Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tài liệu Đề tài “Vận dụng phương pháp chỉ số trong phân tích kết quả sản xuất, kinh doanh của Công ty Sơn tổng hợp” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.92 KB, 28 trang )


















CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP


ĐỀ TÀI: Vận dụng phương pháp chỉ số trong
phân tích kết quả sản xuất, kinh doanh của
Công ty Sơn tổng hợp



















……….., tháng … năm …….



1
LỜI MỞ ĐẦU

Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế
giới.Các vấn đề về xuất nhập khẩu,về đầu tư nước ngoài đang là những chủ
đIểm cho các cuộc hội thảo kinh tế ở Việt Nam .Làm sao để tăng cường giá
trị xuất nhập khẩu ,thu hút đầu tư đó là những vấn đề đáng quan tâm cho
những nhà hoạch định chính sách .
Nhìn nhận vấn đề xuất nhập khẩu ,đầu tư chúng ta không thể bỏ qua
vấn đề về tỷ giá hối đoái, một thước đo giá trị của dồng tiền này bằng đồng
tiền khác.Bạn có bao giờ nghĩ rằng tỷ giá sẽ ảnh hưỏng đến cuộc sống của
bạn như thế nào chưa,giả sử bạn là một nhà xuất khẩu Việt nam bạn vay
ngân hàng 1 triệu USD (=15 tỷ VND) để nhập khầu,khi bạn bán được hàng
bạn thu được 16 tỷ VND tuy nhiên lúc này tỷ giá là 20000VND/1USD bạn
đã bị lỗ ít nhất 3 tỷ đồng và đIều đó có thể khiến bạn trở thành kẻ đứng
đường.Hiểu biết về tỷ giá và dự doán đúng sự biến động về tỷ giá là thành

công của nhiều doanh nghiệp,bởi vậy mới hình thành các phòng kinh doanh
ngoại tệ ở các ngân hàng.Vấn đề tỷ giá còn ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề
xuất nhập khẩu.Nếu đồng tiền Việt nam mà lên giá sẽ bất lợi cho các nhà
xuất khẩu bởi hàng hoá việt nam đã đắt lên một cách tương đối,ngược lại sẽ
làm cho các nhà nhập khẩu bất lợi.
Từ thực tế trên em xin tìm hiểu đề tài về "Tỷ giá hối đoái và vấn đề
tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay” nhằm giúp cho quá trình học tập và
nghiên cứu sau này của bản thân và cho bạn bè quan tâm nắm rõ hơn về vấn
đề này.
Trong quá trình thu thập thông tin còn nhiều hạn chế do vậy có thể
còn nhiều sai sót mong các bạn thông cảm và trân thành góp ý.
Em xin cảm ơn TS Trần Đăng Khâm đã hướng dẫn và giúp đỡ em
hoàn thành đề án này !


2
Trang



3
Mụclục 1
Mở đầu 2
Nội dung 3
Chương I: Tổng quan chung về hệ thống tỷ giá hối đoái 3
I. Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và các khái niệm liên quan 3
1. Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái 3
2. Tỷ giá hối đoái thực tế 4
3. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối
đoái

4
II. Các hệ thống tỷ giá 5
1. Chế độ tỷ giá cố định 5
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods 6
3. Sự can thiệp của nhà nước vào hệ thống tỷ giá hối đoái 10
Chương II: Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam 14
I. Sơ lược về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam Từ năm
1955 đến nay
14
II. Vấn đề tỷ giá hiện nay 20
Chương
III:
Những giả pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái
I. Những vấn đề tồn tại trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái
trong thời gian qua
22
II. Các giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái 23
Kết luận 27
Danh muc tài liệu tham khảo 28


4
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I

TỔNG QUAN CHUNG VỀ HỆ THỐNG
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
I. MỘT
SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC KHÁI NIỆM CÓ LIÊN
QUAN.

Để có thể đi sâu nghiên cứu tỷ giá hối đoái, trước hết chúng ta cần phải
xem xét một số khái niệm có liên quan đến vấn đề này.
1. Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái.
Vì các nước khác nhau thì sử dụng những đồng tiền khác nhau hay
những phương thức thanh toán khác nhau nên khi muốn mở rộng quan hệ
thương mại quốc tế thì cần phải có một nơi để có thể trao đổi tiền giữa các
nước với nhau, đó chính là thị trường ngoại hối. Như vậy thị trường ngoại
hối là thị trường quốc tế trong đó đồng tiền quốc gia này có thể đổi lấy tiền
của quốc gia khác.
Thông thường tỷ giá hối đoái được hiểu là số lượng đơn vị nội tệ cần
thiết để mua một đơn vị ngoại tệ trên thị trường ngoại hối; là hệ số quy đổi
của một đồng tiền này sang một đồng tiền khác được xác định bởi mối quan
hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Trong kinh tế học khi phân tích về tỷ giá
hối đoái, người ta thường sử dụng các kí hiệu sau :
* e-Tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ tính theo đồng tiền nước ngoài
* E-Tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ
Chính sách tỷ gá hối đoái của mỗi quốc gia thường liên quan đến sức
cạnh tranh quốc tế của quốc gia đó. Nếu e giảm tỷc là giá trị của đồng nội tệ
giảm thì giá cả của hàng hoá trong nước sẽ rẻ tương đối so với giá cả của


