Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Thực trạng bảo hiểm y tế cho người nghèo ở xã thiên phủ huyện quan hóa thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 63 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
----------o0o----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC TRẠNG BẢO HIỂM Y TẾ CHO NGƢỜI NGHÈO Ở XÃ THIÊN
PHỦ,HUYỆN QUAN HĨA,THANH HĨA

NGÀNH: CƠNG TÁC XÃ HỘI
MÃ SỐ: 7760101

Giáo viên hƣớng dẫn

: Nguyễn Thu Trang

Sinh viên thực hiện

: Hà Văn Dự

Mã sinh viên

: 1654020784

Lớp

: K61 - CTXH

Khóa học

: 2016 - 2020


Hà Nội, 2020


LỜI CẢM ƠN
Để có thể đạt đƣợc kết quả nghiên cứu nhƣ ngày hôm nay, em xin chân
thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa các thầy cô giáo bộ môn đã giảng dạy
suốt 4 năm học trên giảng đƣờng. Đặc biệt, trong thời gian làm luận văn này, em
xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy cơ giáo đã dành nhiều thời gian, tận
tình hƣớng dẫn và chỉ bảo cho em từ khi bắt đâu làm khóa luân thành luận văn
này.
Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn tới các cán bộ và nhân dân tại xã
Thiên Phủ huyện Quan Hóa đã tạo mọi điều kiện để em đƣợc đi tìm hiểu thực tế
cũng nhƣ việc cung cấp các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu. Đồng thời
, em cũng xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến các cán bộ nhân viên phòng Lao
động thƣơng binh và xã hội, Bảo hiểm xã hội và các cán bộ của xã Thiên Phủ
huyền Quan Hóa đã giúp đỡ và tạo diều kiện cung cấp các thông tin , số liệu cho
nghiên cứu này tin, số liệu phục vụ cho nghiên cứu này.
Dù đã nỗ lực cố gắng và say mê tìm hiểu nghiên cứu nhƣng do thời gian
cũng nhƣ kiến thức, kinh nghiệm thực tế cịn nhiều hạn chế, nghiên cứu khơng
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận đƣợc nhiều ý kiến đóng
góp và sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ6
ĐẶT VẤN ĐỀ.................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ CHO NGƢỜI NGHÈO ... 6
1.1. Các khái niệm công cụ ................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm sức khỏe .................................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm BHYT ..................................................................................... 6
1.1.3. Khái niệm nghèo và ngƣời nghèo ............................................................. 7
1.2 Bản chất của BHYT ..................................................................................... 9
1.3. Sự cần thiết của Bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo ....................................... 14
1.4. Vai trò và tầm quan trọng của BHYT ......................................................... 16
1.5. Đối tƣợng tham gia và phạm vi BHYT ...................................................... 18
1.5.1. Đối tƣợng BHYT .................................................................................... 18
1.5.2. Đối tƣợng tham gia BHYT ..................................................................... 19
1.5.3. Phƣơng thức tham gia BHYT ................................................................. 20
1.6 Khái quát chung về đặc điểm của xã Thiên Phủ, huyện Quan Hóa, tỉnh
Thanh Hóa........................................................................................................ 21
1.6.1 Đặc điểm về tự nhiên ............................................................................... 21
1.6.2 Đặc điểm dân cƣ ...................................................................................... 21
1.6.3 Đặc điểm về văn hóa và xã hội ................................................................ 22
1.6.4 Tình hình phát triển kinh tế của xã ........................................................... 23
1.6.5 Đặc điểm địa hình, dân số và lao động .................................................... 24
1.6.6

Nguồn thu nhập của các hộ trong xã .................................................... 24

1.6.7. Chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn xã .......................................... 25


CHƢƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN BHYT TRÊN ĐỊA BÀN XÃ THIÊN
PHỦ, HUYỆN QUAN HÓA , THANH HÓA. ................................................. 26

2.1. Cơng tác tổ chức, triển khai rà sốt xác định hộ nghèo .............................. 26
2.2 Tình hình cấp phát thẻ BHYT cho ngƣời nghèo.......................................... 29
2.3. Tình hình sử dụng thẻ BHYT của ngƣời nghèo trong việc khám chữa bệnh
tại địa phƣơng .................................................................................................. 30
2.4 Đánh giá chung về hiệu quả sử dụng thẻ BHYT cho ngƣời nghèo tại xã
Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHĂM GÓP PHẦN NÂNG CAO................ 42
VIỆC THỰC HIỆN BHYT CHO NGƢỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA ...................... 42
BÀN XÃ THIÊN PHỦ ..................................................................................... 42
3.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho ngƣời nghèo về lợi
ích của BHYT trong việc khám chữa bệnh ....................................................... 42
3.2 Quy định mức viện và điều chỉnh viện phí phù hợp .................................... 44
3.3 Nâng cao chất lƣơng y tế ............................................................................ 45
3.4. Đổi mới chính sách, cơ chế đi đơi với tăng cƣờng quản lý tài chính y tế các
cơ sở khám chữa bệnh. ..................................................................................... 46
3.5. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở y tế trong việc
khám chữa bệnh, đầu tƣ trang thiết bị y tế ........................................................ 47
3.6 Huy động tài chính xã hội . ......................................................................... 47
3.7. Đầu tƣ kinh phí để phát triển y tế cơ sở: .................................................... 48
3.8 Tăng cƣờng công tác quan lý y tế ............................................................... 49
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 50


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Từ viết đầy đủ

1


BHXH

Bảo hiểm xã hội

2

BHYT

BHYT

3

CSSK

Chăm sóc sức khỏe

4

CTXH

Cơng tác xã hội

5

KCB

Khám chữa bệnh

6


LĐTB&XH

Lao động thƣơng binh và xã hội

7

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 : Số liệu thống kê hộ nghèo và ngƣời thuộc hộ nghèo qua ................. 27
Bảng 2.2 Thống kê hộ nghèo trên địa bàn xã theo bản qua 3 năm .................... 28
Bảng 2.3 Tình hình cấp phát thẻ BHYT cho ngƣời nghèo ................................ 29
Bảng 2.3. Số ngƣời nghèo sử dụng BHYT phân bố theo nhóm tuổi.................. 32
Bảng 2.4 Số bệnh nhân nghèo KCB nội trú và ngoại trú................................... 32
Bảng 2.5 Chi phí điều trị bình qn theo tuyến điều trị và hình thức điều trị .... 33

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Số thẻ BHYT đƣợc cấp phát qua các năm 2017 -2019 .................. 29
Biểu đồ 2.2 Số ngƣời nghèo sử dụng BHYT phân bố theo trình độ học vấn ..... 31


