Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ emtrên địa bàn tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.34 KB, 78 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xâm hại tình dục trẻ em đã và đang xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới, đang
là vấn đề nổi cộm và gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội hiện nay. Xâm hại tình
dục (XHTD) trẻ em gây ra những tổn thương nghiêm trọng, lâu dài đối với trẻ em
trên nhiều phương diện, gây nhiều hậu quả nặng nề tới sự phát triển của xã hội. Hậu
quả của trẻ bị XHTD từ nhỏ về thể chất phải mang thương tật suốt đời; về tâm lý
như trẻ luôn cảm thấy căng thẳng lo lắng, cô đơn, không tự tin, nghi ngờ mọi người
xung quanh; có biểu hiện lệch lạc về nhân cách, hành vi tiêu cực như hung hăng,
phá phách, ngỗ ngược, ln tìm cách gây hấn với những đứa trẻ khác; những trẻ này
lớn lên sẽ khó hịa nhập với môi trường sống.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới tham gia
ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em từ năm 1990, ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em từ năm 2004. Đặc biệt, Luật trẻ em (được Quốc hội khóa XIII thơng qua
ngày 05/4/2016 tại kỳ họp thứ 11) và có hiệu lực thi hành vào 01/6/2017 đã quy định cụ
thể các quyền và bổn phận của trẻ em; các nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện
quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân
trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em. Cụ thể, Điều 25 trong Luật Trẻ em
có quy định quyền được bảo vệ để không bị XHTD.
Tuy nhiên, tình trạng xâm hại trẻ em hiện nay đang đưa ra con số báo động.
Giai đoạn 2011 – 2015 xảy ra 5.300 vụ việc xâm hại tình dục trẻ em chủ yếu là với
trẻ em gái. Theo báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về
phòng, chống xâm hại trẻ em giai đoạn 2016 - 2019 của Ủy ban Văn hóa, giáo dục,
Thanh niên, thiếu niên và nhi đồng – Quốc hội khóa XIV, có 6.432 trẻ em bị
XHTD, chiếm 73,85% tổng số trẻ em bị xâm hại [57]. Trẻ em có thể gặp nguy cơ bị
xâm hại ở bất cứ nơi đâu, có thể là trên sân chơi, ở trường học, nhà người thân
quen, thậm chí trong chính ngơi nhà của mình. Đối tượng XHTD trẻ em hầu hết là
những người có cuộc sống bình thường ít ai ngờ tới, có quan hệ gần gũi với nạn
nhân và gia đình nạn nhân như người thân, ruột thịt, thầy giáo…[25]
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến gia tăng trẻ bị XHTD như do vai trò bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục (BVCS&GD) trẻ em của gia đình, cộng đồng chưa được coi



1


trọng; kiến thức và kỹ năng BVCS&GD trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ em
chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế;
trẻ em dễ trở thành nạn nhân của XHTD; sự thiếu hiểu biết về pháp luật, lối sống
ích kỷ, thiếu trách nhiệm của một số gia đình đã tạo ra sự mất an tồn cho trẻ ngay
trong chính gia đình của mình. Bản thân các em cũng chưa được nhà trường và cha
mẹ trang bị những kiến thức cần thiết để tự bảo vệ mình [30]. Về mặt xã hội, các
loại hình dịch vụ chăm sóc, vui chơi giải trí dành cho trẻ hiện nay cịn rất thiếu
thốn, làm cho trẻ em dễ bị dụ dỗ với các hoạt động giải trí do những kẻ xâm hại tạo
ra; việc quản lý về văn hóa thơng tin còn bất cập trước sự xuất hiện của hàng loạt
các loại hình văn hóa phẩm khơng lành mạnh, phim ảnh ngồi luồng có tính chất
bạo lực, khiêu dâm dễ đánh thức sự tò mò của các em…
Đối với tỉnh An Giang, những năm gần đây, cùng với việc triển khai thực
hiện Luật Trẻ em 2016 và các quy định của Nhà nước, cơng tác phịng, chống
XHTD trẻ em đã được quan tâm. Tuy nhiên, nguy cơ xâm hại trẻ em nói chung,
XHTD trẻ em nói riêng, nhất là trẻ em nữ vẫn còn rất nghiêm trọng. Cụ thể từ năm
2016 đến năm 2019, có 198 trẻ em bị xâm hại (191 trẻ bị xâm hại là nữ, 07 trẻ bị
xâm hại là nam), trong đó có 147 trẻ bị XHTD, 01 trẻ bị xâm hại bằng hành vi bạo
lực, 01 trẻ bị mua bán và 49 trẻ bị xâm hại bằng các h́ nh thức khác; các vụ việc xâm
hại đã khiến 01 trẻ em có thai, 04 trẻ em phải bỏ học [18]. Trong khi đó, các nghiên
cứu về việc thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em từ cách tiếp cận chính
sách cơng cịn ít được thực hiện, đặc biệt là ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Để góp phần cùng với Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo và bảo vệ
quyền lợi trẻ em, đồng thời nhằm bổ sung thêm kiến thức cho bản thân, tơi lựa chọn
đề tài: Thực hiện chính sách phịng, chống xâm hại tình dục trẻ emtrên địa bàn
tỉnh An Giang, nghiên cứu để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Xâm hại tình dục trẻ em; phịng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức,
kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em là vấn đề đang được các nhà lãnh đạo, quản lý
và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Thời gian qua, đã có nhiều cơng trình khoa học
đề cập đến vấn đề XHTD trẻ em; phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến
thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em ở nhiều mức độ và phạm vi khác nhau.

