Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Đổi mới giáo dục và đào tạo của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.24 KB, 11 trang )

ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỦA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TỒN CẦU HĨA
Phạm Văn Thực1
Tóm tắt
Để đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm hướng tới xây dựng một
nền giáo dục phát triển đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), cần phải xây dựng được triết lý giáo dục
trong một giai đoạn cụ thể cho đất nước trên cơ sở tham khảo giáo dục của các nước
phương Tây hiện đại. Trong bài viết này chúng tôi tập trung phân tích bối cảnh hiện
nay và yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam. Nhận diện những
nguy cơ và thách thức đặt ra đối với quá trình đổi mới và phát triển giáo dục hiện nay.
Đồng thời tham khảo giáo dục phương Tây hiện đại trong việc định hướng đổi mới
giáo dục Việt Nam. Trên cơ sở đó đề ra mục tiêu, nội dung và phương pháp đổi mới
cũng như cơ chế tổ chức, quản lý và một số khuyến nghị nhằm đẩy mạnh có hiệu
quả sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục của Việt Nam.
Từ khóa: Đổi mới; triết học; bối cảnh; khuyến nghị.

Đặt vấn đề
Giáo dục là quốc sách trong các chiến lược phát triển của nước ta. Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo
trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt nhằm
thực hiện một trong ba khâu đột phá chiến lược là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước
nhà. Nghị quyết Hội nghị trung ương VIII khóa XI đã bàn sâu về Đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục và đào tạo nhằm hướng tới xây dựng một nền giáo dục phát triển đáp ứng tốt
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Để làm được điều này,
chúng ta rất cần có một triết lý giáo dục có tính định hướng cho sự phát triển giáo dục nước
nhà. Tuy nhiên, có một thực tế là chúng ta đang gặp khó khăn trong việc xác định một triết
lý giáo dục phù hợp với bối cảnh mới của đất nước cũng như thế giới. Hoặc có triết lý giáo
dục nhưng việc áp dụng vào thực tế lại chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Điều này
dẫn đến công cuộc đổi mới giáo dục đang gặp phải những khó khăn, trở ngại lớn.
Để xây dựng được triết lý giáo dục trong một giai đoạn cụ thể, có hai con đường.


Một là, tổng kết thực tiễn giáo dục hiện tại và rút ra triết lý giáo dục phù hợp với thực tiễn.
1

Lớp Quản Giáo Dục K18 – S3; Email:


Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

169

Hai là, trên cơ sở một nền giáo dục đúng đắn, khoa học rút ra triết lý giáo dục phù hợp.
Thực tế cho thấy, cả hai con đường đều được lựa chọn, hoặc ln có sự kết hợp ở mức độ
khác nhau hai con đường trên. Ở đây, con đường thứ hai cho thấy vai trò của nền giáo dục,
trong xây dựng triết lý giáo dục hiện đại.
Các nền giáo dục lớn nói chung cũng như các trường đại học nổi tiếng trên thế giới
nói riêng muốn thành công đều phải dựa trên và thực hành một triết lý giáo dục của mình.
Các trường đại học của Việt Nam đang trong q trình đổi mới tồn diện và tích cực hội
nhập quốc tế cũng cần xác định cho mình một triết lý giáo dục định hướng cho sự phát triển
tương lai của mình. Muốn vậy, cần phải nghiên cứu các mơ hình thành cơng đi trước cũng
như điều kiện cụ thể của nước nhà để rút ra một triết lý phù hợp với mỗi trường đại học ở
Việt Nam. Điều này sẽ góp phần vào sự thành công của công cuộc đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
1. Bối cảnh hiện nay và yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam
1.1. Bối cảnh thế giới

Thế giới đã chuẩn bị đi hết thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với những diễn biến mạnh
mẽ tác động không nhỏ tới sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung cũng như
sự phát triển giáo dục đất nước nói riêng.
Trước hết, đó là q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra vô cùng
mạnh mẽ

Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để chỉ sự mở rộng các quan hệ xã hội ra phạm vi toàn
cầu được thúc đẩy bởi sự gia tăng tốc độ, cường độ của các dòng chu chuyển và sự mở rộng
không ngừng của các mạng lưới liên lục địa và liên khu vực theo chiều hướng tạo nên mợt
chỉnh thể thế giới thớng nhất. Tính tất yếu của q trình tồn cầu hóa thể hiện ở sự phát triển
của lực lượng sản xuất ra phạm vi tồn cầu, sự hình thành của thị trường tồn cầu, cũng như
sự phát triển của các thiết chế kinh tế, chính trị tồn cầu.
Sự tác động mạnh mẽ của tồn cầu hóa cũng địi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy sự phát
triển của nền giáo dục nước mình. Bởi lẽ, muốn hội nhập quốc tế sâu rộng các quốc gia phải
xây dựng nguồn nhân lực có tri thức, kỹ năng, phẩm chất cần thiết mà không phải nền giáo
dục nào cũng đáp ứng tốt. Do đó, đây cũng là một thách thức đối với giáo dục, đòi hỏi bức
bách phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nước nhà.
Đặc điểm thứ hai của bối cảnh thế giới hiện nay đó là cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ đang diễn ra mạnh mẽ. Hiện nay nhân loại đang chứng kiến cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, dự báo sẽ thay đổi căn bản cách thức sản xuất của con người. Đó là bước
chuyển sang nền sản xuất thơng minh, ở đó có sự kết hợp cao độ giữa những thành tựu mới
nhất trong công nghệ thông tin trong sản xuất.
Cách mạng công nghiệp bắt đầu ở nước Anh từ nửa cuối của thế kỷ 18. Đến nay đã có
sự nhìn nhận thống nhất về ba cuộc cách mạng công nghiệp đã xảy ra, mỗi cuộc cách mạng


170

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

đều đặc trưng bằng sự thay đổi về bản chất của sản xuất và sự thay đổi này được tạo ra bởi
các đột phá của khoa học và công nghệ.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII và gần nửa
đầu thế kỷ 19, với thay đổi từ sản xuất chân tay đến sản xuất cơ khí do phát minh ra động
cơ hơi nước.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX cho đến khi

Đại chiến thế giới lần thứ nhất xảy ra, với thay đổi từ sản xuất đơn lẻ sang sản xuất hàng loạt
bằng máy móc chạy với năng lượng điện.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra từ những năm 1970 với sự ra đời của
sản xuất tự động dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và internet.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được cho là đã bắt đầu từ vài năm gần đây,
đại thể là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các
lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano,… với nền tảng là các đột
phá của công nghệ số.
Đặc điểm thứ ba của bối cảnh thế giới hiện nay là sự hình thành của nền kinh tế tri
thức, xã hội tri thức. Trong đó, tri thức có vai trị vơ cùng quan trọng. Sự gia tăng của hàm
lượng chất xám trong sản phẩm đã đem lại giá trị cao hơn rất nhiều so với hàm lượng vật
chất tạo ra nó. Nhiều quốc gia và khu vực phát triển đã và đang xây dựng được nền kinh tế
tri thức đó là Mỹ, EU, Nhật Bản,... Sự hình thành của kinh tế tri thức, xã hội tri thức đòi hỏi
giáo dục phải vượt khỏi những khuôn khổ truyền thống và khơng ngừng hiện đại hóa. Q
trình giáo dục cần diễn ra liên tục suốt đời chứ không chỉ một lần là xong.
Bối cảnh thế giới như vậy đã tác động không nhỏ tới sự phát triển của Việt Nam nói
chung cũng như sự phát triển của giáo dục Việt Nam nói riêng.
1.2. Bối cảnh trong nước

Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã có những biến đổi căn bản về kinh tế, chính trị,
xã hội. Đất nước ta đã trở thành một nước có thu nhập trung bình, đang trong q trình
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, tích cực và chủ động hội nhập sâu rộng với thế
giới. Nền giáo dục nước ta cũng đạt được nhiều thành tựu trong việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người nhằm thúc đẩy sự phát triển đất nước. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, giáo dục nước ta cịn có những hạn chế như:
Chất lượng giáo dục nhìn chung cịn thấp; nội dung chương trình đào tạo cịn nhiều lạc
hậu, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành; phương pháp giáo dục còn đơn điệu, nặng về
truyền thụ kiến thức mà chưa phát huy được sự tích cực, sáng tạo của người học, chưa chú
trọng rèn luyện kỹ năng và phẩm chất cho người học; đầu tư cho giáo dục nhiều nhưng
chưa hiệu quả, chưa tương xứng với chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu; sự phát

triển giáo dục còn chưa thực sự đồng đều giữa các vùng trong cả nước, nhiều nơi vùng
sâu vùng xa giáo dục rất khó khăn, thiếu thốn…


Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

171

Chính vì vậy, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương nhằm đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu của bối cảnh mới, khắc phục những hạn chế của giáo dục
Việt Nam hiện nay.
Từ Đại hội XI (2011) Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực là một trong ba
khâu đột phá chiến lược nhằm tạo bước ngoặt trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện khâu đột phá này, giáo dục và đào tạo đóng vai trị vơ
cùng quan trọng. Tại Hội nghị Trung ương VIII (khóa XI) (2013) Đảng ta đã ban hành Nghị
quyết số 29 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó đã đánh giá những
thành tựu và hạn chế của giáo dục và đào tạo”, từ đó vạch ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp lớn để định hướng phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới.
Nghị quyết đề ra mục tiêu phấn đấu đến 2030 nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực. Để làm được điều này, Trung ương đã đề ra một hệ thống giải pháp tồn
diện và đồng bộ, đó là:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới
giáo dục và đào tạo.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo
theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
Thứ ba, đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi kiểm tra, đánh giá kết quả giáo
dục, đào tạo, đảm bảo trung thực, khách quan.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học
tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Thứ năm, đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, đảm bảo dân chủ, thống

nhất, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục và đào tạo; coi trọng
quản lý chất lượng.
Thứ sáu, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục và đào tạo.
Thứ bảy, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn
xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.
Thứ tám, nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ,
đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.
Thứ chín, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục và
đào tạo. Đây là những định hướng lớn và đang được các cấp, các ngành triển khai tích cực
nhằm tạo nên bước chuyển căn bản, toàn diện trong giáo dục Việt Nam hiện nay.
Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng với thế giới, những giá trị
của giáo dục phương Tây hiện đại càng có cơ hội lan tỏa khắp thế giới và tác động không
nhỏ đến sự phát triển của giáo dục hiện đại. Chúng ta không thể không tiếp thu một cách
chọn lọc những giá trị của này để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục Việt Nam hiện nay.


172

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

1.3. Những nguy cơ và thách thức đặt ra đối với quá trình đổi mới và phát triển giáo dục
hiện nay

Bối cảnh hiện nay đang xuất hiện những nguy cơ và thách thức đối với nền giáo dục
hiện đại mà chúng ta cần xem xét, nghiên cứu để phịng, chống hiệu quả:
Thứ nhất: Đó là nguy cơ thương mại hóa giáo dục, quyền lực hóa giáo dục. Đây là hậu
quả của việc áp dụng các nguyên tắc kinh tế thị trường một cách quá mức vào giáo dục, coi
giáo dục thuần túy là một ngành kinh doanh mang lại lợi nhuận. Điều này sẽ làm suy giảm

chức năng xã hội của giáo dục, làm giảm chất lượng giáo dục đồng thời làm mất đi sự tự do,
sáng tạo trong giáo dục. Tất cả đều phụ thuộc vào quyền lực hoặc tiền bạc. Điều này cũng có
thể dẫn đến gia tăng bất bình đẳng trong giáo dục, mất dân chủ trong giáo dục do khoảng
cách vì thu nhập khiến một bộ phận dân cư nghèo không thể tiếp cận giáo dục như các bộ
phận khá giả khác. Bề ngoài là một nền giáo dục tự do nhưng thực chất lại mất đi tính tự do,
mà phụ thuộc vào quyền lực và tiền bạc.
Thứ hai: Đó là nguy cơ hình thành và phát triển chủ nghĩa cá nhân trong giáo dục. Đây
là sản phẩm của nền giáo dục tư sản. Nên nếu chúng ta tiếp thu một cách không chọn lọc các
triết lý giáo dục tư sản có thể dẫn đến việc hình thành và phát triển chủ nghĩa cá nhân như
một đặc điểm trong nhân cách, đạo đức người học, có thể dẫn đến những hậu quả không
lường trước đối với sự nghiệp xây dựng CNXH. Như Bác Hồ chỉ ra: Kẻ thù lớn nhất của
đạo đức cách mạng chính là chủ nghĩa cá nhân. Chúng ta tăng cường tinh thần phát triển
cá nhân nhưng không phải là hình thành chủ nghĩa cá nhân tư sản, giáo dục của chủ nghĩa
hiện sinh thể hiện rõ điều này.
Nhận thức được những thách thức này, Đảng và Nhà nước ta chủ trương trong định hướng
chiến lược đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục lưu ý 2 điểm:
(1) Phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
(2) Đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển giáo dục và đào tạo.
2. Giá trị tham khảo của giáo dục phương Tây hiện đại trong việc định hướng đổi mới giáo dục
Việt Nam hiện nay
2.1. Quan niệm chung về giáo dục và vị trí, vai trị của giáo dục