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển nhanh và bền vững đang là mục tiêu quan trọng trong cải cách
kinh tế - xã hội của đất nƣớc ta . Bên cạnh việc thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế,

công tác xóa đói giảm nghèo đƣợc Nhà nƣớc coi là một bộ phận quan trọng của
mục tiêu phát triển. Trong những năm qua, chúng ta đã đạt đƣợc nhiều thành tựu
trong cải cách kinh tế, từng bƣớc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân trong đó khơng thể khơng đề cập đến các chính sách chăm sóc sức
khỏe cho một bộ phận khơng nhỏ ngƣời nghèo là một trong những định hƣớng
ƣu tiên của Đảng và Nhà nƣớc ta nhằm đảm bảo công bằng trong tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ y tế. Xác định đƣợc tầm quan trọng của cơng tác Chăm sóc sức
khỏe nhân dân, nhiều chính sách y tế quan trọng đã đƣợc ban hành, góp phần
đảm bảo quyền lợi cho ngƣời dân trong chăm sóc sức khỏe, Khám chữa bệnh
(KCB), trong đó có chính sách Bảo hiểm y tế (BHYT) dành cho đối tƣợng ngƣời
nghèo. Đặc biệt, khi Luật BHYT có hiệu lực thi hành từ 01/7/2009, đã có vai trị
quyết định kết quả thực hiện chính sách BHYT , đánh dấu bƣớc phát triển mới
trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Một trong những điểm ƣu
việt của chính sách BHYT là việc quy định mức hỗ trợ từ ngân sách Nhà nƣớc
để mua thẻ BHYT cho các nhóm đối tƣợng chính sách xã hội trong đó đối tƣợng
thuộc hộ nghèo đƣợc hỗ trợ 100% số tiền mua thẻ, đối tƣợng thuộc hộ gia đình
cận nghèo đƣợc hỗ trợ tối thiểu 50% số tiền mua thẻ
Xã Thiên Phủ với điều kiện kinh tế cịn nhiều khó khăn, mức sống ngƣời
dân còn thấp so với mặt băng của huyện vậy Đảng bộ chính quyền nơi đây vẫn
hết sức quan tâm đến việc chăm lo sức khỏe cho ngƣời dân mà thể hiện rõ nét
nhất đó là việc xây dựng các chính sách, chƣơng trình xóa đói giảm nghèo,
chăm sóc sức khỏe cho ngƣời nghèo thơng qua chính sách BHYT đã bao 7 phủ
hầu hết số ngƣời nghèo với nhiều chế độ hỗ trợ cả về tài chính, dinh dƣỡng, chế
độ KCB. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số những tồn tại làm ảnh hƣởng
đến hiệu quả sử dụng BHYT , chất lƣợng KCB BHYT cho ngƣời nghèo. Cơng
tác rà sốt, xác định hộ nghèo cịn nhiều bất cập, thiếu công bằng, dân chủ dẫn
1


đến ngƣời nghèo không đƣợc hƣởng thẻ BHYT, công tác triển khai cấp thẻ

BHYT ở một số xã còn chậm chễ, cịn để xảy ra tình trạng cấp thiếu thẻ, trùng
thẻ hoặc cấp thẻ sai thông tin dẫn đến khi ngƣời dân đi KCB gặp nhiều khó
khăn, chất lƣợng KCB cho ngƣời nghèo còn ở mức thấp chƣa đáp ứng đƣợc nhu
cầu nguyện vọng của ngƣời nghèo, việc sử dụng thẻ BHYT của ngƣời nghèo bị
chi phối bởi một số những rào cản cần khắc phục về cơ sở hạ tầng, máy móc
trang thiết bị, thủ tục, thời gian, thái độ và trách nhiệm của cán bộ y tế, việc tiếp
cận và sử dụng các dịch vu y tế còn nhiều khó khăn, nhận thức về quyền lợi khi
tham gia BHYT của ngƣời nghèo còn hạn chế làm ảnh hƣởng đến việc tiếp cận
và sử dụng các dịch vu y tế trong khi đó ngƣời nghèo lại có nhu cầu KCB cao,
sự bất bình đẳng trong KCB, chăm sóc y tế đối với ngƣời nghèo còn diễn ra khá
phổ biến. Xuất phát từ thực trạng khảo sát tại địa phƣơng và từ những mong
muốn, nguyện vọng của ngƣời nghèo trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng
BHYT, tiếp cận và thụ hƣởng các chính sách BHYT đem lại. Chính vì vậy tôi đã
lựa chọn đề tài “ Thƣc trang bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo ơ xã Thiên
Phủ,Quan H óa,Thanh H óa đề tài nghiên cứu của mình nhằm góp phần nâng
cao chất lƣợng, hiệu quả sử dụng thẻ BHYT cho ngƣời nghèo.
2.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm phong phú thêm cơ sở dữ liệu cho
việc phân tích về chính sách Bảo hiểm y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân .
2.2.Ý ngĩa thực tiễn
Đối với địa phƣơng: Nghiên cứu đƣa ra cái nhìn tổng thể về hoạt động
cơng tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe ngƣời có cơng tại địa phƣơng. Góp
phần giúp địa phƣơng có nhƣng điều chỉnh trợ giúp , hỗ trợ phù hợp trong quá
trình thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe ngƣời có cơng.
Đối với bản thân ngƣời nghiên cứu: Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực
tế có cơ hội áp dụng những lý thuyết , phƣơng pháp đã đƣợc học vào thực tiễn ,
từ đó giúp bản thân nắm vững kiến thức, rèn luyện kỹ năng và có thêm nhiều
kinh nghiệm trong những nghiên cứu tiếp theo và trong q trình cơng tác của
bản thân.
2



3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Mục tiêu chung:
Tìm hiểu rõ thực trạng và phân tích các nguyên nhân tồn tại trong công
tác triển khai bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo,hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế cho
ngƣời nghèo tại huyện Mai Châu – tỉnh Hịa Bình, từ đó đề xuất một số giải
pháp, khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế cho ngƣời
nghèo trong việc khám chữa bệnh tại địa phƣơng.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống đƣợc cơ sở lý luận về BHYT cho ngƣời nghèo
- Tìm hiểu và đánh giá đƣợc thực trạng cấp phát và sử dụng thẻ BHYT tại
xã Chà Nƣa, Nậm Pồ, Điện Biên
- Đề xuất đƣợc một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng thẻ
BHYT cho ngƣời nghèo trên địa bàn nghiên cứu
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về BHYT cho ngƣời nghèo
- Tình hình thực hiện bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo tại huyện Mai Châu
– tỉnh Hịa Bình
- Giải pháp và khuyến nghị
5. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Đối t ƣợng nghiên cứu: BHYT cho ng ƣời nghòe
- Khách thể nghiên cứu: Ngƣời thuộc hộ nghèo, cán bộ phụ trách công
tác giảm nghèo, cán bộ bảo hiểm xã hội ở xã, huyện
6. Pham vi nghiên cứu
Pham vi không gian:Xã Phiên Thủ, huyện Quan Hóa, Thanh Hóa
Pham vi về thời gian: Số liệu thu thập về BHYT cho ngƣời nghèo trong 3
năm 2017-2019

3



7. Gỉa thuyết nghiên cứu
- Công tác tổ chức, triển khai rà soát BHYT cho ngƣời nghèo ở xã Thiên
Phủ huyện Quan Hóa con nhiều bất cập.
- Hiệu quả sử dụng BHYT của ngƣời nghèo khi đi khám chữa bệnh ở xã
con chƣa cao
- Nhân thƣc về công tác sử về dụng của thẻ BHYT trong chăm sóc sức
khỏe của một bộ phận khơng nhỏ ngƣời nghèo cịn hạn chế. Nhu cầu khám chữa
bệnh của ngƣời nghèo bằng BHYT là rất lớn
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận
Nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
15 chủ nghĩa duy vật lịch sử, thông qua các nguyên tắc luận, khách quan, toàn
diện, phát triển, lịch sử cụ thể và thực tiễn để nghiên cứu và tiếp cận chính sách
Bảo hiểm y tế cho đối tƣợng ngƣời nghèo.
Phƣơng phát thu nhập , phân tích tài liệu
Để có số liệu cụ thể, chính xác về các vấn đề liên quan, nhà nghiên cứu đã
tìm hiểu một số tài liệu nhƣ: các nghiên cứu về vấn đề BHYT toàn dân và
BHYT cho ngƣời nghèo của một số tác giả, tài liệu trong và ngoài nƣớc; một số
luật, quyết định, nghị quyết, công văn liên quan đến BHYT và khám chữa bệnh;
các báo cáo tổng kết tình hình kinh tế xã hội, công tác tổ chức triển khai BHYT
cho ngƣời nghèo, chi phí thanh tốn khám chữa bệnh hàng năm của xã huyện
báo cáo tổng kết hàng năm của các cơ quan, doàn thể của xã và huyện..và tại
liệu liên quan khác.
Phƣơng pháp phỏng vấn bảng hỏi
Để điều tra mức độ nhận thức, nhu cầu về tác dụng, hiệu quả của BHYT
đối với ngƣời nghèo tại xã, nhà nghiên cứu tiến hành phỏng vấn theo bảng hỏi
với quy trình nhƣ sau: Phỏng vấn dựa trên bảng hỏi đã đƣợc thiết kế sẵn gồm
các câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Sau đó, tập hợp kết quả thu đƣợc xử lý tình