5
hàng hoá ở nước ngoài, vì thế xuất khẩu sẽ có xu hướng tăng, nhập khẩu có
xu hướng giảm, khả năng cạnh tranh của quốc gia này tăng lên.
2. Tỷ giá hối đoái thực tế.
Khả năng cạnh tranh còn gọi là tỷ giá hối đoái thực tế. Để hiểu được
vấn đề này phải phân biệt được tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái
thực. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là một khái niệm tiền tệ phản ánh mức giá
tương đối của hai đồng tiền trong khi tỷ giá hối đoái thực lại phản ánh mức
giá tương đối giữa hai loại hàng hoá. Chính xác hơn, tỷ giá hối đoái thực là

mức giá tương đối của những hàng hoá mậu dịch tương ứng với các hàng
hóa phi mậu dịch. Như vậy điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng với
giá so sánh giữa hàng hoá thương mại hoá và hàng hoá không thương mại
hoá đem lại đồng thời sự cân bằng nội và cân bằng ngọai. Cân bằng nội có
nghĩa là thị trường hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên tục,
cân bằng ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân vãng lai được tài trợ một cách
bền vững từ luồng vốn nước ngoài.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái thực
(RER) là vị trí cạnh tranh quốc tế của quốc gia có đồng tiền tương ứng. Tỷ
giá hối đoái thực giảm xuống phản ánh mức tăng chi phí sản xuất của những
hàng hoá mậu dịch trong nước. Nếu không có sự tăng giá tương ứng ở các
quốc gia khác thì việc đó đồng nghĩa với việc suy giảm vị trí cạnh tranh đó :
họ sản xuất hàng hoá mậu dịch kém hiệu quả hơn các nước khác.
3. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá.
Trên thực tế, sự hình thành quan hệ tỷ giá là tác động của nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan. Tuy có những mâu thuẫn trong phương pháp
nghiên cứu, tiếp cận và đánh giá vai trò, tính chất, phương thức cường độ,
tốc độ tác động của các yếu tố cụ thể, song nhìn chung có một số yếu tố
quan trọng, trực tiếp cấu thành NP và tác động lên quá trình hình thành tỷ
giá hối đoái, đó là:


6
-Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước.
-Trạng thái cán cân thanh toán ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ, thông
qua đó tác động lên mức tỷ giá và kéo theo sự dao động của tỷ giá lệch khỏi
sức mua của đồng tiền.
-Chênh lệch mức giá giữa các nước, giữa thị trường tín dụng nội địa và
quốc tế.
-Thực trạng hoạt động của các thị trường tài chính, ngoại hối và các xu

hướng nghiệp vụ đầu cơ ảnh hưởng đến tỷ giá.
-Hệ số tín nhiệm đối với các đồng tiền trên thị trường Tài chính trong
nước và quốc tế.
- Các phương thức, công cụ điều chỉnh, các chính sách can thiệp của Nhà
nước.
- Các cú sốc kinh tế, chính trị xã hội và các chính sách lớn của Nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế, tài chính tiền tệ.
II. CÁC HỆ THỐNG TỶ GIÁ.
Tỷ hối đoái có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối tượng tham
gia vào các giao dịch đối ngoại cho dù đó là nhà thương mại hay nhà đầu tư.
Tỷ giá hối đoái cũng có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ trong đó tỷ
giá có thể là mục tiêu hay công cụ hay chỉ đơn thuần là một chỉ số... phụ
thuộc vào cơ chế chính sách của mỗi quốc gia. Mức độ can thiệp khác nhau
của nhà nước khác nhau đến tỷ giá hối đoái đã tạo nên những cơ chế tỷ giá
hối đoái khác nhau giữa các quốc gia. Có hai cơ chế tỷ giá cơ bản là: cơ chế
tỷ giá hối đoái cố định (vào vàng, vào một đồng tiền hay một nhóm đồng
tiền) và cơ chế tỷ giá thả nổi (tỷ giá được xác định dựa vào cung cầu trên thị
trường). Mỗi quốc gia trong một thời kì khác nhau có sự lựa chọn khác nhau
về mức độ cố định thả nổi tỷ giá hối đoái hay có sự dung hoà nào đó về sự
cố định hay thả nổi tỷ giá hối đoái. Điều này đã đưa đến các nguyên tắc khác
nhau về điều hành tỷ giá hối đoái hay các chính sách có liên quan khác của