- Giáo dục cần hướng tới khai tâm, khai phóng, phát triển tiềm năng của người học.
Khơng chỉ cung cấp tri thức, giáo dục cịn rèn luyện người học toàn diện cả về năng lực và
phẩm chất. Điều này dẫn đến cần thay đổi mô hình dạy học từ truyền thụ một chiều, lấy
người thầy làm trung tâm sang mơ hình dạy học tương tác lấy người học làm trung tâm,
người thầy là người tổ chức, tư vấn, định hướng. Tăng cường tính tích cực, khả năng tự học,
tự nghiên cứu của người học. “Hãy để người học biết học!”
- Giáo dục cần có mơ hình định hướng nhân cách nhưng khơng giáo điều, tơn trọng sự
phát triển đa dạng của cá nhân, của từng nhân cách cụ thể.

Cần phát huy tinh thần thực học, học gắn với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.
Chống bệnh thành tích, chống tiêu cực trong giáo dục (Triết học giáo dục Dewey).


Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

173

- Cần phát huy tinh thần hiếu học của dân tộc trong phát triển giáo dục đào tạo. Đây
được xem là ý niệm định hướng hàng đầu để xây dựng nền giáo dục. Như Hegel quan niệm:
Khơng gì vĩ đại có thể thực hiện nếu thiếu sự say mê.
- Giáo dục cần thể hiện tinh thần tự do, dân chủ của xã hội. Đặc biệt rèn luyện và thực
hành dân chủ trong giáo dục chính là bước chuẩn bị cho một lớp công dân của xã hội dân
chủ. Tinh thần tự do thể hiện trong sự sáng tạo không ngừng của người dạy và người học
trên cơ sở những tri thức chung. Tự do học thuật, tự do sáng tạo cần được tôn trọng, không
áp đặt một chiều.
- Giáo dục là một quá trình lâu dài, suốt đời, không chỉ diễn ra một lần mà nhiều lần,
khơng chỉ chính thức mà phi chính thức, khơng chỉ giáo dục nhà trường mà còn giáo dục từ
xa, giáo dục trong gia đình, trên mạng,…. Cần xây dựng xã hội tri thức, xã hội học tập với
phương châm học suốt đời, học không bao giờ ngừng nghỉ. Chỉ như vậy mới phù hợp với
yêu cầu của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
- Giáo dục vừa là một dịch vụ, mang tính kinh tế trong nền kinh tế thị trường, vừa là
một điều kiện sinh tồn của xã hội, do đó là một chính sách xã hội khơng thể thiếu của một
quốc gia. Do đó, cần kết hợp giữa dịch vụ và chính sách xã hội trong giáo dục, tránh tình
trạng thương mại hóa q mức giáo dục cũng như bao cấp quá mức giáo dục. Hiện nay, sự
phối hợp giữa nhà nước và các thiết chế giáo dục (cơ sở giáo dục và đào tạo) cần theo hướng
vừa tăng cường tự chủ vừa đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Giáo dục đào tạo vừa là một
dịch vụ, vừa là một công vụ đặc biệt trong xã hội. (Hiện nay giáo viên, giảng viên tại các
cơ sở công lập chúng ta coi là viên chức. Ở Pháp ngạch giáo viên công lập cũng được coi là
công chức).