theo tỷ lệ phần trăm.
Kết quả đƣợc thực hiện trên mẫu đại diện cho các phiếu khảo sát 100
4


ngƣời nghèo tại xã Thiên Phủ có số lƣợng ngƣời nghèo chiếm tỷ lệ cao trong
huyện Quan Hóa. Trong đó, mỗi bảng đảm bảo cơ cấu đại diện bốn nhóm độ
tuổi khác nhau: dƣới 16 tuổi, 16 - 35 tuổi, 36 - 50 tuổi, từ 50 tuổi trở lên
Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
Nhà nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài đã tiến hành phỏng vấn
sâu cá nhân 5 ngƣời thuộc hộ nghèo, 01 lãnh đạo xã, 01 cán bộ làm công tác lao
động thƣơng binh xã hội và một cán bộ y tế xã.
Các kết quả phỏng vấn sâu giúp cho ngƣời đọc hiểu rõ hơn, chi tiết hơn về
thực trạng vấn đề sử dụng thẻ BHYT cho ngƣời nghèo và các vấn đề liên quan
đến việc khám chữa bệnh của ngƣời nghèo
Phƣơng phát quan sát
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, nhà nghiên cứu đã tiến hành quan
sát nghe, nhìn trong quá trình đi phỏng vấn sâu thu thập những thông tin về các
hiện tƣợng liên quan đến mục tiêu nghiên cứu của đề tài này nhằm đánh giá độ
chính xác của thơng tin thu đƣợc về thực trạng, thái độ, nhận thức của ngƣời
nghèo trong vấn đề khám chữa bệnh của ngƣời nghèo thông qua BHYT tại địa
phƣơng
Các kết quả phỏng vấn sâu giúp cho ngƣời đọc hiểu rõ hơn, chi tiết hơn về
thực trạng vấn đề sử dụng thẻ BHYT cho ngƣời nghèo và các vấn đề liên quan
đến việc khám chữa bệnh của ngƣời nghèo
9. Kết cấu của luận văn
Luận văn này ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, khuyến nghị và Phụ lục, nội dung
chính chia làm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn BHYT cho ngƣời nghèo
Chƣơng 2: Thực trạng tình hình thực hiện BHYT cho ngƣời nghèo trên địa

bàn xã Thiên Phủ, Quan Hóa, Thanh Hóa
Chƣơng 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
BHYT cho ngƣời nghèo trên địa bàn xã Thiên Phủ

5


Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ CHO NGƢỜI NGHÈO
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm sức khỏe
Theo Tổ chức y tế thế giới “Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về
thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ bao gồm tình trạng khơng có bệnh
hay thƣơng tật
1.1.2. Khái niệm BHYT
Khái niệm BHYT, theo Từ điển btách khoa Việt Nam, “là loại bảo hiểm
do Nhà nƣớc tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể
và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân
dân". Cũng nhƣ hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam thừa nhận quan
điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) với
cách tiếp cận BHYT là một nội dung thuộc an sinh xã hội và là loại hình bảo
hiểm phi lợi nhuận, nhằm đảm bảo chi phí y tế cho ngƣời tham gia khi gặp rủi
ro, ốm đau, bệnh tật
Theo Luật BHYT do Quốc hội ban hành ngày 14/11/2008, BHYT là hình
thức bảo hiểm đƣợc áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, khơng vì mục
đích lợi nhuận, do Nhà nƣớc tổ chức thực hiện và các đối tƣợng có trách nhiệm
tham gia theo quy định của Luật. Về cơ bản, đó là một cách dành dụm một
khoản tiền trong số tiền thu nhập của mỗi cá nhân hay mỗi hộ gia đình để đóng
vào quỹ do Nhà nƣớc đứng ra quản lý, nhằm giúp mọi thành viên tham gia quỹ
có ngay một khoản tiền trả trƣớc cho các cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, khi ngƣời tham gia khơng may ốm đau phải sử dụng các dịch vụ đó, mà

khơng phải trực tiếp trả chi phí khám chữa bệnh. Cơ quan bảo hiểm xã hội sẽ
thanh toán khoản chi phí này theo quy định của Luật BHYT.
BHYT là một trong những chính sách an sinh xã hội quan trọng, là cơ chế
tài chính vững chắc giúp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Chính sách
BHYT của Việt Nam đƣợc bắt đầu thực hiện từ năm 1992 . Trong suốt hơn 20
năm qua, BHYT đã khẳng định tính đúng đắn của một chính sách xã hội của
Nhà nƣớc, phù hợp với tiến trình đổi mới đất nƣớc . BHYT cịn góp phần đảm
6


bảo sự công bằng trong khám chữa bệnh, ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao
động và ngƣời dân nói chung ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về sự cần thiết
của BHYT cũng nhƣ trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội Đông đảo ngƣời lao
động, ngƣời nghỉ hƣu, mất sức, đối tƣợng chính sách xã hội và một bộ phận
ngƣời nghèo yên tâm hơn khi ốm đau đã có chỗ dựa khá tin cậy là BHYT.
1.1.3. Khái niệm nghèo và người nghèo
Nghèo đói là vấn đề mang tính lịch sử, nó ln vận động và biến đổi
theo thời gian và không gian nhất định .Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử,
mỗi quốc gia, mỗi khu vực hay mỗi tổ chức đều có quan niệm khác nhau về vấn
đề này . Để đƣa ra khái niệm nghèo đói một cách chính xác là vấn đề rất khó .
Ở Việt Nam, đã có nhiều quan điểm đƣa ra xung quanh vấn đề khái
niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói. Tuy nhiên, có rất nhiều ý kiến
tách riêng đói và nghèo, theo đó:
Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cƣ chỉ có điều kiện thoả mãn
một phần các nhu cầu tối thiểu, cơ bản của cuộc sống thấp hơn mức sống trung
bình của cộng đồng xét trên mọi phƣơng diện.
Ngồi khái niệm nghèo (nghèo đói) nói chung, ở Việt Nam cịn có khái niệm
đói.
“Đói là tình trạng một bộ phận dân cƣ nghèo 19 có mức sống dƣới mức
tối thiểu, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thu nhập khơng đủ đảm bảo duy

trì cuộc sống” Một chuyên gia của tổ chức Lao động quốc tế ,do ông Abapiasen
- ngƣời đƣợc giải Noben năm 1998 thì cho rằng: “Nghèo đói là sự thiếu cơ hội
lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng”
Theo quan niệm này, rõ ràng nghèo đói là những ngƣời đang phải đối mặt
với cái ăn, cái mặc, cuộc sống thiếu thốn mọi thứ đối với bản thân, thì khơng thể
có điều kiện tham gia với cộng đồng trong việc phát triển chung.
Tại hội nghị chống nghèo đói ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dƣơng do
ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Băng Cốc – Thái Lan đã đề cập đến nghèo
đói nhƣ sau: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cƣ khơng có khả năng
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con ngƣời, mà những nhu cầu ấy đƣợc xã
7