7
mỗi quốc gia. Sự khác nhau đó đã tạo nên sự đa dạng về cơ chế tỷ giá hối
đoái ở trên thế giới.
1. Chế độ tỷ giá cố định.
Mục đích của quan điểm giữ tỷ giá cố định là phải giữ tỷ giả hối đoái
ổn định để kiềm chế lạm phát ở mức thấp và củng cố niềm tin của dân chúng
vào đồng tiền nội địa. Khi sử dụng chế độ tỷ giá cố định người ta có thể sử

dụng các hệ thống sau:
* Chế độ bản vị vàng :
Trong chế độ này chính phủ của mỗi quốc gia cố định giá vàng tính
bằng tiền nước họ và duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước
thành vàng chính phủ sẽ mua và bán vàng nhiều bằng mức mà nhân dân
muốn giao dịch tại giá trị ngang giá này và chính phủ tuân theo quy tắc
nhằm gắn liền đồng tiền trong nước với số vàng nhà nước có. Chính phủ chỉ
có thể phát hành tiền bằng cách mua vàng của công chúng, tức là nếu công
chúng chuyển đổi tiền giấy của họ thành vàng thì lượng tiền lưu hành sẽ
giảm đi. Dưới chế độ bản vị vàng khả năng của chính phủ trong việc tăng
mức cung tiền bị hạn chế nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chỉnh phủ phải nắm
giữ một giá trị vàng tương đương trong kho bạc.
Chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền rất ít khi bị mất
giá, việc thanh toán nợ nần giữa các quốc gia cũng được thực hiện bằng
vàng như vậy nó thực sự đẩm bảo một cơ chế tự động điều chỉnh sự mất cân
đối trong thương mại và thanh toán quốc tế. Vì vậy chế độ này đã được sử
dụng hầu như suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở các nước. Bản vị vàng có
một ưu điểm lớn và một nhược điểm đáng kể. Bằng cách gắn chặt, nếu
không phải là hoàn toàn mức cung tiền nội địa với mức dự trữ vàng, bản vị
vàng thực sự đã loại trừ việc phát hành tiền liên tục trên quy mô lớn và tỉ lệ
lạm phát một cách thường xuyên cao. Tuy nhiên do cơ chế chủ yếu để phục
hồi công ăn việc làm đầy đủ là sự giảm giá và tiền lương nội địa mà phải
mất nhiều năm để điều chỉnh hoàn toàn theo mức giảm đáng kể về tổng cầu


8
cho nên thời kì của bản vị vàng là thời kì trong đó các nền kinh tế riêng lẻ dễ
bị tổn thương dẫn tới những giai đoạn suy thoái lâu dài và sâu sắc.
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods :
Dưới chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái danh nghĩa được cố định một

cách vô thời hạn. Bây giờ chúng ta sẽ bàn về hệ thống điều chỉnh hạn chế,
trong đó các tỷ giá hối đoái thông thường được cố định nhưng một đôi lúc
các nước được phép thay đổi tỷ giá hối đoái của mình. Hệ thống này được ra
đời gần cuối thế chiến thứ hai trong một hội nghị đa quốc gia được tổ chức ở
Brentton Woods New Hampshire để hoạch định" một hệ thống tỷ giá hối
đoái có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do". Theo hệ thống này tỷ
giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên
cơ sở so sánh hàm lượng vàng của đô la Mĩ (1 USD= 0,888671 gram vàng)
và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã được
đăng kí tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF vì thế hệ thống tỷ giá này còn được biết
với đến với tên gọi bản vị đôla. Theo chế độ bản vị đô la, các đồng tiền được
chuyển đổi theo đôla chứ không phải theo vàng. Tại mức tỷ giá hối đoái cố
định, các ngân hàng trung ương cam kết mua hoặc bán đôla từ nguồn dự trữ
ngoại hối hoặc lượng đôla hiện có của họ. Họ cam kết can thiệp vào thị
trường ngoại hối để bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định theo đồng đôla.
Sự khác nhau căn bản giữa bản vị vàng và bản vị đôla là ở chỗ không
còn sự đảm bảo đổi lại 100% đối với đồng tiền nội địa, các chính phủ có thể
in thêm tiền để làm tăng sức cạnh tranh trong nước. Nếu tình trạng thâm hụt
ngân sách kéo dài chính phủ phải dùng ngày càng nhiều dự trữ ngoại hối của
mình để trang trải cho thâm hụt, thì cuối cùng đất nước sẽ cạn kiệt dự trữ
ngoại hối, lúc đó nhà nước sẽ phải phá giá tỷ giá hối đoái của mình chuyển
sang một nước giá trị ngang giá thấp hơn theo đôla để cố gắng tăng thường
xuyên sức cạnh tranh và loại trừ sự mất cân đối cơ bản trong thanh toán quốc
tế.