2


2.1. Cơng trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề phịng, chống
xâm hại tình dục trẻ em
Một số nghiên cứu đã cung cấp bức tranh thực trạng đáng quan tâm về xâm
hại trẻ em nói chung và XHTDtrẻ em nói riêng. Theo thống kê của Tổng cục Cảnh
sát – Bộ Công an, mặc dù chỉ là phần nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình
có 1.600 – 1.800 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, trong số 1.000 vụ XHTD, số vụ
mà trẻ em là nạn nhân chiếm 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12 – 15 (chiếm
57,46%), tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề đáng báo động, chiếm
tới 13,2% [31].
Năm 2017, toàn quốc xảy ra 1.592 vụ xâm hại trẻ em, so với năm 2016
giảm 49 vụ; 1.642 trẻ em bị xâm hại trong đó trẻ em bị bạo lực là 245 em, giảm 171
em so với năm 2016; nhưng trẻ em bị XHTD: 1.397 em, so với năm 2016 tăng 186
trẻ. Hiện nhiều tỉnh, thành phố chưa quan tâm, đầu tư nguồn lực cho trẻ em [27].
Theo Báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về
phịng, chống xâm hại trẻ em” của Đoàn giám sát Quốc hội khóa XIV từ ngày
01/01/2015 - 30/6/2019, cả nước có tới 8.442 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, xử
lý với 8.709 trẻ em bị xâm hại; trong đó, có 6.432 trẻ bị XHTD; 857 trẻ bị bạo lực;
106 trẻ bị mua bán, bắt cóc, chiếm đoạt; 1.314 trẻ bị xâm hại bằng các hình thức
khác. Đáng chú ý, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2019, số trẻ em bị xâm hại tăng đột
biến, với 1.400 em, tính trung bình cứ mỗi ngày cả nước có 7 trẻ em bị xâm hại.
Con số này khiến chúng ta không khỏi giật mình lo ngại trước vấn nạn xâm hại trẻ

em đang diễn ra trong thời gian gần đây. Và trên thực tế, con số này cịn cao hơn rất
nhiều bởi có nhiều trường hợp trẻ em bị xâm hại nhưng chưa được phát hiện, xử lý
kịp thời, nhất là các hành vi bạo lực gây tổn hại về thể chất và tinh thần cho trẻ em.
Đối tượng XHTD trẻ em hầu hết là những người có cuộc sống bình thường ít ai ngờ
tới, có quan hệ gần gũi với nạn nhân và gia đình nạn nhân như người thân, ruột thịt,
thầy giáo, hàng xóm…[25].
Từ việc phân tích thực trạng các nghiên cứu cho thấy, bảo vệ trẻ em trước
vấn nạn xâm hại là việc làm bức thiết, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của các cấp,
ngành, gia đình và tồn xã hội; cần tạo hành lang pháp lý đủ mạnh, cơ chế chặt chẽ
để phòng ngừa hiệu quả, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm đối với những hành vi

3


xâm hại trẻ em để đảm bảo tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời, các
cấp, các ngành cần tập trung giáo dục, nâng cao ý thức và kỹ năng phịng, XHTD
trẻ em khơng chỉ với chính các em mà còn phải với người lớn để xây dựng mơi
trường sống an tồn, lành mạnh cho trẻ em thơng qua các hoạt động truyền thơng
trong phịng, chống XHTD trẻ em, hoạt động giáo dục trong phòng, chống XHTD
trẻ em, hoạt động phát triển kỹ năng trong phòng, chống XHTD trẻ em và hoạt động
tư vấn trong phòng, chống XHTD trẻ em.
2.2. Các nghiên cứu, sách viết về kỹ năng, kiến thức phịng ngừa xâm hại
tình dục trẻ em
Sách “Phịng ngừa XHTD trẻ em” do Dự án tuổi thơ – Chương trình phịng
ngừa do AusAID và Tổ chức tầm nhìn thế giới thực hiện với nội dung xoay quanh
các vấn đề nhận thức và hiểu biết về XHTD trẻ em để từ đó cha mẹ có cách phịng
ngừa phù hợp cũng như chuẩn bị cho bé cách tự bảo vệ bản thân trước những tình
huống xấu xảy ra.
Sách “Cẩm nang phòng tránh xâm hại cho con – Cha mẹ cần biết trước khi
quá muộn” do tác giả Phạm Thị Thúy biên soạn năm 2017 cung cấp những hiểu

biết cơ bản về vấn đề XHTD trẻ em, cách dạy trẻ phòng, chống XHTD, những điều
cần làm khi thấy trẻ có dấu hiệu bị XHTD, tâm sự của những người từng bị XHTD
… Các cơng trình khoa học trên đã góp phần quan trọng trang bị những kiến thức
cơ bản về XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ
năng phòng, chống XHTD trẻ em. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ đề cập tới
XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng,
chống XHTD trẻ em trên phạm vi rộng, chưa có đề tài nghiên cứu chun sâu, tồn
diện lý luận và thực tiễn về XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao
kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em ở phạm vi địa phương An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận, những nhân tố ảnh
hưởng đến thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em, phân tích thực trạng
thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. Trên
cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị chính sách phù hợp với tình hình thực
tế nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ
4


em trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục tiêu nêu trên, cần xác định các nhiệm vụ thực hiện của luận
văn như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu Hiến pháp của Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam (2013); Luật BVCS&GD trẻ em (2004); Luật Trẻ em (2016); Luật Hơn nhân Gia đình (2014); các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và các văn bản có
liên quan….
Thứ hai, làm rõ những vấn đề lý luận về phòng, chống XHTD trẻ em và lý
luận về thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em.
Thứ ba, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ
em trên địa bàn tỉnh An Giang.

Thứ tư, đề xuất biện pháp thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phịng,
chống XHTD trẻ em.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc triển khai, thực hiện chính sách
phịng, chống XHTDtrẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang và đề xuất giải pháp, kiến
nghị nâng cao hiệu quả cơng tác phịng, chống XHTD trẻ em.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Đối với trẻ em (người dưới 16 tuổi).
- Các cơ quan lãnh đạo, quản lý tham gia thực hiện chính sách phịng, chống
xâm hại trẻ em nói chung, thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em nói
riêng trên địa bàn tỉnh.
- Cán bộ làm công tác BVCS&GD trẻ em tại địa phương.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Tỉnh An Giang.
- Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2016 – 2019.
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách phịng,
chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

5


Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách
phịng, chống xâm hại trẻ em nói chung, và chính sách phịng, chống XHTD trẻ em
nói riêng.
5.2. Phương pháp cụ thể
Luận văn sử dụng các phương pháp như thống kê, tổng hợp, phân tích,… số
liệu và dữ liệu có sẵn liên quan đến chủ đề nghiên cứu: các văn bản chỉ đạo của