hội thừa nhận phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập
quán của địa phƣơng
Theo cách nhìn nhận của Ngân hàng phát triển Châu Á, thì ngƣời nghèo
đƣợc tiếp cận theo 2 cách, đó là: Nghèo tuyệt đối và nghèo tƣơng đối
Nghèo đói tuyệt đối là việc khơng có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối
thiểu để duy trì cuộc sống của con ngƣời”. Nghèo đói tuyệt đối có xu hƣớng đề
cập đến những ngƣời thiếu ăn theo nghĩa đen.
Nghèo đói tƣơng đối là tình trạng khơng có khả năng đạt tới mức sống tối
thiểu tại một thời điểm nào đó
Theo nghiên cứu của ILO cho rằng: “nghèo đói khơng chỉ là thiếu thốn về
thu nhập mà thiếu sự tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ cơ
bản khác” Ở Việt Nam, trƣớc đây quan niệm những ngƣời nghèo khổ là những
ngƣời bần cố nơng, khơng có ruộng đất, đi làm thuê cuốc mƣớn, cấy rẽ
Ngày nay, xác định những ngƣời nghèo, hộ nghèo là những hộ có mức
thu nhập thấp không đảm bảo cuộc sống tối thiểu, những hộ gia đình thƣờng
xun thiếu ăn.
Cịn ngƣời dân thì quan niệm nghèo đói của họ rất đơn giản và thực tế.

Nếu có sự thiếu thốn gì đó thì họ có thể cho là nghèo .Ví dụ: khơng có tiền cho
con đi học, khơng có tiền mua sắn vật dụng…đều đƣợc họ cho là nghèo đói. Từ
những cách tiếp cận trên, tác giả cho rằng dù đƣợc xuất phát từ những quan
điểm, cách tiếp cận nào thì khái niệm nghèo đói cũng dùng để chỉ một ngƣời hay
một nhóm ngƣời trong xã hội và đang phải sống trong cảnh thiếu thốn, không
đảm bảo đƣợc cuộc sống hàng ngày với những nhu cầu tối thiểu cho bản thân và
không đƣợc tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội thiết yếu. Nhƣ vậy, khái niệm
nghèo đói là sự thiếu hụt có thể là một khái niệm phù hợp và bao quát
Tóm lại, có thể đƣa ra một khái niệm chung về nghèo đói nhƣ sau: Nghèo
đói là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng hay một nhóm dân cƣ là
thấp, không đảm bảo những nhu cầu tối thiểu của con ngƣời (ăn, mặc, ở, học
tập, sức khoẻ, chăm sóc, đi lại,…) mà những nhu cầu này theo một tiêu chuẩn đã
đƣợc xã hội thừa nhận
8


1.2 Bản chất của BHYT
BHYT trƣớc hết là một nội dung của BHXH - một trong những bộ phận
quan trọng của hệ thống bảo đảm xã hội hay còn gọi là hệ thống an sinh xã hội.
Cùng với các hệ thống cung cấp (hay còn gọi là chế độ ƣu đãi xã hội, chế độ bao
cấp) và hệ thống cứu trợ xã hội, hoạt động của BHYT nói riêng và hoạt động
của BHXH nói chung, đã thực sự trở thành nền móng vững chắc cho sự bình ổn
xã hội. Chính vì vai trị cực kỳ quan trọng của BHXH nhƣ vậy, cho nên ở mọi
quốc gia trên thế giới, hoạt động của BHXH luôn do Nhà nƣớc đứng ra tổ chức
thực hiện theo hệ thống pháp luật về BHXH. Đó cũng là một cơ sở quan trọng
để phân biệt giữa BHXH về y tế và bảo hiểm tƣ nhân về y tế . Trong các nƣớc
cơng nghiệp phát triển thì loại hình BHYT tƣ nhân cũng đƣợc phát triển và cùng
tồn tại song song với BHXH về y tế . Vì vậy, nói đến BHYT ở đây là chúng ta
hiểu là đang đề cập đến BHXH về y tế hay nói cách khác là BHYT theo luật
pháp.Thực ra BHXH ở nƣớc ta hiện có các chế độ: Chế độ trợ cấp ốm đau, Chế

độ trợ cấp thai sản, Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, Chế độ
hƣu trí, Chế độ tử tuất thì cũng có thể hiểu BHYT là Chế độ khám chữa bệnh.
Khi lâm bệnh, ngƣời bệnh buộc phải đến các cơ sở y tế để đƣợc khám chữa
bệnh (KCB). Cũng từ bệnh tật, nhất là những bệnh tật kinh niên, bệnh mãn tính
hoặc bệnh hiểm nghèo đã dẫn đến các khoản chi phí KCB cực kỳ lớn . Có
những ngƣời bệnh phải đƣợc sử dụng các công nghệ kỹ thuật cao trong việc
chẩn đoán và chữa trị bệnh, phải sử dụng các loại thuốc đắt tiền và phải lƣu trú
dài ngày tại bệnh viện . Những khoản chi phí này khơng phải ai cũng có thể tự lo
liệu đƣợc . Bệnh tật đã dồn con ngƣời vào những thảm cảnh đáng lo ngại. Đối
với những ngƣời bệnh do hồn cảnh nghèo túng thì phải vay mƣợn để chữa trị
bệnh tật và sau đó trả nợ và có nhiều ngƣời cũng khơng thể vay mƣợn để tiếp tục
đƣợc chữa trị. Những ngƣời có điều kiện kinh tế khá giả hơn hoặc cận nghèo thì
sau những đợt bệnh tật cũng có thể bị đẩy vào tình cảnh nghèo khó . Đồng thời,
với bệnh tật cũng kéo theo sự mất mát về thu nhập do ngƣời bệnh khơng có sức
khoẻ để làm việc. Từ đó đã đe doạ đến cơ sở kinh tế và sự tồn tại trƣớc hết của
bản thân những ngƣời lao động, sau đó đến các thành viên, những ngƣời ăn theo
9


trong gia đình ngƣời bệnh và sau đó ảnh hƣởng đến sự ổn định xã hội. Do vậy,
ngƣời ta phải cần đến BHYT. BHYT sẽ đảm bảo chi trả toàn bộ hoặc từng phần
(tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội của từng nƣớc) những chi phí KCB "khổng lồ"
nói trên, giúp cho ngƣời bệnh vƣợt qua cơn hoạn nạn về bệnh tật, sớm phục hồi
sức khoẻ cũng nhƣ ổn định cuộc sống gia đình. BHYT sẽ bảo đảm cho những
ngƣời tham gia BHYT và các thành viên gia đình của họ những khả năng để đề
phòng, ngăn ngừa bệnh tật; phát hiện sớm bệnh tật; chữa trị và khôi phục lại sức
khoẻ sau bệnh tật . Do các chế độ BHXH về khám chữa bệnh, chế độ thai sản và
chế độ ốm đau (chi trả tiền thay thế tiền lƣơng trong những ngày ốm đau không
làm việc đƣợc) đều có cùng phƣơng thức hoạt động và các nguyên tắc cơ bản
chung, cho nên tùy theo đặc điểm lịch sử, tập quán của từng nƣớc mà BHYT có

