò sữa.
Trong thiết bị vật tư, hệ thống chăn ni đã cũ, có phần bị hư hỏng ảnh
hưởng đến cơng tác chăn ni.
Số lượng bị sữa nhiều, lượng nước thải lớn, việc đầu tư cho công tác xử
lý nước thải của trung tâm gặp nhiều khó khăn.
2.3.

Tình hình chăn ni bị sữa tại Mộc Châu, Sơn La
••'


Trải qua gần 60 năm hình thành và phát triển, Mộc Châu giờ đây đã trở
thành một cao nguyên xanh tươi và trù phú với sự phát triển không ngừng của
ngành chăn ni bị sữa và những sản phẩm từ sữa mang thương hiệu Mộc
Châu Milk.
Lựa chọn phát triển theo Mơ hình “Tổ chức chăn ni sản xuất - Chế

biến sâu - Kết nối thị trường”, từ trước đến nay, toàn bộ sản phẩm của Mộc
Châu Milk được phát triển trên nền tảng chăn ni. Chính vì vậy, trước khi đưa
đến cho người tiêu dùng những sản phẩm sữa tươi 100% sạch và thơm ngon,
Mộc Châu Milk đã đầu tư một cách bài bản vào các Hệ thống trang trại chăn
ni lớn theo tiêu chuẩn quốc tế.
Mọi quy trình sản xuất đều nghiêm ngặt và khép kín theo tiêu chuẩn
chất lượng cao, từ khâu xây dựng chuồng trại, trồng cỏ và ngô làm thức ăn ủ
chua, nhà máy chế biến thức ăn TMR... đến quản lý thú y, kiến tạo môi trường
xung quanh.
Cùng với hệ thống lõi là các trại giống tiêu chuẩn, Mộc Châu Milk
hướng tới mục tiêu phát triển vùng thông qua hệ thống gần 600 trang trại chăn
ni với trên 25.000 con bị tại thời điểm này và dự kiến đạt 37.000 con đến
năm 2020.
Đóng vai trị là “bà đỡ”, Mộc Châu Milk sát cánh với người chăn nuôi,
hỗ trợ mọi công tác chăn nuôi. Hàng tháng, đội ngũ nhân viên kỹ thuật đến
kiểm tra từng hộ chăn ni về các điều kiện chăn ni sau đó chấm điểm theo
từng loại tốt, xấu.
Cũng bởi trân trọng công tác chăn ni và tơn vinh những người chăn
ni bị sữa, chỉ có tại Mộc Châu Milk mới có Cuộc thi Hoa hậu Bò sữa độc
đáo và thú vị. Nếu như trước kia, cuộc thi chỉ như một cuộc đua tài của người
nơng dân thì qua 14 lần tổ chức, Cuộc thi vang danh là một Lễ hội truyền


thống của người chăn nuôi, tôn vinh những thành quả lao động và còn là một
điểm đến thú vị dành cho du khách bốn phương.
2.4.

Một số bệnh thường gặp ở bò sữa

2.4.1.


Bệnh viêm vú bò sữa

* Nguyên nhân
Gồm ba nguyên nhân chính
Do chính bản thân bị
Ngun nhân xuất phát do chính bản thân bị sữa: tuỳ thuộc vào cá thể
của bị như giống bị, bị có bầu vú q to và dài dễ gây xây xát, lỗ thông đầu
vú to dễ rò rỉ. Bò cao sản, sức đề kháng của bò giảm là điều kiện thuận lợi để
bệnh viêm vú xảy ra.
Do Vi sinh vật
Có nhiều loại vi trùng gây bệnh viêm vú
Liên cầu khuẩn (Streptococcus): Trong các loại vi khuẩn gây bệnh viêm
vú, liên cầu khuẩn (Streptococcus) chiếm 86%, chủ yếu là S. agalacting, S.
dysgalactiae và S. uberis. S. agalactiae là vi khuẩn Gram + và chỉ phát triển
được trên mô tuyến vú nhưng dễ bị khống chế và tiêu diệt. Trong khi đó S.
desgalactiae và S. tuberis có thể phát triển bên ngồi mơ tuyến vú và khó loại
trừ. Ba loại này chủ yếu phát triển trong sữa và tấn công lớp tế bào bề mặt của
các ống dẫn sữa.
Tụ cầu khuẩn (Staphylococcus): Chiếm 5,4% trường hợp, trong đó S.
aureus (vi khuẩn Gram +) là vi khuẩn gây bệnh mạnh và thường ở dạng cấp
tính. Vi khuẩn này xâm nhập và tấn công vào các tế bào nang và có tính kháng
penicilline (có những chủng vi khuẩn có khả năng hình thành penicillinaza
phân huỷ penicilline), vì vậy nó rất khó xử lý. Bên cạnh đó, nó cịn sản sinh ra
các độc tố (coagulaza, hemolysine) gây co thắt mạch máu và hoại tử mô tế bào.
Trực khuẩn: Bao gồm các trực khuẩn sinh mủ 2,7%, E.coli 12%, các loài
vi trùng khác 3,75%. Các vi khuẩn này sống chủ yếu trong môi trường (phân,
chất độn, nguồn nước bị ô nhiễm...).