Đảng, Chính phủ, Bộ ngành ở trung ương và địa phương; thu thập thông tin trên
mạng internet, một số sách, báo, tạp chí và cơng trình nghiên cứu khác như các báo
cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách phòng, chống XHTD trẻ em.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, kết hợp với trao đổi, thảo
luận với 09 cán bộ đại diện cơ quan lãnh đạo, quản lý tham gia thực hiện chính sách
về phịng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh: Ủy ban Nhân dân (UBND) tỉnh,
Công an tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) tỉnh, Sở Y tế, Sở
Giáo dục và Đào tạo, Viện Kiểm sát Nhân dân (KSND) tỉnh, Tòa án Nhân dân
(TAND) tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh (TNCS) tỉnh; 04 cán bộ phụ trách công tác bảo vệ trẻ em, điều tra viên, kiểm
sát viên cấp cơ sở.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phòng, chống
XHTD trẻ em và thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em ở cấp độ địa
phương. Nghiên cứu gợi ra những cách tiếp cận mới trong việc đánh giá tầm quan
trọng trong thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em trước vấn đề bức xúc
hiện nay, từ đó nâng cao chất lượng công tác đối với các cơ quan quản lý, thực hiện
chính sách tại địa phương cũng như hỗ trợ, giúp đỡ những kỹ năng phịng ngừa, ứng
phó được các tình huống có thể xảy ra.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thơng qua việc tìm hiểu và phân tích thực trạng thực hiện chính sách phịng,
chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang, nhằm đề ra những biện pháp thúc

6


đẩy việc thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho

việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập và hoạt động thực tiễn trong công tác phòng,
chống XHTD trẻ em.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn này ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu, có ba
chương cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phịng, chống
xâm hại tình dục trẻ em.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phịng, chống xâm hại tình dục trẻ em
tại An Giang.
Chương 3. Một số giải pháp thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phịng,
chống xâm hại tình dục trẻ em.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHỊNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
1.1. Lý luận về phịng, chống xâm hại tình dục trẻ em
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1.Trẻ em
Việc tìm hiểu khái niệm trẻ em có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn đối với
việc vận dụng vào thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em. Trẻ em là giai
đoạn đầu tiên của cuộc đời mỗi con người. Tâm lý học cho rằng trẻ em là giai đoạn
đầu của sự phát triển tâm lý – nghiên cứu con người. Ở giai đoạn này, cùng với sự
phát triển về mặt thể chất thì phẩm chất tâm lý của trẻ em cũng dần hình thành và
chịu sự ảnh hưởng khách quan của môi trường sống, xã hội và những người xung
quanh. Ở lứa tuổi này các em chưa nhận thức đầy đủ được những nguy cơ trong
cuộc sống trong đó có việc bị XHTD.
Theo Điều 1 Cơng ước Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc thông qua ngày

20/11/1989 quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp
luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, quy
định về độ tuổi của trẻ em là thấp hơn so với Công ước. Luật Trẻ em 2016 quy định:
“Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta và quốc tế khơng có quy định thống nhất
về ranh giới giữa độ tuổi trẻ em và người lớn nhưng các văn bản pháp luật nước ta
cũng như quốc tế đều xác định trẻ em là đối tượng cần được bảo vệ và chăm sóc
cũng như cần được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước và toàn thể xã hội, cộng
đồng nhằm tạo điều kiện cho trẻ em được phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh
thần. Để trẻ em được phát triển toàn diện, đúng hướng thì người lớn cũng như xã
hội phải tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần thuận lợi cho sự phát triển tâm, sinh
lý của trẻ em.
Trong nghiên cứu này khái niệm về trẻ em được xác định như sau: trẻ em là
những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, ở độ tuổi dưới 16.

8


1.1.1.2. Xâm hại tình dục trẻ em
Khái niệm XHTD trẻ em, được hiểu một cách chung nhất là sự xâm phạm,
động chạm đến quyền tự do, đến nhu cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ
tính giao, xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của trẻ em.
Trước đây, chúng ta hay dùng từ “lạm dụng tình dục”. Tuy nhiên, ở Việt
Nam nghĩa của từ “lạm dụng” không sát nghĩa với thuật ngữ quốc tế sử dụng nên
có thay đổi thành “xâm phạm tình dục”. Trong quá trình sử dụng, cụm từ này tiếp
tục không phù hợp nên sau khi Quốc hội quyết định thay đổi thì cụm từ “xâm hại
tình dục” được sử dụng từ năm 2010.
Luật trẻ em 2016 đã nêu rõ tại Điều 4 “Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi
liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em

và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [38].
Cụ thể hóa nội dung XHTD trẻ em trong Luật Trẻ em, Nghị định số
56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật trẻ em, trong đó nêu rõ tại:“Điều 13. Trẻ em bị XHTD bao gồm các hành vi:
1.Trẻ em bị hiếp dâm. 2.Trẻ em bị cưỡng dâm. 3.Trẻ em bị giao cấu. 4.Trẻ em bị
dâm ô. 5.Trẻ em bị sử dụng vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức”.
Xâm hại tình dục trẻ em bao gồm tất cả các hành vi tình dục khơng mong
muốn có thể bao gồm cả hành vi xâm hại có tiếp xúc hay hành vi xâm hại không
tiếp xúc. XHTDtrẻ em có thể xảy ra ở bất kì nền văn hóa, chủng tộc, tơn giáo, thể
chế chính trị nào.
1.1.1.3. Phịng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Khi xã hội đang bức xúc và lên án hàng loạt những vụ ấu dâm, quấy rối tình
dục trẻ em thì cha mẹ và những người chăm sóc trẻ đang loay hoay khơng biết làm
cách nào để bảo vệ con mình, làm thế nào để có thể phịng, chống XHTD xảy ra.
Phịng, chống XHTD chính là tổng thể các biện pháp về luật pháp, chính sách, thể
chế, tổ chức, truyền thơng nhằm giảm thiểu các trường hợp XHTD trẻ em và tác hại
của nó. Các biện pháp phòng, chống XHTD trẻ em được thể hiện cả ở 3 cấp độ bảo
vệ trẻ em như đã quy định ở Luật Trẻ em 2016, đó là cấp độ phòng ngừa (Điều 48),
cấp độ hỗ trợ (Điều 49) và cấp độ can thiệp (Điều 50). Cụ thể, cấp độ phòng ngừa