thể bao gồm cả chế độ khám chữa bệnh, chế độ thai sản và chế độ ốm đau hoặc
đƣợc tách ra theo từng chế độ riêng biệt. Điều đó liên quan đến phạm vi đối
tƣợng tham gia BHXH, đến mức đóng góp và các chế độ đƣợc hƣởng.
Ở các nƣớc công nghiệp phát triển ngƣời ta định nghĩa BHYT trƣớc hết là
một tổ chức cộng đồng đồn kết tƣơng trợ lẫn nhau, nó có nhiệm vụ gìn giữ sức
khỏe, khơi phục lại sức khỏe hoặc cải thiện tình trạng sức khỏe của ngƣời tham
gia BHYT . Nhƣ vậy, trong hoạt động BHYT thì tính cộng đồng đồn kết cùng
chia xẻ rủi ro rất cao; nó là nền tảng cho lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe;
nó điều tiết mạnh mẽ giữa ngƣời khoẻ mạnh với ngƣời ốm yếu, giữa thanh niên
với ngƣời già cả và giữa ngƣời có thu nhập cao với những ngƣời có thu nhập
thấp. Sự đồn kết tƣơng trợ lẫn nhau trong BHYT là sự đảm bảo cho từng ngƣời
dựa trên cơ sở của sự đồn kết khơng điều kiện, của sự hợp tác cùng chung lòng,
chung sức và gắn kết chặt chẽ với nhau. Theo định nghĩa BHYT nêu trên, thì sự
đồn kết tƣơng trợ vừa mang một ý nghĩa tự giác, vừa mang ý nghĩa cùng chịu
trách nhiệm và vừa có sự thống nhất về quan điểm chung. Ngƣời ta cịn cho
rằng: Đồn kết tƣơng trợ là nền tảng xã hội cho sự phát triển của mỗi chế độ xã
hội lồi ngƣời và nó mang lại một gƣơng mặt nhân đạo mới cho chế độ xã hội
đó. Tính nhân đạo của hoạt động đồn kết tƣơng trợ sẽ đánh dấu bƣớc tiến bộ
của thể chế xã hội . Đây cũng chính là bản chất nhân văn của hoạt động BHYT
10


mà chúng ta thƣờng đề cập đến. Tuy nhiên đoàn kết tƣơng trợ khơng chỉ là
quyền đƣợc nhận mà cịn phải là nghĩa vụ đóng góp . Sự cơng bằng và bình đẳng
của một chế độ xã hội đƣợc gắn bó với sự đồn kết đƣợc thể hiện ở chỗ: ai muốn
đạt đƣợc sự bền chặt về đồn kết thì cần thực hiện nhiều hơn sự cơng bằng. Điều
đó chỉ có thể đƣợc tạo ra thơng qua sự điều chỉnh trong thực tế, vì "sự cơng
bằng" là yếu tố động, nó chỉ đạt đƣợc tại một thời điểm, cịn lại đều là sự không
công bằng. Đây là một trong những yếu tố tác động đến sự phát triển xã hội . Do
vậy, cần phải có sự tích cực điều chỉnh thực tế một cách thƣờng xuyên nhằm

đảm bảo mối quan hệ tƣơng thích giữa nghĩa vụ và quyền lợi trong hoạt động
của BHYT.
Nếu nhìn trên tổng thể nền kinh tế quốc dân và xét về phƣơng diện điều
tiết kinh tế vĩ mơ thì cơng cụ BHXH - trƣớc hết phải kể đến BHYT là cơng cụ
thứ hai trong q trình phân phối lại (cơng cụ thứ nhất là thuế) góp phần bảo
đảm sự bình đẳng và cơng bằng xã hội.
Nếu nhìn trên tổng thể nền kinh tế quốc dân và xét về phƣơng diện điều
tiết kinh tế vĩ mơ thì công cụ BHXH - trƣớc hết phải kể đến BHYT là cơng cụ
thứ hai trong q trình phân phối lại (cơng cụ thứ nhất là thuế) góp phần bảo
đảm sự bình đẳng và cơng bằng xã hội. Hệ thống BHXH về y tế ngay từ khi
hình thành đã khơng định hƣớng theo mức độ rủi ro mà định hƣớng theo nguyên
tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi trả trực tiếp. Điều đó đƣợc thể hiện rất rõ
là: khi bị ốm đau thì ngƣời bệnh sẽ đƣợc chữa trị cho đến khi khoẻ mạnh trở lại
bằng mọi phƣơng pháp, kỹ thuật y tế hiện thời mà không căn cứ vào trƣớc đó họ
đã đóng góp BHXH đƣợc bao nhiêu. Nếu định hƣớng theo mức độ rủi ro thì khi
ốm đau họ sẽ đƣợc đền bù với mức là bao nhiêu căn cứ vào trƣớc đó họ đã đóng
góp theo mức nào nhƣ trong BHYT tƣ nhân hay còn gọi là bảo hiểm thƣơng
mại. Chính định hƣớng này đã làm nền tảng cho các nguyên tắc cơ bản về
BHYT, nó đƣợc tồn tại và phát triển đến ngày nay . Đến nay, đặc trƣng của hoạt
động BHXH trong lĩnh vực y tế vẫn là sự định hƣớng theo nhu cầu sức khoẻ cần
bảo vệ, đối tƣợng tham gia vẫn là đơng đảo những ngƣời có quan hệ lao động,
đối tƣợng này chiếm phần lớn trong BHYT. Trong quá trình phát triển, BHYT
11


luôn mở rộng phạm vi đối tƣợng tham gia theo nghĩa vụ (mang tính chất bắt
buộc) và ban đầu là BHYT cho ngƣời lao động làm thuê (ngƣời có quan hệ lao
động), rồi đến BHYT cho ngƣời lao động tự do, cho ngƣời lao động trong nông
nghiệp cho đến khi BHYT tồn dân.
Nếu nhìn nhận dƣới giác độ kinh tế thì BHYT trƣớc hết đƣợc hiểu là sự

hợp nhất kinh tế của số lƣợng lớn những ngƣời trƣớc cùng một loại hiểm nguy
do bệnh tật gây nên mà trong từng trƣờng hợp cá biệt khơng thể tính tốn trƣớc
và lo liệu đƣợc. Nhƣng cái chung đó cần phải đáp ứng đƣợc bằng nguồn tài
chính dự tính một cách thoả đáng thông qua hệ thống cân bằng rủi ro tƣơng ứng
do Nhà nƣớc đứng ra tổ chức thực hiện. Cụ thể nhƣ sau: Tổng chi phí cho khám
chữa bệnh Tổng số tiền đóng góp của những ngƣời tham gia BHYT. Nhƣ vậy,
cân đối về chi phí KCB đƣợc thực hiện cân bằng giữa một bên là tổng số chi phí
KCB cho những ngƣời có nhu cầu và cần phải KCB và bên kia là tổng số đóng
góp của tất cả những ngƣời tham gia BHYT bất kể họ có hoặc khơng có nhu cầu
KCB (tức là cả những ngƣời đang khoẻ mạnh). Thời gian cân đối về thu - chi
của BHYT thơng thƣờng là một năm. Có những nƣớc ngƣời ta tính tốn cân đối
để dự trù kinh phí chi trả cho thời gian thêm là 1 tháng. Việc cân đối thu chi cịn
có thể đƣợc bổ sung thêm tuỳ tình hình cụ thể của từng nƣớc và từng năm cụ
thể. Trong tổng số chi cịn phải tính thêm khoản chi phí cho bộ máy quản lý làm
cơng tác BHYT . Trong khoản thu có thể bao gồm cả các khoản thu từ đóng góp
của ngân sách địa phƣơng, của Trung ƣơng và các khoản thu khác.
Nguyên tắc cộng đồng chia xẻ rủi ro với ý tƣởng nhân văn cao cả của nó
đã loại trừ mục tiêu lợi nhuận thƣơng mại của cộng đồng những ngƣời tham gia
BHYT . Do vậy, hoạt động BHXH về y tế khơng có khoản thu lợi nhuận và
đƣơng nhiên cũng khơng vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, tỷ lệ đóng góp chỉ đƣợc
nâng lên theo địi hỏi quyền lợi chung của q trình thực hiện BHYT. Tức là tỷ
lệ đóng góp BHYT chỉ đƣợc nâng lên theo nhu cầu chữa trị bệnh tật, nhu cầu
nâng cao chất lƣợng KCB và ứng dụng những thành tựu khoa học tiến tiến vào
công tác KCB của cả cộng đồng.
Phƣơng thức đoàn kết, tƣơng trợ, chia xẻ rủi ro phải đƣợc thực hiện bằng
12