Gây viêm vú truyền nhiễm cho bị sữa có 80% gây viêm vú là do
Streptococcus agalactiae và Streptococcus dysagalactiae. Bệnh biểu hiện viêm
vú, sưng tụ máu, sữa màu xanh lợn cợn máu, vú teo dần. Hai nguyên nhân này
quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng một loài vi trùng gây bệnh nhưng sức đề
kháng của cơ thể và tuyến vú con vật khác nhau nên có thể gây ra bệnh viêm
vú khác nhau. Ngược lại, những vi trùng khác nhau khi tác động lên bầu vú
cũng có thể gây ra những triệu chứng giống nhau. Ngoài những vi khuẩn đặc
trưng trên bệnh viêm vú cũng có thể xảy ra do Mycoplasma.
Do mơi trường
Các tác nhân của bầu tiểu khí hậu chuồng ni bị sữa như nhiệt độ, ẩm
độ đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp lên tỷ lệ mắc bệnh viêm vú của
bò sữa. Mặt khác nhiệt độ cao, ẩm độ cao cũng là điều kiện thuận lợi cho các
vi sinh vật gây bệnh, các côn trùng mang tác nhân gây bệnh phát triển và từ đó
gián tiếp gây bệnh. Tại một số nước có khí hậu theo 4 mùa, thường có một
dạng viêm vú gọi là “viêm vú mùa hè” gây ra bởi các cơn trùng chích cắn
truyền vi khuẩn Corynebacterium pyogenes và một số vi khuẩn kỵ khí khác.
Bệnh này thường xuất hiện ở vùng khí hậu có độ ẩm cao (thường ở các vùng
thấp, các thung lũng). Nguyên nhân stress (tiếng ồn, thái độ chăm sóc bị, mật
độ ni q cao...) làm suy giảm hệ thống miễn dịch của bị sữa, từ đó cũng
làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh viêm vú. Đặc biệt nhiệt độ, ẩm độ cao gây ra stress
nhiệt trên bò sữa.
Chuồng trại: Chăn ni với hình thức hiện nay chủ yếu là ni nhốt, bị
ít được vận động, nền chuồng thường xun ẩm ướt sẽ khiến cho bệnh chân
móng của bị phát triển, cộng thêm khi bò nằm nghỉ, bầu vú bị sẽ tiếp xúc với
nền và chất lót (một ngày bị có thể nằm nghỉ tới 14 giờ) nên nguy cơ vi khuẩn
xâm nhập vào bầu vú là rất cao. Tuy nhiên, khi chăn thả ngồi đồng cỏ, khơng
kiểm sốt được hồn tồn, thì cần phải chú ý đến các tổn thương trên bầu vú từ
đó cũng dễ mắc bệnh. Tóm lại, chuồng trại vệ sinh kém, khơng thơng thống



và ánh sáng thiếu, mật độ ni cao, chăm sóc quản lý không đúng kỹ thuật,
dinh dưỡng không phù hợp là nguyên nhân làm tỷ lệ bệnh viêm vú tăng cao.
Nguồn thức ăn, nước uống: Dinh dưỡng là yếu tố quan trọng nhất đối
với sự phát triển của bò. Người ta nhận thấy cũng có mối liên hệ giữa khẩu
phần ăn và bệnh viêm vú, trong đó chú ý đến mức cân bằng dưỡng chất trong
khẩu phần và việc thay đổi khẩu phần ăn quá nhanh.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy, khẩu phần ăn quá dư thừa nitơ đặc
biệt là nitơ phi protein là một trong những yếu tố gây ra bệnh viêm vú. Việc sử
dụng quá nhiều nitơ phi protein trong khẩu phần sẽ tác động đến hệ thống miễn
dịch của cơ thể bị sữa.
Khẩu phần có năng lượng cao cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ viêm vú. Việc
bổ sung quá nhiều thức ăn thô xanh họ đậu, đặc biệt là có Alfalfa, có chứa
nhiều chất estrogen, cũng làm ảnh hưởng đến tỷ lệ viêm vú. Đối với bị tơ, khi
cho ăn khẩu phần nhiều có họ đậu, các chất estrogen ngoại lai này sẽ làm cho
bầu vú bị tơ trưởng thành sớm từ đó làm tăng nguy cơ nhiễm các vi khuẩn cơ
hội từ môi trường , bò dễ mắc bệnh viêm vú.
Hàm lượng Vitamin E và Selenium cao trong khẩu phần thức ăn sẽ giúp
cải thiện hệ thống miễn dịch của cơ thể bò sữa từ đó cũng làm giảm tỉ lệ viêm
vú. Đặc biệt, trong trường hợp bệnh viêm vú tiềm ẩn, việc bổ sung Selenium
đã làm giảm rõ rệt tỷ lệ bò mắc bệnh. Việc bổ sung Selenium cũng giúp cho bò
đề kháng với các bệnh viêm vú gây ra do nhóm coliform (như E.coli). Tuy
nhiên, không được bổ sung Selenium riêng lẻ mà phải bổ sung chung với
Vitamin E.
Thức ăn nhiều vi trùng, nấm mốc sẽ theo hệ thống tiêu hóa gây bệnh
tiêu chảy, từ đó vi khuẩn và độc tố xâm nhập vào máu đến bầu vú. Vi khuẩn,
nấm mốc cũng tiết ra các độc tố làm ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch.
Chăm sóc, vắt sữa: Phương pháp vắt sữa, kỹ thuật vắt sữa không đúng,