9


gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với cộng đồng, gia đình và mọi trẻ em
nhằm nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức về bảo vệ trẻ em, xây dựng mơi trường
sống an tồn, lành mạnh cho trẻ em, giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị xâm hại hoặc rơi
vào hoàn cảnh đặc biệt. Cấp độ hỗ trợ bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng
đối với trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi hoặc trẻ em có hồn cảnh đặc
biệt nhằm kịp thời phát hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ
em. Cấp độ can thiệp bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em và

gia đình trẻ em bị xâm hại nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục
hồi, tái hịa nhập cộng đồng cho trẻ em có hồn cảnh đặc biệt.
Có thể thấy rằng, hậu quả của tội phạm XHTD trẻ em là hết sức nghiêm
trọng đối với bản thân nạn nhân và gia đình, xã hội. Vì vậy, để phịng, chống loại
tội phạm này một cách hiệu quả, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại có thể xảy ra
cho xã hội, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Về chính sách nhà nước: Cần sự phối hợp và hỗ trợ đồng bộ cả các ban
ngành tổ chức xã hội và cộng đồng; cần quan tâm công tác tổ chức bộ máy, bố trí
nhân lực; Kiện tồn ban chỉ đạo, Ban điều hành và nhóm cơng tác liên ngành bảo vệ
trẻ em cấp huyện, cấp xã; xây dựng và thực hiện Đề án bố trí, nâng cao năng lực, ổn
định đội ngũ người làm công tác bảo vệ trẻ em ở ngồi địa phương; xác lập cơ chế phối
hợp phịng, chống, xử lý vụ việc xâm hại trẻ em tại địa phương; xây dựng và hoàn
thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức cảnh giác,
phát hiện sớm, tự phòng, chống XHTD và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết.
Xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, cá nhân che giấu, không
thông báo, không tố cáo vụ việc, hành vi xâm hại trẻ em.
Từ phía nhà trường: Nhà trường cần cung cấp cho trẻ em những kiến thức cơ
bản nhất về giới tính. Có thể dạy cho trẻ em biêt rằng không ai được chạm vào “chỗ
riêng tư” của trẻ. Dạy cho trẻ biết những hành vi lạm dụng tình dục là phạm pháp và
quyền mình được bảo vệ và tự bảo vệ. Dạy cho trẻ hiểu thân thể là “tài sản riêng” của
chúng. Trẻ có quyền từ chối những cái ôm hoặc những tiếp xúc gây khó chịu.
Từ phía gia đình và cộng đồng: Cha mẹ khơng nên né tránh mà cần thường
xun trị chuyện với con về vấn đề tế nhị. Khuyến khích con đặt câu hỏi về các vấn
đề khác nhau trong cuộc sống cũng như câu hỏi về những vấn đề sâu kín. Bên cạnh

10


đó, bố mẹ cần cố gắng tìm hiểu và hịa đồng với bạn bè của con, vì qua đó bố mẹ có
thể có được những thơng tin cần thiết. Cần dạy trẻ khơng bao giờ được đi vào chỗ

kín, nơi vắng vẻ với một ai nếu khơng có sự đồng ý của bố mẹ. Trang bị cho con
biết cách phòng vệ, khơng mặc hở hang vì dễ gây kích thích sự ham muốn đối với
những kẻ có ý xấu.
1.1.2. Đặc điểm xâm hại tình dục trẻ em
1.1.2.1. Các hành vi xâm hại tình dục trẻ em
Mọi trẻ em cộng đồng đều có nguy cơ bị XHTD kể cả những trẻ sống trong
gia đình nghèo hay gia đình khá giả. Khơng những trẻ em gái mà trẻ em trai cũng có
thể trở thành nạn nhân bị XHTD. Điều đáng nói là sau khi bị xâm hại, nạn nhân
thường không hoặc không dám kể về những cái gì đã diễn ra với chúng. Hầu hết,
những người XHTD là nam giới và hầu hết trẻ em bị xâm hại bởi người quen biết
như họ hàng, bạn của người lớn trong gia đình hoặc hàng xóm… Đơi khi việc xâm
hại này diễn ra trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài nhiều năm. Hành vi XHTD
trẻ em được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau, để thỏa mãn nhu cầu của người
lớn hơn, khơng nhằm mục đích kiếm tiền như: cưỡng hiếp, sờ mó, vuốt ve vào chỗ
kín của trẻ em, hơn trẻ em có tính chất gợi dục; cố ý phơi bày bộ phận kín của mình
cho trẻ em nhìn thấy; để cho trẻ em nhìn thấy người lớn có cử chỉ yêu đương hoặc
cho trẻ em nghe, xem các nội dung phim ảnh khiêu dâm, đồi trụy; nhìn trộm trẻ em
tắm, để trẻ em làm mẫu hoặc trình diễn thời trang khơng mặc quần áo, ăn mặc hở
hang. Ngồi ra, các hành vi sau cũng đều bị coi là hành vi XHTD trẻ em như: dùng
tiền, vật chất, uy tín hoặc lợi ích khác để dụ dỗ, lơi kéo trẻ em hoạt động mại dâm;
dùng thủ đoạn nói dối, gian lận để trẻ em hoạt động mại dâm; dẫn, chỉ dẫn, môi
giới, tổ chức xúi giục trẻ em hoạt động mại dâm; che giấu, cho thuê, mượn hoặc bố
trí nơi để trẻ em hoạt động mại dâm; dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng uy
quyền để ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm… [38].
1.1.2.2. Biểu hiện của trẻ bị xâm hại tình dục
Khi trẻ em bị xâm hại, các em thường sợ hãi, rất sợ nói với người lớn vì những
kẻ xâm hại thường đe dọa khơng cho trẻ nói hoặc trẻ cảm thấy chúng đã làm điều đó
sai hoặc các em chưa biết cách thể hiện những gì đã xảy ra. Do đó, để nhận biết trẻ có
bị xâm hại hay khơng, chúng ta cần phải quan sát các dấu hiệu có thể [17] .