sự điều tiết nhằm cân bằng mang tính xã hội . Việc lập ra quỹ BHYT và từng
bƣớc mở rộng phạm vi đối tƣợng tham gia mà từng bƣớc mở rộng phạm vi cân

bằng, chia xẻ rủi ro trong cộng đồng những ngƣời tham gia BHYT. Về mặt kỹ
thuật bảo hiểm thì ngun tắc đồn kết tƣơng trợ chia xẻ rủi ro chính là q trình
phân phối lại giữa những ngƣời khoẻ mạnh với ngƣời ốm đau, ngƣời trẻ với
ngƣời già... Vì vậy, đối tƣợng tham gia bảo hiểm phải khơng ngừng đƣợc mở
rộng trong suốt q trình phát triển và đƣợc định hƣớng cho nhiều nhóm đối
tƣợng lao động khác nhau (ví dụ khơng phân biệt giữa ngƣời lao động có thu
nhập cao với ngƣời có thu nhập thấp, giữa ngƣời đi làm việc với ngƣời thất
nghiệp hoặc ngƣời đã nghỉ hƣu, giữa gia đình có thu nhập cao, khơng con cái
với gia đình đơng con) mới có ý nghĩa trong việc điều tiết trong cộng đồng xã
hội.
Nguyên tắc đoàn kết tƣơng trợ cùng chia xẻ rủi ro chỉ đƣợc thực hiện một
cách đầy đủ và hợp lý thông qua những giới hạn nhất định . BHYT chỉ bao gồm
những đối tƣợng là những ngƣời về nguyên tắc luôn có nhu cầu đƣợc bảo vệ về
sức khoẻ . Những đối tƣợng cụ thể sẽ đƣợc quy định trong pháp luật
BHXH về y tế đƣợc thực hiện trƣớc hết đối với những ngƣời lao động phụ
thuộc, tức là ngƣời lao động khơng có tƣ liệu sản xuất và phải đi làm thuê hay
những ngƣời có quan hệ lao động. Đây là loại hình BHXH nghĩa vụ, nó mang
tính chất bắt buộc đối với mọi ngƣời lao động phụ thuộc và chủ sử dụng lao
động. Sau đó với bản chất ƣu việt của BHXH về y tế nên nó đƣợc mở rộng ra
các đối tƣợng lao động khác nhƣ ngƣời hành nghề tự do, lao động nông, lâm
ngƣ nghiệp... và BHYT theo đơn vị gia đình.
Vấn đề KCB khơng đơn thuần chỉ liên quan đến vấn đề kỹ thuật y tế mà còn
liên quan một cách rất chặt chẽ đến các yếu tố kinh tế nhƣ: các khoản chi trả cho
các nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật (khám bệnh, phẫu thuật, thủ thuật...) của các
bác sĩ, chi phí cho bệnh viện với các trang thiết bị, vật tƣ y tế phục vụ cho KCB
và thuốc men - nếu nhìn dƣới giác độ kinh tế - đó là "Cung" của ngành y tế. Cịn
phía "Cầu" là bệnh tật, những bệnh tật này cần đến các dịch vụ KCB và những
hàng hóa cần thiết cho sức khoẻ . Vì vậy khi thực hiện BHYT, ở các nƣớc công
13



nghiệp phát triển bên cạnh việc sử dụng vai trò điều tiết của Nhà nƣớc, ngƣời ta
còn chú trọng sử dụng quan hệ cung - cầu điều tiết trên thị trƣờng sức khoẻ hay
còn gọi là thị trƣờng y tế nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn quỹ đóng góp
của ngƣời tham gia BHYT và nâng cao chất lƣợng KCB
Trong các nƣớc công nghiệp phát triển ở châu Âu, số ngƣời tham gia BHYT
theo luật pháp chiếm tới 90% dân số, chỉ 10% dân số cịn lại khơng tham gia
BHXH. Nhóm ngƣời này khơng thuộc diện đối tƣợng điều chỉnh của luật BHYT
và phần lớn trong số họ là những ngƣời giàu có, họ có đủ khả năng tự lo 27 liệu
khi ốm đau hoặc tham gia BHYT tƣ nhân để hƣởng những quyền lợi cao hơn khi
ốm đau .
Ở nƣớc ta BHYT xã hội đƣợc tiến hành từ năm 1992 và cho đến nay vẫn
thực hiện BHYT bắt buộc đối với ngƣời lao động có quan hệ việc làm giữa
ngƣời sử dụng lao động với ngƣời lao động. Những đối tƣợng xã hội nhƣ: ngƣời
có cơng với cách mạng, thân nhân sĩ quan quân đội, ngƣời nghèo cũng đƣợc
Nhà nƣớc cấp kinh phí để tham gia BHYT xã hội . Các đối tƣợng là trẻ em dƣới
6 tuổi đƣợc khám chữa bệnh miễn phí bằng nguồn ngân sách của Nhà nƣớc và
địa phƣơng và đang đƣợc xem xét để tham gia BHYT Hình thức BHYT tự
nguyện đang đƣợc vận động thực hiện đối với học sinh, sinh viên và nhóm cộng
đồng theo địa bàn dân cƣ hoặc theo tổ chức xã hội.
1.3. Sự cần thiết của Bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo
Con ngƣời trong cuộc sống, cũng nhƣ trong q trình lao động ln phải
chịu ảnh hƣởng và chịu sự tác động của môi trƣờng xung quanh. Sự tác động
này bao gồm các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể . Trong thời đại cơng nghiệp hố
hiện đại hố, lồi ngƣời lại chịu ảnh hƣởng của những thứ do chính mình gây ra,
đó là nền sản xuất công nghiệp đã phá vỡ môi trƣờng sinh thái do chất thải từ
các khu công nghiệp tạo ra. Thêm vào đó lao động khơng cịn đơn thuần là một
hành vi có ý thức của con ngƣời, khơng chịu bất cứ một ảnh hƣởng hay tác động
nào khác, mà ở nhiều nơi, nhiều ngƣời đã phải làm việc ở những môi trƣờng
nguy hiểm, độc hại. Mơi trƣờng xung quanh có tác động lớn đến sức khoẻ của