thời gian và số lần vắt, áp lực vắt không đảm bảo dễ gây ảnh hưởng đến bầu

vú. Người vắt sữa có trách nhiệm, lau bầu vú gia súc, dọn nơi vắt sữa, rửa dụng
cụ vắt sữa và tay rửa trước khi vắt sữa. Người vắt sữa phải khỏe mạnh khơng
mang vi khuẩn hay bệnh tật có khả năng lây bệnh. Chú ý có ngăn sát trùng ở
cửa chuồng vì người vắt sữa có thể đi từ chuồng này qua chuồng khác hoặc
nhà này sang nhà khác.
* Phân loại viêm vú bị sữa
Viêm vú bị sữa có hai dạng là viêm vú lâm sàng và viêm vú cận lâm
sàng.
Viêm vú lâm sàng
Viêm vú lâm sàng là sự nhiễm trùng của bầu vú thể hiện rõ triệu chứng
lâm sàng như sự thay đổi tính chất của sữa (sữa bị vón, lỗng, màu sắc và mùi
khác thường), hình dạng bầu vú (bầu vú sung huyết, sưng to...) và một số
trường hợp có triệu chứng toàn thân (sốt, kém hay bỏ ăn...)
Viêm vú lâm sàng được phân chia thành các loại sau:
- Theo thời gian
Viêm vú thể quá cấp tính: Viêm vú thể q cấp tính có đặc điểm là bệnh
xảy ra đột ngột, bầu vú viêm sưng lớn, cứng, nóng, đỏ, đau. Sữa có các chất
tiết bất thường. Viêm vú quá cấp tính có thể dẫn đến mất sữa. Sự viêm là kết
quả tác động của vi khuẩn và độc tố của chúng hay những sản phẩm của bạch
cầu (Menzies và cs., 2001) [28].
Viêm vú quá cấp tính thường kèm theo triệu chứng toàn thân do nhiễm
trùng huyết hoặc nhiễm độc huyết bao gồm: rối loạn hơ hấp, tuần hồn, sốt,
biếng ăn, suy nhược, giảm nhu động dạ cỏ, tiêu chảy, mất nước, trường hợp
nặng có thể làm chết bị. Triệu chứng toàn thân thường xảy ra trước những thay
đổi ở bầu vú và sữa (Quinn và cs., 1994) [31].
Viêm vú thể cấp tính: Viêm thể cấp tính cũng có đặc điểm là xảy ra đột
ngột. Bầu vú viêm có biểu hiện sưng, nóng, đau ở mức trung bình tới nặng,
giảm sản lượng sữa, sữa có chứa sợi huyết, sữa vón cục và các chất tiết bất