- Cần thực sự coi giáo dục là quốc sách có vai trị quan trọng hàng đầu. Do chỗ giáo
dục vừa là cơ chế di truyền xã hội, vừa là cách thức để tạo ra những thế hệ nhân lực có chất
lượng cho đất nước. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho con người. Nước Đức sau chiến
tranh, cái cần tái thiết hàng đầu chính là giáo dục. Nhờ thành công trong sự nghiệp này nên
hiện nay nước Đức dù chịu hậu quả nặng nề nhưng đã vươn lên trở thành nước phát triển
đứng đầu EU và thế giới.
- Cần kết hợp giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong giáo dục bậc cao (đại học
và sau đại học). Có như vậy mới đảm bảo đúng chức năng của các trường đại học, học viện,
viện hàn lâm. Các nhà giáo đồng thời là những nhà khoa học của chun ngành mình giảng
dạy. Có như vậy mới thúc đẩy tri thức luôn đổi mới và phát triển.
- Cần tăng cường hội nhập giáo dục thế giới. Trong bối cảnh tồn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ hiện nay, việc xây dựng nền giáo dục, hệ thống giáo dục theo những tiêu chuẩn
quốc tế sẽ góp phần tăng cường chất lượng nguồn nhân lực, rút ngắn khoảng cách giữa
nhân lực Việt Nam và nhân lực quốc tế. Đặc biệt cần chú trọng đưa các thành tựu của tri
thức nhân loại vào nội dung giáo dục và tăng cường các kỹ năng phục vụ hội nhập quốc tế
như ngoại ngữ và công nghệ thông tin.


174

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

2.2. Mục tiêu giáo dục

Tăng cường tiếp cận theo hướng xác định chuẩn đầu ra trong giáo dục, tức là hướng
tới kết quả giáo dục. Chú trọng thực học, chống bệnh thành tích trong giáo dục. Tăng cường
khảo sát nhu cầu thực tiễn đối với từng ngành học để xác định chuẩn đầu ra phù hợp.
Đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội. Cần căn cứ vào yêu cầu xã hội để xây dựng mục tiêu
đào tạo, từ đó xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo hợp lý. Điều này
sẽ tạo ra sự gắn kết giữa giáo dục với thị trường, với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước, góp phần thực hiện được chủ trương đổi mới toàn diện và đồng bộ theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (cụ thể ở đây là tạo ra sự đồng bộ giữa kinh tế và giáo dục).
2.3. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, đổi mới tổ chức và quản lý đào tạo

Cần đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp giáo dục theo hướng tăng cường cả
tri thức, kỹ năng và phẩm chất của người học.
Về nội dung, cần không ngừng đổi mới nội dung chương trình đào tạo theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, kết hợp hợp lý giữa lý thuyết và ứng dụng, thực hành.
Về phương pháp, cần tăng cường các phương pháp giảng dạy tích cực kết hợp với
phương tiện hiện đại nhằm nâng cao chất lượng bài giảng, tăng cường tính tích cực, chủ động
của người học. Dạy người học biết cách học, tự học, tự nghiên cứu. Tăng cường tính sáng tạo,
tinh thần say mê, hứng thú của người học.
Về quản lý quá trình đào tạo, cần chuyển đổi mạnh mẽ theo những mơ hình quản lý
đào tạo hiện đại trên thế giới. Hiện nay tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ đang là cách thức
tổ chức và quản lý đào tạo hiệu quả đang được áp dụng rộng rãi hiện nay.
2.4. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục

Một trong những giá trị của giáo dục phương Tây hiện đại là đã nêu lên những nguyên
tắc trong việc xây dựng nền giáo dục đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường cũng như của
nền sản xuất hiện đại. Một trong những nguyên tắc đó là mỗi cơ sở giáo dục cần gắn chặt
với nhu cầu thị trường, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục.
Tham khảo với nền giáo dục của nước ta hiện nay, cần tăng cường tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các cơ sở giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục do các cơ sở
độc lập hoặc (kết hợp với) cơ quan chuyên trách của nhà nước. Cần tăng cường quản lý nhà
nước song song với tăng cường tính tự chủ của các cơ sở giáo dục, thể hiện ở trách nhiệm
giải trình, ở kiểm định chất lượng, ở kết quả đào tạo và khả năng đáp ứng yêu cầu xã hội
của giáo dục.
2.5. Tăng cường sự hội nhập chủ động và tích cực của giáo dục Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay


Việc nghiên cứu giáo dục phương Tây hiện đại giúp chúng ta hiểu được nguyên tắc
vận hành, định hướng của nền giáo dục phương Tây hiện nay, từ đó chúng ta có khả năng


Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

175

hội nhập tích cực và chủ động vào nền giáo dục quốc tế, tiếp thu được những tinh hoa của
nền giáo dục thế giới và nâng cao chất lượng giáo dục nước nhà. Những nguyên tắc định
hướng chung vừa được trình bày ở trên chính là những giá trị căn bản của giáo dục hiện đại
nhằm xây dựng một nền giáo dục đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện nay. Do đó, chúng ta cần
tham khảo trong quá trình xây dựng những nguyên tắc căn bản với quá trình đổi mới giáo
dục ở nước ta trên tinh thần hội nhập tích cực và chủ động.
3. Một số khuyến nghị nhằm đẩy mạnh có hiệu quả sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo trên cơ sở tham khảo những giá trị của giáo dục phương Tây hiện đại
Từ những giá trị tham khảo của giáo dục phương Tây hiện đại, trên cơ sở thế giới quan
và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trên
cơ sở đánh giá khách quan những mặt được và chưa được của giáo dục Việt Nam hiện nay,
chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau nhằm đẩy mạnh có hiệu quả sự nghiệp đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất: Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và tồn ngành Giáo dục
về thực hiện chủ trương của Đảng đối với việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo.
Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo là vai trị, trách nhiệm của tồn Đảng, toàn dân,
toàn xã hội, là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị mà ngành Giáo dục giữ
vai trò chủ đạo.
Ưu tiên đầu tư xây dựng trường lớp theo hướng đạt chuẩn quốc gia; giữ vững kết quả
phổ cập giáo dục đã đạt được. Phát huy vai trò trách nhiệm của người đứng đầu trong việc
xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch.
Đồng thời xác định rõ vai trò trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo

dục, của người học, gia đình và xã hội trong thực hiện các nhiệm vụ và nội dung đổi mới
giáo dục, đào tạo.
Thứ hai: Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, được xem là giải
pháp đột phá, đảm bảo nguồn nhân lực để thực hiện tốt yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo.
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu đổi mới giáo dục và đào
tạo; thực hiện chuẩn hóa, đảm bảo đồng bộ về cơ cấu đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
trong các trường học.
Đội ngũ giáo viên là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp
đổi mới giáo dục. Vì vậy cần quan tâm, bồi dưỡng, tạo động lực để giáo viên hăng say với
nghề, có trí tuệ, có tâm huyết, lương tâm nhà giáo, tiếp cận, nắm bắt kiến thức mới, vận
dụng linh hoạt vào tình hình thực tế; tạo điều kiện cho cán bộ giáo viên được tham quan học
tập mơ hình hay cách làm tốt; tích cực xây dựng các mơ hình điển hình tiên tiến, đổi mới
phương pháp bồi dưỡng về năng lực sư phạm cho giáo viên, để đáp ứng yêu cầu đổi mới
chương trình, thay sách giáo khoa mới.


176

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

Đặc biệt, cần thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý
trên cả nước, đảm bảo quyền lợi cho cán bộ, công chức viên chức...
Thứ ba: Nâng cao chất lượng giáo dục ở cả 3 môi trường nhà trường, gia đình và xã hội.
Giáo dục là một hoạt động mang tính xã hội cao. Muốn thực hiện được mục tiêu giáo
dục toàn diện học sinh, cần phải coi trọng cả giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội. Chỉ riêng nhà trường, riêng ngành giáo dục thì khơng thể làm tốt cơng tác Giáo
dục toàn diện được.
Cần xác định rõ trách nhiệm của nhà trường, trách nhiệm của gia đình và trách nhiệm
của xã hội. Phải xây dựng cơ chế phối hợp giữa nhà trường; gia đình; chính quyền và các tổ