con ngƣời, nên ốm đau bệnh tật là khó ai tránh khỏi.
14


Đặc biệt ở nƣớc ta, hậu quả do chiến tranh để lại là rất nặng nề từ đó ảnh
hƣởng lớn đến sức khoẻ của nhân dân. Chính vì vậy mà nhu cầu đƣợc chăm sóc
sức khoẻ, bảo vệ sức khoẻ là một nhu cầu tất yếu của mọi ngƣời dân trong cộng
đồng xã hội . Xã hội càng phát triển thì nhu cầu này càng tăng lên . Tuy vậy khi
ốm đau không phải ai cũng đủ khả năng để trang trải các khoản chi phí khám
chữa bệnh, đặc biệt là những ngƣời nghèo . Vì vậy, Đảng và Nhà nƣớc ta đã xác
định BHYT là một trong những loại hình hoạt động có bản chất .
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, ngành y tế cũng đã có
những bƣớc chuyển biến lớn, đi sát với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, do
đó mà phƣơng tiện khám chữa bệnh ngày càng hiện đại và đắt tiền. Hệ thống
dịch vụ đƣợc nâng cấp, đội ngũ cán bộ y tế đƣợc đào tạo ngày một chu đáo hơn,
lành nghề hơn, trình độ quản lý kinh tế và hệ thống y tế ngày càng chặt chẽ hơn,
từ đó làm cho chi phí khám chữa bệnh tăng lên rất nhiều. Đặc biệt, ngày nay y
học đã phát triển mạnh mẽ, nhiều loại thuốc đặc trị ra đời, nên việc chăm sóc
sức khoẻ và chữa bệnh ngày càng đắt đỏ . Tình trạng này làm cho một bộ phận
lớn dân cƣ khơng có khả năng chi trả khi ốm đau , bệnh tật, buộc phải có sự hỗ
trợ của BHYT. Tính nhân văn, nhân đạo cần phải đƣợc triển khai
Mặt khác, khi chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, dịch vụ khám chữa
bệnh thƣờng đắt đỏ, có thể nói là cao nhất trong tất cả các dịch vụ xã hội. Khi
không may bị ốm đau bệnh tật bất ngờ, đại đa số ngƣời dân khơng đủ khả năng
tài chính để bảo vệ sức khoẻ của mình cũng nhƣ gia đình. Điều này dẫn đến sự
cần thiết phải có một giải pháp để giải quyết vấn đề trên và Bảo hiểm y tế ra đời
trên cơ sở đó .
Hơn nữa nền kinh tế tăng trƣởng, đời sống nhân dân ngày càng đƣợc
nâng cao, tuổi thọ của ngƣời dân ngày càng đƣợc tăng lên, cơ cấu dân số đƣợc
chuyển dịch theo chiều hƣớng số ngƣời già nhiều lên, làm cho nhu cầu khám

chữa bệnh khơng ngừng tăng lên. Vì vậy hệ thống khám chữa bệnh, cơ sở vật
chất y tế chƣa đáp ứng nổi, đặc biệt ngân sách Nhà nƣớc không thể thoả mãn
đƣợc nhu cầu này . Chính vì thế chỉ có BHYT mới đáp ứng đƣợc với tính chất
huy động sự đóng góp của số đơng ngƣời khoẻ mạnh để bù đắp cho số ít ngƣời
15


ốm đau , giúp các gia đình, doanh nghiệp tháo gỡ đƣợc khó khăn.
Ở nƣớc ta đã có một thời gian dài, Nhà nƣớc dùng tiền từ ngân sách để
lo việc chữa bệnh cho nhân dân . Ðến nay khả năng đó rất hạn chế vì nhu cầu
chữa bệnh ngày càng tăng, chi phí y tế ngày càng đắt, trong khi đó cơ sở vật chất
ngành y tế ngày càng giảm sút, cần phải sửa chữa cũng nhƣ cần có thêm các
phƣơng tiện để điều trị hữu hiệu.
Việc thu một phần viện phí trong những năm qua khơng những khơng
đủ chi phí cho ngành y tế, vì mức thu đƣợc là quá ít so với thực chi khám chữa
bệnh, mà cịn tạo ra sự bất cơng mới, gây khó khăn cho ngƣời nghèo. Để khắc
phục từng bƣớc những điều chƣa tốt trong việc thu viện phí cần phải sớm tổ
chức thực hiện BHYT.
Từ những vấn đề trên, BHYT ra đời là tối cần thiết vì nó đáp ứng đƣợc
nguyện vọng của đại đa số ngƣời dân trong xã hội .
1.4. Vai trò và tầm quan trọng của BHYT
BHYT là một chính sách xã hội do nhà nƣớc tổ chức thực hiện, nhằm
huy động sự đóng góp của ngƣời sử dụng lao động, ngƣời lao động, các tổ chức
và cá nhân có nhu cầu đƣợc bảo hiểm, từ đó hình thành nên một quỹ và quỹ này
sẽ đƣợc dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh, khi một ngƣời nào đó khơng
may mắc phải bệnh tật mà họ có tham gia BHYT.
Mặc dù ở mỗi nƣớc khác nhau thì sẽ có các hình thức tổ chức khác nhau ,
có nƣớc tổ chức độc lập với loại hình bảo hiểm khác, có nƣớc lại coi đây là một
trong những chế độ của BHXH. Ở nƣớc ta BHYT đã xác nhập vào BHXH kể từ
30 ngày 24/01/2002 Nhƣng mặc dù đƣợc tổ chức nhƣ thế nào đi chăng nữa, thì

BHYT vẫn có vai trị riêng biệt mang tính xã hội rộng rãi nhƣ sau
Thứ nhất BHYT chính là biện pháp để xố đi sự bất công giữa ngƣời giàu
và ngƣời nghèo, để mọi ngƣời có bệnh đều đƣợc điều trị với điều kiện họ có
tham gia BHYT . Với BHYT, mọi ngƣời sẽ đƣợc bình đẳng hơn, đƣợc điều trị
theo bệnh, đây là một đặc trƣng ƣu việt của BHYT. BHYT mang tính nhân đạo
cao cả và đƣợc xã hội hố theo ngun tắc “Số đơng bù số ít”. Số đơng ngƣời
tham gia để hình thành quỹ và quỹ này đƣợc dùng để chi trả chi phí khám chữa
16


bệnh cho một số ít ngƣời khơng may gặp phải rủi ro bệnh tật. Tham gia BHYT
vừa có lợi cho mình , vừa có lợi cho xã hội. Sự đóng góp của mọi ngƣời chỉ là
đóng góp phần nhỏ so với chi phí khám chữa bệnh khi họ gặp phải rủi ro ốm đau
, thậm chí sự đóng góp của cả một đời ngƣời cũng không đủ cho một lần chi phí
khi mắc bệnh hiểm nghèo. Do vậy sự đóng góp của cộng đồng xã hội để hình
thành nên quỹ BHYT là tối cần thiết và đƣợc thực hiện theo phƣơng trâm:
“Mình vì mọi ngƣời, mọi ngƣời vì mình”, khi khoẻ thì để hỗ trợ ngƣời ốm đau,
khi khơng may ốm đau thì ta lại nhận đƣợc sự đóng góp của cộng đồng, điều này
đã thực sự mang lại sự công bằng trong khám chữa bệnh.
Thứ hai: BHYT giúp cho ngƣời tham gia khắc phục khó khăn cũng nhƣ
ổn định về mặt tài chính khi khơng may gặp phải rủi ro ốm đau. Nhờ có BHYT,
ngƣời dân sẽ an tâm đƣợc phần nào về sức khoẻ cũng nhƣ kinh tế, bởi vì họ đã
có một phần nhƣ là quỹ dự phịng của mình giành riêng cho vấn đề chăm sóc
sức khoẻ, đặc biệt với những ngƣời nghèo chẳng may mắc bệnh. Nhƣ vậy
BHYT ra đời có tác dụng khắc phục hậu quả và kịp thời ổn định đƣợc cuộc sống
cho ngƣời dân khi họ bị ốm đau, tạo cho họ một niềm lạc quan trong cuộc sống,
từ đó giúp họ yên tâm lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất cho chính bản
thân họ và sau đó là cho xã hội, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của xã hội.
Thứ ba: Bảo hiểm y tế ra đời cịn góp phần giáo dục cho mọi ngƣời dân
trong xã hội về tính nhân đạo theo phƣơng châm: “Lá lành đùm lá rách”, đặc