thường trong tuyến vú (Quinn và cs., 1994) [31]. Những dấu hiệu của rối loạn
toàn thân (trở ngại cơ năng như sốt, suy nhược, biếng ăn và suy yếu. Tuy
nhiên, những triệu chứng này không nghiêm trọng bằng thể quá cấp tính
(Menzies và cs., 2001) [28].
Viêm vú thể bán cấp tính: Đặc điểm của viêm vú lâm sàng bán cấp tính là
viêm nhẹ. Mặc dù có thể khơng có thay đổi nào ở bầu vú nhưng vẫn xuất hiện
các chất tiết bất thường từ tuyến vú và sữa có màu khác thường. Khơng có dấu
hiệu rối loạn tồn thân.
Viêm vú th ể mạn tính: Thường có những ổ mủ bên trong bầu vú, to nhỏ
tùy mức độ. Bầu vú có thể mềm bình thường nhưng có thể sưng kéo dài trong
nhiều ngày, nhiều tháng thậm chí nhiều năm. Bệnh có thể làm cho thùy vú bị
xơ cứng hay teo lại. Thế bệnh này là hậu quả của việc không phát hiện kịp thời
hay điều trị khơng triệt để khi bị bị viêm vú (Quinn và cs., 1994) [31].
- Theo tính chấ t viêm
Dựa vào tính chất vú viêm lâm sàng, phân làm các loại viêm vú như sau:
Viêm vú thể thanh dịch: Bầu vú sung huyết, thường hay xảy ra sau khi bị
sinh vài ngày, do vi trùng tấn cơng vào nơi bầu vú bị xây xát hay do kế phát
của quá trình viêm tử cung hay nội mạc tử cung hóa mủ. Khi vi trùng theo máu
vào sâu trong tun vú thì tồn bộ tuyến vú sưng to. Sờ nhẹ không đau nhưng
ấn mạnh con vật đau và phản ứng. Lượng sữa của thùy vú viêm giảm rõ, chất
lượng sữa lúc đầu biến đổi khơng rõ, sau lỗng, lợn cợn. Ngồi các triệu chứng
cục bộ, có thể bị cịn có triệu chứng tồn thân như kém ăn, sốt cao, ủ rủ. Bệnh
nhẹ thì sau 7 - 9 ngày hiện tượng viêm giảm nhưng dễ trở thành mãn tính. Khi
tổ chức tuyến vú bị tổn thương nghiêm trọng thì bầu vú có thể bị xơ cứng.
Viêm vú thể cata: Triệu chứng cục bộ khơng rõ, nhìn bên ngồi khơng
thấy có thay đổi nơi bầu vú nhưng lượng sữa giảm. Lúc đầu sữa lỗng, khi
bệnh tiến triển, trong sữa thấy có lợn cợn hay cục vón. Đơi khi cục sữa vón
làm tắc đầu vú. Con vật khơng có biểu hiện triệu chứng tồn thân.
Viêm vú có mủ:
Gồm 2 thể là viêm cata có mủ và viêm vú thể áp - xe



Thể viêm cata có mủ: Do vi khuẩn gây bệnh đa số là Staphylococcus,
ngồi ra cịn có Streptococcus, E. coli và các vi khuẩn gây mủ khác. Ở bò
bệnh, bể sữa, ống tiết sữa, tuyến vú bị viêm làm cho dịch thẩm xuất và mủ
chảy vào bể sữa và các ống dẫn sữa. Bệnh dễ lây sang bò khỏe. Bệnh có 2 thể
cấp tính và mạn tính.
Cấp tính: Bị sốt cao, ủ rủ, kém ăn. Thùy vú bị viêm sưng, đỏ, nóng,
đau. Sữa lỗng, màu hồng nhạt, vị đắng, trong sữa có mủ lợn cợn, hạch lâm ba
vú sưng to.
Mạn tính: sau 3 - 4 ngày tiếp theo, hiện tượng viêm giảm dần, nhưng
sữa vẫn loãng, nhớt màu vàng nhạt hay màu vàng do lẫn mủ. Cuối cùng tuyến
vú bị teo và các tổ chức tăng sinh làm tắc ống dẫn sữa. Do đó, điều trị khơng
có kết quả và nếu để bệnh kéo dài sẽ lây sang các thùy vú khác. Thường trường
hợp này phải xử lý thùy vú cho teo đi và làm cho vú mất khả năng tiết sữa.
Viêm vú thể áp - xe: Một phần của thùy vú viêm sưng đỏ, da căng,
nóng, đau, đơi khi sờ có cảm giác bùng nhùng. Nếu bọc mủ nơng thì hiện
tượng viêm rất rõ, nếu có nhiều bọc mủ làm bề mặt thùy vú viêm có nhiều chỗ
phồng lên. Nếu bọc mủ ở sâu bên trong thì khó nhận diện. Lượng sữa giảm,
khi tuyến sữa bị nhiễm mủ thì sữa tiết ra có lẫn mủ, có khi bầu vú vỡ mủ. Khi
bọc mủ to, con vật đi lại khó khăn và có triệu chứng tồn thân, hạch vú sưng
to, có thể gây ra huyết nhiễm mủ hay lan sang các cơ quan nội tạng khác như
phổi, thận...
Viêm vú có máu
Bệnh gây các tổ chức của ống tiết sữa bị xuất huyết. Thường gặp ở bò
sau khi sinh vài ngày. Bò sốt đến 40°C, ủ rủ, kém ăn hay bỏ ăn. Vú viêm sưng
rõ rệt, bề mặt xuất hiện những đám đỏ. Khi vắt sữa, con vật tỏ ra đau đớn. Sữa
loãng, màu hồng hay đỏ như máu.
Viêm vú hoại tử