11


- Về thể chất: trẻ có những vết thương ở bộ phận sinh dục hoặc xung quanh
hậu môn, sưng tấy, phồng rộp, chảy máu ở miệng; quần áo lót có dính máu hoặc bị
rách; trẻ khó đi tiểu hoặc đại tiện, trong nước tiểu có máu hoặc phân; có mủ bất
thường ở âm đạo, dương vật, hậu môn, trẻ bị mang các bệnh truyền nhiễm qua
đường sinh dục; trên cơ thể trẻ có các vết thương thâm tím, đau đầu hoặc đau bụng.
- Trẻ bị XHTD có thể: ít tắm hoặc tắm rửa nhiều hơn thường lệ, hay thay
quần áo; chơi với những trẻ khác hoặc chơi đồ chơi theo kiểu tình dục một cách
hiểu biết hơn hoặc thường xuyên hơn so với lứa tuổi của chúng; biết nhiều về tình
dục hơn các bạn cùng lứa.
- Các biểu hiện về tâm lý: trẻ bị XHTD thường rất cảnh giác, sợ hãi, nhạy
cảm hoặc đột ngột sợ một ai đó, một nơi nào đó hoặc chỉ muốn đi cùng với bố mẹ;
trẻ có biểu hiện thu mình, kín đáo hoặc hầu như muốn ở một mình; có những biểu
hiện, hành động theo cách giống như trẻ nhỏ hoặc lứa tuổi nhỏ hơn; trở nên hung
hãng và bạo lực; cố gắng chạy ra khỏi nhà; luôn cảm thấy buồn hoặc không bày tỏ
bất kỳ một cảm xúc nào; trẻ trở nên khó ngủ, khóc hét, thức giấc đêm vì bị các cơn
ác mộng, sợ bóng tối hay đái dầm; trẻ tỏ ra sợ hãi khi bị sờ vào người hoặc sợ thực
hiện các hoạt động thể chất. Các dấu hiệu nêu trên có thể hiện một cách rõ ràng
hoặc khơng rõ ràng. Và ở mỗi trường hợp trẻ em bị XHTD, các biểu hiện lại khác
nhau. Cả trẻ em trai và trẻ em gái, cả trẻ em sống trên đường phố hay những trẻ em
sống cùng gia đình.
1.1.2.3 Các vấn đề gặp phải của trẻ bị xâm hại tình dục trẻ em
Cho dù sử dụng bạo lực, sự đe dọa hay lòng tốt để bắt trẻ thực hành hành vi
XHTD thì hậu quả của việc xâm hại này đều gây tổn thương cho trẻ ở các mức độ
khác nhau. Sự XHTD làm tổn thương trẻ vào thời điểm khi hành vi xâm hại diễn ra
và có thể tiếp tục gây tổn thương nạn nhân trong suốt quãng đời còn lại của trẻ đặc
biệt đối với những trẻ không thể kể về sự xâm hại này hoặc không nhận được sự
giúp đỡ, hỗ trợ hay trị liệu từ phía gia đình và xã hội.

Về mặt thể chất, trẻ em bị XHTD có thể chịu tổn thương thể xác kéo dài do
các bệnh như HIV/AIDS, viêm gang, lậu, giang mai và những bệnh lây lan qua
đường tình dục khác… Nếu khơng được chữa trị có thể gây nên những vấn đề trong
tương lai như có thai ngồi ý muốn, ung thư và tử vong do nhiễm trùng nặng. Ngoài

12


ra, trẻ cịn có thể chịu những tổn thương thể chất trong quá trình phản kháng lại hành vi
XHTD: các tổn thương của bộ phận sinh dục. Với trẻ lớn hơn, nguy có thai được phát
hiện muộn khơng phải là hiếm gặp. Với những trường hợp này, sức khỏe và tương lai
của bà mẹ lẫn trẻ em thường ở trong tình trạng rất mong manh, khó khăn.
Về mặt tâm lý, trẻ em bị XHTD thường sẽ cảm thấy tội lỗi, sợ hãi, xấu xa,
thất bại, cộc tính… Trẻ thường cho rằng mình là kẻ thất bại và nguy cơ trở thành tội
phạm khi trưởng thành. Đặc biệt, nếu trẻ không được điều trị tâm lý kịp thời sau khi
bi xâm hại thì rất dễ bị ám ảnh lâu dài và khi lớn lên có thể trở thành người đi
XHTD trẻ em khác. Ngồi ra, trẻ bị XHTD khi cịn nhỏ lớn lên có thể gặp vấn đề về
giới tính của mình, nhiều đứa trẻ bị trầm cảm, rối loạn nhân cách…
Điều đáng ngại là không phải lúc nào trẻ bị XHTD cũng thể hiện ra bên
ngoài những tổn thương về tâm lý mà đôi khi, cơn sang chấn tâm lý phải sau nhiều
năm mới thể hiện ra. Vì thế, phụ huynh thường khó phát hiện ra những bất thường
của con em mình… Trẻ em bị XHTD có thể tiếp tục bị người khác xâm hại trong
suốt quãng đời còn lại. Vì những trải nghiệm bị xâm hại khi cịn là một đứa trẻ,
chúng lớn lên và tin rằng tình dục là cách duy nhất để thể hiện cảm xúc và an toàn.
Nghiêm trọng hơn, bị đối xử tồi tệ và XHTD có thể trở thành hình mẫu trong cuộc
sống của chúng. Nếu không được hỗ trợ và giúp đỡ để có thể hàn gắn từ sự xâm hại,
những đứa trẻ bị xâm hại có thể trở thành những người đi xâm hại khi chúng lớn lên.
1.1.3. Trẻ có nguy cơ bị xâm hại tình dục
1.1.3.1. Những trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục
Tất cả các trẻ em đều có nguy cơ trở thành nạn nhân của XHTD khơng có sự

phân biệt dân tộc, học vấn, điều kiện kinh tế, lứa tuổi, giới tính, đặc điểm cá nhân.
Tuy nhiên, một số trẻ em thuộc các nhóm như: trẻ em sống trong các gia đình khó khăn,
trẻ em sống trong các gia đình khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả cha mẹ; trẻ
em khuyết tật, chậm phát triển; trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số;
trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ… có nguy cơ bị XHTD cao hơn các trẻ em
khác và trẻ em gái có nguy cơ bị XHTD cao hơn trẻ em trai.
- Nhóm trẻ em sống trong gia đình khó khăn, trẻ em sống trong các gia đình
khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả cha mẹ: là các trẻ em sống trong các
gia đình có hồn cảnh khó khăn, nghèo đói; trẻ có cha mẹ ly thân, ly dị, chỉ sống