biệt là giúp giáo dục cho trẻ em ngay từ khi cịn nhỏ tuổi về tính cộng đồng
thơng qua loại hình BHYT học sinh - sinh viên.
Thứ tƣ: BHYT làm tăng chất lƣợng khám chữa bệnh và quản lý y tế thông
qua hoạt động quỹ BHYT đầu tƣ. Lúc đó trang thiết bị về y tế sẽ hiện đại hơn,
có kinh phí để sản xuất các loại thuốc đặc trị chữa bệnh hiểm nghèo, có điều
kiện nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh một cách có hệ thống và hoàn thiện
hơn, giúp ngƣời dân đi khám chữa bệnh đƣợc thuận lợi. Đồng thời đội ngũ cán
bộ y tế sẽ đƣợc đào tạo tốt hơn, các y, bác sỹ sẽ có điều kiện nâng cao tay nghề,
tích luỹ kinh nghiệm, có trách nhiệm đối với cơng việc hơn, dẫn đến sự quản lý
dễ dàng và chặt chẽ hơn trong khám chữa bệnh
17


Thứ năm: BHYT cịn có tác dụng góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân
sách Nhà nƣớc. Hiện nay kinh phí cho y tế đƣợc cấu thành chủ yếu từ 4 nguồn:
Từ ngân sách Nhà nƣớc
Từ quỹ BHYT
Thu một phần viện phí và dịch vụ y tế .
Tiền đóng góp của các tổ chức quần chúng, của các tổ chức từ thiện và
viện trợ quốc tế .
Trong bốn nguồn trên từ khi chƣa có BHYT thì nguồn do ngân sách Nhà
nƣơc cấp là chủ yếu. Do vậy BHYT ra đời đã thực sự góp phần giảm bớt gánh
nặng cho ngân sách Nhà nƣớc.
Thứ sáu: Chỉ tiêu phúc lợi xã hội trong mỗi nƣớc cũng biểu hiện trình độ phát
triển của nƣớc đó. Do vậy, BHYT là một cơng cụ vĩ mô của Nhà nƣớc để thực
hiện tốt phúc lợi xã hội, đồng thời tạo nguồn tài chính hỗ trợ, cung cấp cho hoạt
động chăm sóc sức khoẻ của ngƣời dân.
Thứ bảy: BHYT cịn góp phần đề phịng và hạn chế những bệnh hiểm nghèo
theo phƣơng châm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Với việc kết hợp với các cơ sở
khám chữa bệnh BHYT kiểm tra sức khoẻ, chăm sóc sức khoẻ cho đại đa số

những ngƣời tham gia BHYT, từ đó phát hiện kịp thời những căn bệnh hiểm
nghèo và có phƣơng pháp chữa trị kịp thời, tránh đƣợc những hậu quả xấu, mà
nếu không tham gia BHYT tâm lý ngƣời dân thƣờng sợ tốn kém khi đi bệnh
viện, do đó mà coi thƣờng hoặc bỏ qua những căn bệnh có thể dẫn đến tử vong.
1.5. Đối tƣợng tham gia và phạm vi BHYT
1.5.1. Đối tượng BHYT
BHYT nhƣ trên đã nói nhằm mục đích chăm lo sức khoẻ, khám bệnh và
chữa bệnh cho nhân dân do đó đối tƣợng của BHYT chính là sức khoẻ của mọi
ngƣời đƣợc bảo hiểm . Có nghĩa là nếu ngƣời đƣợc bảo hiểm gặp rủi ro về sức
khoẻ (bị ốm đau, bệnh tật.. thì sẽ đƣợc cơ quan BHYT xem xét chi trả bồi
thƣờng. BHXH ở nƣớc ta hiện có các chế độ: Chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ
cấp ốm đau, chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hƣu trí,
chế độ tử tuất nhƣ vậy cũng thể hiểu BHYT là chế độ khám chữa bệnh (KCB).
18


Hoạt động y tế thƣờng bao gồm: phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng.
Tuỳ theo tính chất và phạm vi hoạt động mà BHYT ở mỗi quốc gia có các loại
hình nhƣ: Phịng bệnh và chữa bệnh Chữa bệnh và phục hồi chức năng Phòng
bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng Ở các quốc gia có các loại hình nhƣ vậy
thì BHYT đƣợc gọi là Bảo hiểm sức khoẻ. Cịn nếu chỉ gồm hoạt động chữa
bệnh thì chỉ gọi là BHYT
1.5.2. Đối tượng tham gia BHYT
BHYT nói riêng và bảo hiểm sức khoẻ nói chung là một dịch vụ bảo hiểm
rất nổi tiếng trên thế giới và đƣợc đơng đảo nhân dân tham gia. Bất kì ai có sức
khoẻ có nhu cầu Bảo hiểm sức khỏe đều có quyền tham gia bảo hiểm . Nhƣ vậy
đối tƣợng tham gia BHYT là mọi ngƣời dân có nhu cầu BHYT cho sức khoẻ của
mình hoặc cũng có thể là ngƣời đại diện cho một tập thể, một đơn vị, cơ
quan…đứng ra kí kết hợp đồng BHYT cho tập thể, đơn vị, cơ quan đó. Trong
trƣờng hợp này, mỗi cá nhân tham gia BHYT tập thể sẽ đƣợc cấp một giấy

chứng nhận bảo hiểm hoặc thẻ bảo hiểm để phục vụ quyền lợi của riêng mình .
Văn bản này có thể có tên gọi khác nhau nhƣ giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc
thẻ bảo hiểm…ở các nƣớc khác nhau . Trong thời kỳ đầu mới triển khai BHYT,
thông thƣờng các nƣớc đều có hai nhóm đối tƣợng tham gia BHYT là bắt buộc
và tự nguyện . Hình thức bắt buộc áp dụng đối với công nhân viên chức Nhà
nƣớc và một số đối tƣợng nhƣ ngƣời về hƣu có hƣởng lƣơng hƣu…Hình thức tự
nguyện áp dụng cho mọi thành viên khác trong xã hội có nhu cầu và thƣờng giới
hạn trong độ tuổi nhất định tuỳ theo từng quốc gia. Phạm vi bảo hiểm BHYT là
một chính sách xã hội do Nhà nƣớc tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng
góp của các cá nhân, tập thể để thanh tốn chi phí y tế cho ngƣời tham gia bảo
hiểm. Thông thƣờng, BHYT hoạt động trên cơ sở quỹ tài chính của mình, nhà
nƣớc chỉ hỗ trợ tài chính khi thật cần thiết . Vì hoạt ðộng theo nguyên tắc cân
bằng thu chi nhý vậy nên tuy mọi ngýời dân trong xã hội đều có quyền tham gia
BHYT nhƣng thực chất BHYT không chấp nhận bảo hiểm cho những ngƣời
mắc bệnh nan y nếu khơng có thoả thuận gì thêm. Những ngƣời đã tham gia
BHYT khi gặp rủi ro về sức khoẻ nhƣ bị ốm đau, bệnh tật đều đƣợc thanh toán
19


×