Bị có những dấu hiệu tồn thân rất rõ ràng: sốt, suy nhược do nhiễm
trùng huyết, biếng ăn... Lúc đầu, bầu vú viêm sưng rất lớn, đỏ và bò tỏ ra rất
đau. Sau đó, bề mặt bầu vú xuất hiện những đám màu tím hồng, hạch lâm ba
vú sưng to. Cuối cùng, những đám này vỡ ra, ấn tay vào có dịch màu hồng hay
mủ chảy ra. Sữa viêm lẫn mủ, máu, các mảnh mơ vú hoại tử và có mùi thối.
Viêm vú cận lâm sàng
Theo Quinn và cs. (1994) [31], viêm vú cận lâm sàng là sự nhiễm trùng
không lộ rõ của bầu vú, khơng có triệu chứng đặc trưng. Viêm vú cận lâm sàng
được phát hiện bởi sự gia tăng tổng số bạch cầu trong sữa hoặc bằng phương
pháp gián tiếp khác như phương pháp thử CMT (California Mastitis Test), ni
cấy vi sinh vật, tính dẫn điện của sữa, sự thay đổi nồng độ các enzyme...
Thường tỉ lệ viêm vú cận lâm sàng nhiều hơn viêm vú lâm sàng và luôn luôn
xảy ra trước dạng viêm vú lâm sàng. Viêm vú cận lâm sàng làm giảm sản
lượng sữa cũng như ảnh hưởng đến chất lượng sữa, có thể chuyển thành dạng
viêm vú lâm sàng (Barkema và cs., 1998) [22].
Viêm vú được gọi là cận lâm sàng khi chưa có dấu hiệu viêm trên lâm
sàng, nghĩa là số lượng tế bào bản thể trong sữa cao nhưng khơng có bất kỳ sự
bất thường rõ ràng nào trong sữa hoặc bầu vú (Radostits và cs., 2002) [32].
* Chẩn đoán bệnh viêm vú
Chẩn đoán bệnh viêm vú là giai đoạn quyết định để khống chế nhiễm
trùng bầu vú. Chẩn đoán sớm giúp điều trị nhanh chóng, bị mau khỏi và ngăn
cản chuyển sang thể bệnh khác. Có nhiều phương pháp để chẩn đoán và xác
định viêm vú.
Chẩn đoán lâm sàng
Kiểm tra lâm sàng bầu vú và tính chất sữa là một trong những yếu tố để
chẩn đoán viêm vú. Bằng biện pháp kiểm tra đơn giản, ít tốn kém người chăn
ni có thể phát hiện ra sớm bệnh viêm vú, nhằm giúp cho điều trị và tiên
lượng hiệu quả trong khi điều trị. Kiểm tra bằng mắt thường.



Quan sát sự đối xứng của các núm vú gồm 2 núm vú trước (bên phải,
trái), 2 núm vú sau (phải, trái). Kích thước, hình dạng bầu vú, núm vú: phía
mặt ngồi da của bầu vú như: độ căng, độ đàn hồi, nhăn nheo, chỗ sưng chứa
bọc mủ, máu, da sừng hóa và màu sắc của da bầu vú (đỏ, hồng, trắng...); hình
dạng các núm vú, đầu núm vú và lỗ tiết sữa; sự phát triển hệ thống mạch máu
trên bầu vú; tình trạng và hình dạng của hạch lâm ba vú; kiểm tra các phần phụ
như: viêm hạch lâm ba phía sau bầu vú, nhạy cảm ánh nắng; phần trước bầu vú
như phù, da có mủ, hay các bọc máu; kiểm tra bên hông bầu vú như phần sát
đùi nóng, sưng, da đỏ hay có mủ.
Kiểm tra bằng biện pháp sờ nắn bầu vú
Sờ nắn bầu vú được thực hiện khi đã vắt hết sữa trong bầu vú ra, xác
định được tình trạng của bầu vú như: trạng thái, kích thước đều đặn và độ rắn
chắc của bầu vú; tình trạng bên trong ống dẫn sữa của núm vú (sừng hóa,cứng,
hay mềm mại), xoang sữa dưới gốc núm vú; sự di động giữa da vú với các
phần mềm dưới da vú, xem độ đàn hồi, chắc chắn của da vú. Kiểm tra các
chùm mô tuyến vú và các nang, khối u trong bầu vú, các vùng vú bị đau hay
vùng có nhiệt độ cục bộ cao; sự thay đổi về hình dáng và kích thước hạch sau
vú.
Kiểm tra sữa và dịch tiết trong sữa
Màu sắc: Sữa bình thường có màu trắng, sữa có màu hồng hay đỏ, màu
xanh của mủ khi viêm vú. Sữa màu vàng khi bị viêm vú thể thanh dịch.
Mùi: Sữa bình thường có mùi đặc trưng dễ chịu, sữa của bị bị viêm vú
có mùi trứng thối (vi khuẩn sinh mủ), mùi chua (vi khuẩn yếm khí, mùi chua
của trái cây, vi khuẩn E.coli).
Độ nhớt: Độ nhớt tăng ở giai đoạn tiết sữa non hay cuối thời kỳ cho sữa.
Độ nhớt thay đổi khi nhiễm trùng trong sữa hay lẫn mủ máu, dịch tiết viêm mủ
lẫn các cục sữa làm mất tính đồng nhất - kiểm tra tia sữa đầu qua cốc lọc màng
đen) .