9
Tỷ giá hối đoái cố định, nếu bền vững hay được coi là bền vững thì sẽ
tạo cho các doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch và tính toán giá, như vậy
sẽ thúc đẩy đầu tư và thương mại quốc tế; tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự

hạn chế đối với chính sách tiền tệ trong nước vì do tỷ giá hối đoái cố định
nên không khuyến khích sự luân chuyển vốn vào hay ra khỏi quốc gia và do
đó không cần thiết phải có sự quan tâm thường xuyên của ngân hàng trung
ương. Tỷ giá hối đoái cố định sẽ là tối ưu nếu các ngân hàng trung ương có
thể thực hiện được sự điều chỉnh cho tới mức tỷ giá tương đối cân bằng và
thực hiện việc cố định tỷ giá ở mức đó; cơ chế tỷ giá cố định trực tiếp đặt ra
sự tuân thủ đối với chính sách tiền tệ và có thể được coi là phù hợp trong
tình huống các công cụ tài chính và thị trường tài chính chưa phát triển đủ
mức cho sự vận hành của chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái cố định trong trường hợp thiếu tin cậy sẽ bị
ảnh hưởng rất lớn của đầu cơ, điều này có thể dẫn tới sự phá vỡ hoàn toàn sự
ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế hay ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối; tỷ giá hối
đoái cố định có thể làm người ta phải từ bỏ đầu cơ, do đó thị trường sẽ buồn
tẻ, khó có thể xác định đâu là tỷ giá hối đoái tối ưu, hay hợp lý cho một nền
kinh tế, mặc dù cả chính phủ và nhân hàng trung ương đều cần thiết phải
hiểu hơn ai hết đâu là mức cân bằng. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định có
thể là quan trọng nhưng nó không quyết định tỷ giá hối đoái thực tế mà nó
chỉ được coi là chỉ số hay mục tiêu quan trọng mà thôi. Duy trì tỷ giá hối
đoái cố định đòi hỏi ngân hàng trung ương phải luôn sẵn sàng can thiệp vào
thị trường ngoại hối để đảm bảo mức tỷ giá hối đoái cố định.Tuy nhiên, khó
có thể đưa ra về mức độ cần can thiệp như thế nào để tác dộng vào nền kinh
tế nhằm đạt được mục tiêu can thiệp. Ngân hàng trung ương cần thiết phải
duy trì một mức nhất định về dự trữ ngoại hối, như vậy chi phí về quản lý tài
sản sẽ lớn. Tỷ giá hối đoái này cũng phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của
quốc gia khác, và đó là điều đôi khi gây bất lợi do việc gắn đồng tiền bản tệ
vào một đồng ngoại tệ nào đó.


10
* Tỷ giá hối đoái thả nổi:

Là tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở diễn biến cung cầu. Có
hai loại tỷ giá thả nổi là thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chúng ta biết
rằng nền kinh tế cân bằng dài hạn là phải cân đối cả bên trong lẫn bên ngoài
(tức là đầy đủ việc làm, xuất khẩu ròng bằng không và tài khoản vãng lai cân
bằng) Nhu cầu nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng trong nước và tỷ giá
hối đoái thực tế. Nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng ở nước
ngoài và tỷ giá hối đoái thực tế. Do đó khi nền kinh tế trong nước và nước
ngoài đều ở trong tình trạng cân đối hoặc ở mức sản lượng tiềm năng,thì chỉ
có một tỷ giá chính thức duy nhất đồng thời tương ứng với sự cân bằng bên
ngoài.ở bầt kì mức tỷ giá hối đoái nào cao hơn nền kinh tế nội địa cũng có
sức cạnh tranh kém hơn. Nhập khẩu sẽ cao hơn và xuất khẩu sẽ thấp hơn,
nền kinh tế sẽ bị thâm hụt trong tài khoản vãng lai. Ngược lại ở bất kì một
mức tỷ giá hối đoái thực tế nào thấp hơn với xuất khẩu cao hơn và nhập
khâủ thấp hơn, nền kinh tế nội địa sẽ có một khoản thặng dư trong vãng lai.
Chỉ có một tỷ giá hối đoái thực tế duy nhất tương ứng với sự cân đối bên
trong và bên ngoài.

×