13


với cha hoặc mẹ hoặc sống với người thân, không sống cùng cả cha hoặc mẹ trẻ em
mồ côi cha hoặc mẹ hoặc mồ côi cả cha mẹ. Những trẻ này thường khơng được
hoặc nhận được ít sự quan tâm chăm sóc từ gia đình, người thân. Chính vì thế, các
em rất dễ trở thành đối tượng mà những kẻ đi xâm hại để ý, nhắm đến.
- Nhóm trẻ em khuyết tật, chậm phát triển: là các trẻ em gặp vấn đề về sức
khỏe ngoại hình như khuyết tật vận động, câm điếc, bại liệt hay các em mắc các
chứng bệnh thần kinh, chậm phát triển trí tuệ… Các trẻ em này thường khơng có đủ
nhận thức, sức khỏe cũng như khả năng tự bảo vệ, chăm sóc bản thân, phụ thuộc
vào sự chăm sóc của người khác.
- Nhóm trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số: là các trẻ em
sống trong các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nghèo đói, giao thơng, văn hóa,
thơng tin liên lạc kém phát triển, vùng dân tộc, miền núi, hải đảo… Trẻ sống trong
các vùng này thường ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn thơng tin, ít được quan tâm
chăm sóc, giáo dục nên các em thường bị hạn chế về nhận thức, thiếu các kiến thức
để có thể tự chăm sóc bản thân và bảo vệ mình, dễ trở thành nạn nhân của XHTD.
- Nhóm trẻ em sống trong hồn cảnh có nhiều cám dỗ như trẻ em lang thang
đường phố, trẻ em mồ cơi, trẻ sống trong các khu có nhiều tệ nạn xã hội như nghiện

hút ma túy, mại dâm… Các em dễ chịu tác động xấu từ môi trường sống và những
người xung quanh, thiếu sự quan tâm của người lớn, dễ bị cám dỗ, sa ngã vào các tệ
nạn xã hội, phát triển lệch lạc và rất dễ trợ thành trẻ em có nguy cơ bị XHTD.
Như vậy, tất cả trẻ em đều có nguy cơ bị XHTD. Tuy nhiên, trẻ em gái và
các trẻ em có nguy cơ bị XHTD cao hơn các trẻ em sống trong các gia đình khó
khăn, trẻ em sống trong các gia đình khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả
cha mẹ; trẻ em khuyết tật, chậm phát triển; trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn,
dân tộc thiểu số; trẻ em sống trong hồn cảnh có nhiều cám dỗ, các trẻ em này cịn
hạn chế thể chất, trí tuệ và nhận thức.
1.1.3.2. Các đặc điểm của trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục
Thiếu hiểu biết về vấn đề XHTD trẻ em
- Trẻ em có nguy cơ bị xâm hại và gia đình trẻ thường gặp khó khăn khi tiếp
cận các nguồn thông tin, kiến thức. Các trẻ em này sinh sống trong các gia đình có
hồn cảnh khó khăn, éo le, phức tạp như bị khuyết tật, mồ côi cha mẹ, sống cùng

14


với ông bà / người thân hoặc thuộc hộ nghèo, hồn cảnh đặc biệt khó khăn, cha mẹ
đi làm ăn xa, sinh sống trong các khu vực có nhiều tệ nạn xã hội, nghèo đói… Do
hồn cảnh khó khăn nên các em và gia đình thường khó khăn hoặc ít cơ hội tiếp cận
với các kênh thông tin như tivi, báo chí, internet hoặc tham gia các câu lạc bộ, lớp
giáo dục kỹ năng hoặc cha mẹ, người thân do bận làm ăn kinh tế mà thiếu sự quan
tâm đến con trẻ… mà đây là một trong những nguồn chính cung cấp các thông tin,
kiến thức về quyền trẻ em, các thơng tin về XHTD trẻ em, kỹ năng phịng, chống
XHTD trẻ em… Chính vì ít cơ hội được tiếp xúc với các thông tin nên nhận thức
của trẻ em và gia đình các em về vấn đề XHTD trẻ em rất hạn chế, trẻ em và gia
đình thường khơng nhận biết được các mối nguy cơ để tự bảo vệ bản thân, bảo vệ
con / em mình. Hoặc đối với các em là trẻ khuyết tật, nhiều em không đủ khả năng
nhận thức để tiếp thu thông tin… Do vậy, các em rất dễ trở thành nạn nhân của kẻ

đi xâm hại.
Gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội.
- Dịch vụ xã hội ở đây là các dịch vụ cơ bản như chăm sóc sức khỏe, tư vấn
tâm lý, giáo dục cung cấp kiến thức kỹ năng tự bảo vệ bản thân, hỗ trợ pháp lý…
Đối với các trẻ em có nguy cơ cao bị XHTD, cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ
xã hội thường khó hơn so với các trẻ em khác. Các em ít có cơ hội được chăm sóc y
tế, cung cấp các kiến thức về sức khỏe sinh sản, được hỗ trợ tham vấn, tư vấn khi
gặp khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống. Đặc biệt, với các trẻ em ở độ tuổi mới
lớn, trẻ thường thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, cách tự bảo vệ và chăm sóc
bản thân hay cịn đang tị mị về tình cảm tuổi mới lớn, các em rất cần được sự
hướng dẫn, giúp đỡ của người lớn. Tuy nhiên, các em gặp khó khăn rất nhiều khi
tiếp cận các dịch vụ xã hội này do khó khăn về kinh tế, do cha mẹ hoặc người thân
thiếu hiểu biết, do gia đình khơng có điều kiện đưa các em đến gặp các chuyên gia
tâm lý, thăm khám sức khỏe hay đến gặp các nhà tư vấn pháp lý để xin trợ giúp.
Bản thân trẻ em và gia đình thiếu kỹ năng bảo vệ, chăm sóc.
- Phần nhiều trẻ em có nguy cơ cao bị XHTD thường có hồn cảnh gia đình
éo le, phức tạp: nhà nghèo, cha mẹ không hạnh phúc, ly thân, ly hôn, trẻ sống cùng
bố hoặc mẹ hoặc sống với ơng bà, người thân khác. Cũng có trường hợp cha mẹ vì
mưu sinh gửi trẻ cho ơng bà, người thân trơng nom… Chính vì thế, gia đình khơng

15


có điều kiện quan tâm sát đối với trẻ. Do hồn cảnh gia đình như vậy nên cha mẹ
hoặc người lớn đều khơng có các kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ, khơng thường
xun quan tâm, chú ý tới trẻ. Người lớn khi nhắc tới vấn đề xâm hại thường có tâm
lý e ngại, nhạy cảm, né tránh sự việc, thiếu cởi mở, ngại tiếp cận với các thông tin,
kiến thức, pháp luật về bảo vệ chăm sóc trẻ em dẫn tới thiếu các kỹ năng về bảo vệ
cũng như chăm sóc trẻ. Một phần do khơng được quan tâm từ phía gia đình, một
phần do khơng có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ xã hội, tiếp cận với các nguồn