Kiểm tra lượng sữa: Lượng sữa giảm từ nhẹ đến mạnh tùy theo mức độ
viêm vú lâm sàng hay tiềm ẩn ở thời điểm cho sữa. Khi lượng sữa trở lại bình
thường là biểu hiện sự hồi phục bệnh.
Phương pháp thử CMT (California Mastitis Test): là phương pháp nhằm
phát hiện bệnh viêm vú qua số lượng tế bào bạch cầu trong 1ml sữa. Tỷ lệ sữa
và dung dịch CMT là 1:1. Đầu tiên là lau sạch núm vú trước khi vắt sữa, rồi vắt
sữa của 4 núm vú vào 4 đĩa Petri khác nhau, mỗi đĩa lấy 2ml sữa. Cho 2ml
dung dịch CMT vào từng đĩa. Sau đó xoay trịn đĩa, đặt đĩa Petri trên nền hơi
tối để quan sát. Đọc kết quả dựa trên sự đóng vón và thay đổi màu sắc của hỗn
hợp. Kết quả nếu bò khỏe mạnh thì dưới 300.000 tế bào bạch cầu/ 1ml sữa. Bị
bị nhiễm bệnh trên 800.000 tế bào/ 1ml sữa.
*Tình hình nghiên cứu bệnh viêm vú bị sữa
- Tình hình nghiên cứu bệnh viêm vú bò sữa trên thế giới.
Bệnh viêm vú bò sữa đã được nghiên cứu từ rất lâu và đã thu được nhiều
kết quả.
+ Về vật chủ (bò)
Hungerford T.G.(1970) [25], đã chỉ ra rằng sự nhiễm trùng của bầu vú
và viêm vú lâm sàng của bò đều tăng theo tuổi và thời kỳ tiết sữa.
Poutrel B (1983) [30], chứng minh chất keratin trong ống dẫn sữa ở đầu
vú được coi là yếu tố quan trọng giúp bà chống lại hoạt động của vi khuẩn gây
bệnh.
Theo Anri Akita và cs. (2002) [2], keratin là chất ức chế vi khuẩn, nhăn
quá trình xâm nhập của vi khuẩn qua kênh núm vú đến tuyến sữa.
+ Về vi khuẩn gây bệnh .
Schalm và cs. (1976) [34], cho rằng thành phần độc tố chính gây viêm
vú hoại thư của Staphylococcus aureus là toxin.
Macdoland và cs. (1976) [27], cho biết : Các loại vi khuẩn gây bệnh
viêm vú chủ yếu là Streptococcus agalactiac và Streptococcus tuberis.