chức chính trị - xã hội ở địa phương.
Thứ tư: Đổi mới công tác quản lý về giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và
toàn diện về giáo dục và đào tạo.
Thực hiện có hiệu quả việc đổi mới quản lý giáo dục bảo đảm dân chủ, thống nhất,
tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, coi trọng quản lý chất lượng, nâng cao vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục trong quản lý điều hành, thực hiện nhiệm vụ.
Nâng cao năng lực quản lý ở cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện
về giáo dục và đào tạo.
Thứ năm: Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và
xây dựng xã hội học tập.
Tăng cường đầu tư, phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Trung tâm
Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên để xây dựng một hệ thống giáo dục mở, tạo
điều kiện học tập cho người dân.
Thứ sáu: Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo
dục và đào tạo.
Tiếp tục huy động các nguồn lực, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội để
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học trong các nhà trường.
Tăng cường đầu tư đảm bảo đủ thiết bị dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình
và sách giáo khoa đảm bảo phục vụ công tác giảng dạy trong các nhà trường trên cả nước,
phấn đấu đến năm 2020 các trường đều có thư viện xuất sắc, các trường THCS đều có phịng
thí nghiệm thực hành. Xây dựng cảnh quan trường học xanh, sạch, đẹp, an tồn.
Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng khuyến học, khuyến tài, hỗ trợ học sinh
nghèo, vượt khó, học giỏi. Tăng cường phát huy vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội, hội
khuyến học, hội cựu giáo chức làm tốt công tác tuyên truyền vận động các tổ chức xã hội, cá
nhân, các nhà hảo tâm trong và ngoài huyện tham gia ủng hộ.
Sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nhà nước và xã hội hóa đầu tư cho giáo dục.
Vận động, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để toàn xã hội tham gia phát triển
giáo dục.



Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

177

Kết luận
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo là một sự nghiệp khó khăn nhưng
cũng đầy vinh quang. Như Bác Hồ đã từng căn dặn trong thư gửi các em học sinh nhân
ngày khai trường: “Non song Việt Nam có trở nên vẻ vang, sánh vai với các cường quốc
năm châu hay không, là nhờ công học tập của các em”.
Để thực hiện thành công sự nghiệp này, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu tinh
hoa của các nền giáo dục phát triển trên thế giới. Do đó, cần nghiên cứu giáo dục phương
Tây hiện đại và giá trị tham khảo của nó. Thơng qua nghiên cứu, những giá trị của giáo dục
phương Tây hiện đại sẽ được chỉ ra và kế thừa có chọn lọc trong q trình xây dựng nền giáo
dục Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng
CNXH trong bối cảnh tồn cầu hóa, cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ.
Nhằm làm cho giáo dục đáp ứng yêu cầu của bối cảnh hiện đại, giáo dục phương Tây
hiện đại đã đặt cơ sở cho một triết lý giáo dục dựa trên tinh thần khai tâm, khai phóng, phát
huy những năng lực và phẩm chất của người học. Giáo dục là một cơ chế di truyền xã hội
mang tính sống cịn. Giáo dục nhằm phát huy tinh thần tự chủ, thể hiện sự trưởng thành của
cá nhân, phát triển cá nhân. Giáo dục phải gần với cuộc sống, gắn với thực tiễn, đáp ứng tốt
nhu cầu của xã hội. Giáo dục mang tinh thần dân chủ, tự do, sáng tạo, nhân văn. Giáo dục
vừa là một dịch vụ mang tính kinh tế vừa là một quyền cơ bản của con người. Nội dung và
phương pháp giáo dục cần được thiết kế nhằm giúp người học khơng chỉ đạt được tri thức
mà cịn rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Học tập cần được tiến hành suốt đời.
Cần xây dựng xã hội học tập để con người thực hiện được yêu cầu đó. Giáo dục cần tránh
nguy cơ bị thương mại hóa và quyền lực hóa chi phối. Giáo dục cần phát triển những năng
lực đa dạng của con người, khơng chỉ có trí tuệ, lý tính. Đây là những giá trị cơ bản của giáo
dục phương Tây hiện đại cần được tham khảo trong q trình đổi mới căn bản và tồn diện
giáo dục nước ta.
Trên cơ sở khái quát những giá trị của giáo dục phương Tây hiện đại, bài viết đề xuất

một số khuyến nghị nhằm đẩy mạnh quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện
nay ở nước ta. Đó là: Đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp,
cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước đến hoạt động quản lý dạy và học trong các nhà trường, việc tham gia của
gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Tài liệu tham khảo
1.

Kết luận số 51-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.


178

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

2.

PGS.TS Nguyễn Kim Sơn, “Nhìn lại 5 năm thực hiện Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW”, Tạp chí Thơng tin Báo cáo viên,
Ban Tun giáo Trung ương, số tháng 1/2019.

3.

Ban chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã được hội nghị trung ương 8 (khóa XI)

thơng qua, Tạp chí Xây dựng Đảng.



×