thơng tin… nên trẻ có nguy cơ bị XHTD thiếu các kỹ năng: từ các kỹ năng cơ bản
như cách chăm sóc bản thân đến các kỹ năng để bảo vệ bản thân như tự nhận biết
tình huống nguy hiểm, phản kháng, xử lý tình huống hay việc chia sẻ với người
khác khi bản thân bị rơi vào các tình huống nguy hiểm… [30].
1.2. Lý luận về thực hiện chính sách phịng, chống xâm hại tình dục trẻ em
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Thực hiện chính sách
Chính sách công là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực cơng
nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích chung của cộng đồng [22] .
Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là tồn bộ
q trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng
quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết
nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Đây là giai
đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực.
1.2.1.2. Thực hiện chính sách phịng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em là trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn
phận của trẻ em [38].
1.2.1.3. Cán bộ làm công tác phịng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Cán bộ làm cơng tác phịng, chống XHTD trẻ em có thể gọi là người làm cơng
tác xã hội, là người có trình độ chun mơn, được trang bị kiến thức kỹ năng về công
tác xã hội chuyên nghiệp và sử dụng, kiến thức, kỹ năng đó trong q trình tác nghiệp
trợ giúp đối tượng (cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng) có vấn đề xã hội giải quyết
vấn đề gặp phải, vươn lên trong cuộc sống.

16


Người làm công tác xã hội là những người được đào tạo một cách chuyên
nghiệp về công tác xã hội để sử dụng những kiến thức và kỹ năng của mình để: giúp

cho xã hội thấy rõ trách nhiệm của mình đối với sự phát triển chung của xã hội. Giúp
thân chủ: cung cấp các dịch vụ xã hội; tăng cường khả năng giải quyết và đối phó với
các vấn đề của mình; tiếp cận các nguồn lực; thiết lập những mối quan hệ thuận lợi
giữa họ và môi trường của họ.
1.2.2. Lý thuyết ứng dụng trong thực hiện phòng, chống xâm hại tình dục
trẻ em
1.2.2.1. Thuyết nhu cầu
Nhà tâm lý học Abraham Maslow Harold, một nhà tâm lý học người Mỹ,
được xem là người tiên phong trong trường phái tâm lý học nhân văn. Năm 1943,
ông đã phát triển một trong những lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó đến nhiều
lĩnh vực khác nhau. Maslow đã thiết lập một lý thuyết có thứ bậc của nhu cầu. Tất
cả các nhu cầu cơ bản theo ông là bản năng, giống với bản năng của động vật. Nhu
cầu của con người thành 5 bậc.

Biểu đồ Tháp nhu cầu Maslow [29]
Bậc thang nhu cầu cơ bản của Maslow được tóm lại bằng những ý chính như sau:
- Nhu cầu sinh lý: đây là những nhu cầu sinh học, chúng bao gồm nhu cầu khí
thở, thực phẩm, nước và cơ thể có nhiệt độ tương đối ổn định.
- Nhu cầu an toàn: khi tất cả các nhu cầu sinh học được thỏa mãn và khơng cịn
làm cho con người lo lắng, bận tâm, thì cái nhu cầu cho sự an tồn có thể phát sinh.
- Nhu cầu xã hội: khi nhu cầu về an toàn và sinh học được đáp ứng, nhu cầu
kế tiếp là nhu cầu xã hội như tình cảm, tình yêu và được nhìn nhận xuất hiện.

17


- Nhu cầu cần được tôn trọng: khi ba loại nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn,
nhu cầu lòng tự trọng có thể phát sinh.
- Nhu cầu tự chứng tỏ mình: khi tất cả các nhu cầu nói trên được thỏa mãn,
thì nhu cầu muốn hiện thực hóa, tự chứng tỏ bản thân xuất hiện.

Việc vận dụng lý thuyết này vào đề tài nghiên cứu nhằm mục đích giải thích
rằng con người có rất nhiều nhu cầu cần đáp ứng. Ngoài các nhu cầu cơ bản như ăn,
uống, mặc, đi lại thì nhu cầu được học tập, phát triển kỹ năng cho trẻ, cán bộ giáo
dục và gia đình trẻ là nhu cầu cần thiết và cần ðáp ứng ngay. Chính vì vậy, muốn
làm tốt cơng tác thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em thì cần phân tích
được nhu cầu của các trẻ em và gia đình ni dưỡng các em để có các giải pháp đáp
ứng nhu cầu một cách phù hợp.
1.2.2.2. Thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống được sáng lập bởi L.V.Bertalanffy (1901-1972) người
Áo, thuộc trường Đại học Tổng hợp Chicago, tiếp cận vấn đề hệ thống từ góc độ
sinh học bởi theo ơng: “Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ
các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn”.
Lý thuyết hệ thống cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là hệ thống, được tạo từ
các hệ thống và ngược lại cũng là phần cứng của hệ thống lớn. Do đó, con người là
một bộ phận của xã hội, đồng thời cũng được tạo nên từ các phần tử nhỏ hơn. Các
hệ thống có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Khi một hệ thống thay
đổi, kéo theo sự thay đổi của một hệ thống khác và ngược lại khi muốn thay đổi một
hệ thống thì phải thay đổi hệ thống nhỏ tạo nên nó và thay đổi cả hệ thống bao trùm
nó [24].
Ứng dụng thuyết hệ thống vào đề tài nghiên cứu nhằm mục đích giải thích
rằng tình trạng XHTD trẻ em có thể bị ảnh hưởng của các yếu tố nằm trong một hệ
thống lớn gồm một số tiểu hệ thống như xã hội, nhà trường, gia đình và cá nhân.
Trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em, lý thuyết hệ thống chỉ ra sự tác động mà các tổ
chức, các chính sách, các cộng đồng, nhóm, gia đình ảnh hưởng lên trẻ em. Mỗi trẻ
em đều có một mơi trường sống và một hồn cảnh sống, chịu tác động của các yếu
tố trong môi trường sống và cũng tác động, ảnh hưởng ngược lại môi trường xung