Các tác giả Heidrick và cs. (1976) [24], cho rằng các vi khuẩn dạng
E.coli có thể gây viêm vú cata mãn tính ở đàn bị sữa.
Theo Wenz và cs. (2001) [37], thì Coliforms có vai trị lớn trong các
ngun nhân gây viêm vú thể cấp tính bị sữa ở Mỹ.
- Tình hình nghiên cứu bệnh viêm vú bị sữa ở Việt Nam.
Bệnh viêm vú bò sữa là vấn đề được tồn thế giới quan tâm. Tình trạng
bệnh có thể khác nhau ở mỗi quốc gia nhưng chương trình kiểm sốt dịch bệnh
ở các nước thì cơ bản giống nhau (Anri A và cs., 2002) [2].
Ở Việt Nam, bệnh viêm vú bò sữa đã được nghiên cứu từ lâu. Nguyễn
Ngọc Nhiên (1986) [8], tiến hành phân lập vi khuẩn từ các mẫu sữa bò nghi bị
viêm vú
Đã phát hiện thấy các vi khuẩn Streptococcus agalactiac (21,3%):
Staphylococcus aureus (27,2%): E.coli (12,5%): Streptococcus uberis (13,7%)
và klebsilla (5,1%)
Nguyễn Ngọc Nhiên và cs. (1996 - 1997) [9], nghiên cứu chẩn đốn
bệnh viêm vú bị bằng phương pháp CMT ở một số cơ sở chăn nuôi bò sữa
thấy tỷ lệ viêm vú phi lâm sàng là 24,8%.
Bạch Đằng Phong và cs. (1995) [12] cho rằng, ở Việt Nam có thể có tới
50% số bị đang cho sữa mắc bệnh viêm vú thể tiềm tàng.
Trịnh Quang Phong và cs. (1995- 1999) [14] đã nghiên cứu phương
pháp chẩn đốn nhanh bệnh viêm vú ở bị sữa và biện pháp phòng ngừa thấy 3
dung dịch thử nhanh là: Deterol, Teenol và LSS (Lauril Sulfata Sodium) có thể
thay thế nhau để tiến hành chẩn đoán nhanh bệnh này.
* Điều trị:
Khi phát hiện bò bị viêm vú cần cách ly bò sữa ốm, giảm khẩu phần
thức ăn tinh, thức ăn chứa nhiều nhựa, nhiều nước và thức ăn có chứa hàm
lượng dinh dưỡng cao khi bò bị viêm vú nhằm giảm quá trình tạo và tiết sữa.
Tăng cường vắt sữa từ 3 - 5/lần/ngày để thải trừ mầm bệnh, giảm cương cứng
bầu vú, thường xuyên tiến hành xoa bóp bầu vú bị viêm bằng khăn sạch nhúng



vào nước ấm, vắt kiệt sữa bị viêm ra ngoài, ngày 3 - 4 lần và vệ sinh bầu vú và
chuồng trại sạch sẽ. Kiểm tra sau điều trị: Kiểm tra sau trị xong 5 ngày. Nếu
lượng tế bào soma và mức CMT vẫn cao, phải thực hiện thêm liệu trình điều trị
mới.
2.4.2.

Bệnh viêm móng bị sữa

* Ngun nhân
Hiện nay, phần lớn bị sữa được ni nhốt thường xun trong chuồng
nền bằng xi măng nên móng chân bị sữa bị bào mòn liên tục. Hơn nữa, đa số
chuồng trại của hộ chăn ni có độ dốc kém và mỗi ngày phải xịt nước để dội
phân, tắm rửa bị. Do đó, nền chuồng ln bị ẩm ướt, có nhiều chỗ bị đọng
nước. Đàn bị ln đứng trên nền chuồng ẩm ướt nên móng chân của chúng bị
mềm, chỗ nối giữa lớp da với thành móng dễ bị nứt, khe giữa hai móng bị
viêm, phân nhét vào kẽ nứt này hoặc kẽ giữa hai móng chân. Đây là cơ hội tốt
cho vi khuẩn trong phân bám trên nền chuồng, nhất là các vi khuẩn yếm khí
gây viêm móng và hnh thành ổ viêm có mủ. Vết nứt ngày càng sâu, vi khuẩn
tiếp tục xâm nhập và phát triển nên bệnh ngày càng trầm trọng. Khi vi khuẩn
xâm nhập lên phía trên gây ra viêm khớp cổ chân, khớp gối rồi tiếp tục gậy
viêm đa khớp rất khó điều trị. Ngồi ra, khi bò nằm do đau chân nhưng vẫn
được vắt sữa, sữa rơi vãi trên nền chuồng tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại
phát triển nhanh. Thức ăn tinh rơi vãi trên nền chuồng, vi khuẩn lên men sản
sinh acid cũng gây hại thêm cho móng chân bị.
Ngồi ra, móng chân bị ln chịu áp lực rất lớn khối lượng cơ thể khi đi
đứng nên gây vỡ mạch máu nhỏ trong móng chân, vành móng, tạo điều kiện
cho vi khuẩn đi lên phía trên gây viêm khớp.
Theo Phạm Hồ Hải (2012) [4], ngun nhân gây bệnh chân móng trên

đàn bị sữa phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, yếu tố qui mơ chăn ni, độ
khơ thống của nền chuồng, sát trùng chuồng trại và phương thức cho ăn là
những nguyên nhân chính gây bệnh chân móng trên đàn bị sữa hiện nay.
* Triệu chứng:


Bệnh thường xảy ra ở hai chân sau. Nếu nhẹ, bò vẫn đi lại nhưng chậm
chạp, dáng đi khập khiễng, các chân bị đau thẳng đơ không gấp lại khi bước đi,
sống lưng cong lên, bò đứng lên nằm xuống khó khăn, mệt mỏi, các cơ bắp thịt
chân sau bị run, bị có trọng lượng càng lớn hiện tượng bị run càng rõ. Bệnh
nặng bị ít đi lại, thích nằm, giảm ăn uống nên sản lượng sữa cũng như khả
năng sinh sản giảm nhanh. Nếu cả hai chân đều bị bệnh, con vật sẽ nằm không
dậy được. Do nằm lâu con vật dễ bị chướng hơi dạ cỏ, liệt dạ cỏ hoặc bị lt
tồn thân. Kiểm tra đế móng chân thấy lõm đều, dùng dao cạo vết lõm, có màu
đen như than bùn nát, mùi thối đặc biệt; quan sát rõ ở giữa đế móng, thành
móng bị nhơ ra.
* Biện pháp phịng bệnh:
- Nền chuồng phải có độ dốc khoảng 3 đến 5% hướng ra hai bên nền đất
chung quanh; tráng xi măng ở những chỗ nền bị lõm, đọng nước, nhất là
chỗ bị đứng.
- Có một khoảng nền đất cao ở gần chuồng, khơng bị đọng nước để bị đi
lại vài giờ trong ngày sau khi vắt sữa. Bò được đi lại nhiều dưới ánh
nắng mặt trời giúp cơ thể hấp thu canxi hiệu quả, làm cho móng chân và
cẳng chân được khỏe mạnh, vững chắc hơn.
- Nên sử dụng đệm lót cao su chỗ bị nằm hoặc xây chuồng theo kiểu đi
lại tự do, có chỗ ăn riêng, chỗ vắt sữa riêng, chỗ nằm riêng. Dùng cát
hoặc mùn cưa đổ vào khu vực dành cho bò nằm nhằm làm giảm bớt thời
gian bò phải đứng trên nền xi măng cứng.
- Vệ sinh chuồng trại bằng các chất sát trùng hoặc bằng vôi bột, định kỳ 7
- 10 ngày một lần.

- Cần trang bị thêm hệ thống quạt trong chuồng để làm khô nhanh nền
chuồng, đồng thời làm mát tiểu khí hậu chuồng ni. Nền chuồng khơ
ráo, sạch sẽ hạn chế sự phát triển của vi sinh vật. Nên hốt phân khô


trước, rửa nước sau để làm giảm ẩm độ trong chuồng.
- Các trang trại lớn cần xây thêm hố ngâm chân có chứa CuSO4 giúp sát
trùng chân móng và làm cho móng bị bền chắc hơn.
- Cho bị ăn khẩu phần thức ăn TMR để hạn chế việc chuyển đột ngột từ
thức ăn thô sang thức ăn tinh, làm tăng lượng acid lactic ngấm vào máu
gây độc là một nguyên nhân gây ra bệnh đau móng trên bị.
- Có thể làm tăng độ bền chắc của móng chân và lớp da chung quanh
móng bằng cách bổ sung vào thức ăn của bò các loại vitamin như biotin,
B3, A, C và kẽm. Trong đó, Biotin (vitamin H) giúp tổng hợp chất
keratin, là chất làm cho móng chân cứng, ngăn ngừa các tổn thương ở
móng chân; Vitamin B3 (niacin hay nicotinamide) giúp ngăn ngừa da bị
khơ, giúp da bám chắc vào móng, ngăn chặn sự xâm nhập các vi khuẩn
có hại; Vitamin A duy trì tốt hệ thống xương, giúp lớp biểu bì da phát
triển tốt và bám chặt vào móng chân, ngăn chặn sự xâm nhập vi khuẩn
có hại vào móng chân; Vitamin C tăng sức đề kháng bệnh; Zn (kẽm) vì
thiếu kẽm gây sừng hóa da, lơng (paraketosis), da bị dầy lên và nứt nẻ,
da không bám chắc vào vành móng. Các vết nứt này là nơi vi khuẩn xâm
nhập vào gây ra viêm mủ trên móng. Có thể bổ sung thêm Mn (mangan)
nhằm giảm sự yếu chân. Ngoài ra khẩu phần bò sữa phải đầy đủ canxi để
bộ xương vững chắc.
- Định kỳ hàng năm gọt móng cho bị.
- Theo Lê Đăng Đảnh (2013) [3], việc vệ sinh, giữ khô chuồng nuôi và cải
thiện khẩu phần ăn, phương thức ni dưỡng là vơ cùng quan trọng để
phịng bệnh viêm móng cho bị sữa.
- Theo Phan Việt Thành (2010) [16], cải thiện chăm sóc ni dưỡng bằng

cách cho bị vận động đi lại tự do trong chuồng và cho ăn khẩu phần cân
đối dinh dưỡng làm giảm tỷ lệ mắc bệnh chân móng, kéo dài thời gian
xuất hiện bệnh chân móng (thời gian giữ cho bị khơng bị bệnh chân


×