18



quanh. Để làm tốt cơng tác phịng, chống XHTD trẻ em không chỉ cần sự quan tâm
của riêng ngành giáo dục, lĩnh vực nào mà là sự tham gia của toàn xã hội.
Khi làm việc với trẻ em, cán bộ làm công tác trẻ em cần xem xét bản thân trẻ
là một hệ thống, hệ thống này nằm trong hệ thống lớn hơn là hệ thống gia đình, hệ
thống gia đình lại là một phần tử trong hệ thống một cộng đồng nhất định chứa gia
đình đó. Các hệ thống này đều có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau. Khi xác định
vấn đề của trẻ hoặc gia đình trẻ thì cần đặt trong mối quan hệ tương tác giữa các hệ
thống này để phân tích sâu hơn về các nguyên nhân dẫn đến vấn đề.
Vì vậy, nhiệm vụ cán bộ làm cơng tác trẻ em là tìm ra những mâu thuẫn
trong việc kết nối giữa các nhu cầu của trẻ và hệ thống trợ giúp bên ngoài để có thể
hỗ trợ trẻ và gia đình trẻ nhiều hơn. Ngoài ra, áp dụng lý thuyết hệ thống sẽ giúp
cán bộ làm công tác trẻ em: sử dụng và phát huy tối đa khả năng của trẻ trong sự
tương tác với các hệ thống khác để giải quyết vấn đề; xây dựng mối quan hệ mới
giữa trẻ, gia đình trẻ với các hệ thống trợ giúp trong xã hội; giúp tăng cường khả
năng tương tác giữa trẻ, gia đình trẻ và các hệ thống; cải tạo mối quan hệ tương tác
giữa các thành viên trong cùng hệ thống; giúp phát triển và thay đổi hệ thống chính
sách xã hội một cách phù hợp; cung cấp trợ giúp thực tế khác khi cần thiết.
Áp dụng lý thuyết hệ thống có thể thấy vấn đề phịng, chống xâm hại tình
dục là một hệ thống trong đó bao gồm các tiểu hệ thống: cán bộ làm cơng tác chăm
sóc trẻ em các cấp, cha mẹ và cán bộ giáo dục, hàng xóm, họ hàng, các hội đồn
thể, chính sách chăm sóc trẻ em, cơ sở vật chất… Mặt khác, hệ thống phòng, chống
XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang cũng là một tiểu hệ thống nằm trong một
hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em rộng lớn của cả nước.
1.2.3. Những ngun tắc trong tổ chức thực hiện chính sách phịng, chống
xâm hại tình dục trẻ em
Thực hiện chính sách phải đảm bảo đúng mục tiêu: là đảm bảo cho mọi trẻ
em đều được bảo vệ, để giảm nguy cơ bạo lực, bị XHTD; trẻ có nguy cơ bị XHTD
và trẻ em bị XHTD được phát hiện, can thiệp, hỗ trợ phục hồi, kịp thời để hịa nhập
cộng đồng và có cơ hội phát triển; chủ động phòng ngừa, loại bỏ các nguy cơ gây
tổn hại cho trẻ em; xây dựng mơi trường sống an tồn, lành mạnh và thân thiện cho

trẻ em, thực hiện ngày còn tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ em. Việc thực hiện

19


chính sách này sẽ đóng vai trị quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình và tồn xã hội đối với cơng tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục (BVCS&GD) và phịng, chống XHTD trẻ em.
Thực hiện chính sách phải đảm bảo tính hệ thống: được quy định trong chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, bắt buộc đối tượng triển
khai thực hiện chính sách phải tuân thủ theo các quy định hiện hành, điều này được
thể hiện rõ nhất ở sự phân cấp thực hiện giữa các cơ quan đơn vị với nhau, giữa cơ
quan cấp trên và cơ quan cấp dưới, ở sự phối hợp trong cơng tác. Thực hiện chính
sách phịng, chống XHTD trẻ em cần phải bảo đảm tính hệ thống, nghĩa là phải thực
hiện đồng bộ và thống nhất các nhiệm vụ đề ra.
Thực hiện chính sách phải đảm bảo tính pháp lý, khoa học và hợp lý: chính
sách được thực hiện đúng pháp luật, đúng nội dung hướng dẫn quy định tại các văn
bản hướng dẫn của Nhà nước, đồng thời phải thực hiện một cách khoa học, hợp lý
để chính sách phát huy hiệu quả. Nếu chính sách được đảm bảo yêu cầu về tính
pháp lý, khoa học và hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức, thực
hiện chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước, củng cố niềm tin của các đối
tượng được thụ hưởng chính sách đối với Nhà nước.
- Thực hiện chính sách phải đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng
chính sách: q trình thực thi chính sách thường tồn tại nhiều nhóm lợi ích trong xã
hội, cơ quan quản lý nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ lợi ích hợp pháp cho cá
nhân và tổ chức. Khi cơ quan quản lý nhà nước sử dụng chính sách cơng để đảm
bảo về lợi ích cho các đối tượng được thụ hưởng chính sách trong xã hội, sẽ góp
phần củng cố niềm tin của người dân vào các chính sách cơng của Nhà nước đã
thơng qua. Nội dung quan trọng trong q trình thực thi chính sách cơng là để cho
các đối tượng thụ hưởng chính sách có được những lợi ích thật sự.


1.2.4. Quy trình thực hiện chính sách phịng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Luận văn vận dụng hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và vận
dụng các phương pháp nghiên cứu từ lý thuyết chính sách cơng: tiếp cận quy phạm
chính sách cơng về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng chính sách, thực
hiện và đánh giá chính sách có sự tham gia của các bên chủ thể chính sách, cụ thể việc
thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trải qua 07 bước sau:

20


Bước 1: xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phịng, chống
XHTD trẻ em
- Tổ chức thực thi chính sách phịng, chống XHTD trẻ em là q trình phức
tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương
trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một cách chủ động.
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em được xây
dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống.
- Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ trung ương đến địa phương
đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi
chính sách phịng, chống XHTD trẻembao gồm những nội dung cơ bản: lập kế
hoạch tổ chức, điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ
trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham
gia tổchức thực thi; những dự kiến về cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lý và
công chức thực thi; cơ chế tác động giữa các cấp thực thi chính sách; xác định kế
hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến vềcác cơ sở kiến trúc, trang thiết bị
kĩ thuật phục vụcho tổchức thực thi chính sách phịng, chống XHTD trẻ em; các
nguồn lực tài chính.
-Dự kiến vềthời gian duy trì chính sách, các bước tổchức, triển khai thực
hiện từ tuyên truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục

tiêu cần đạt được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.
- Kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách là những dự kiến vềtiến độ, hình
thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổchức thực thi chính sách.
- Dự kiến những nội quy, quy chế trong thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc
trẻ em bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụvà
quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều
hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ
chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Bước 2: tun truyền chính sách phòng, chống XHTD trẻ em
Sau khi kế hoạch thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em được
thơng qua, các cơ quan trong bộ máy nhà nước tiến hành tổ chức triển khai thực
hiện theo kế hoạch.

21


-Trong q trình thực hiện chính sách phải trun truyền, vận động nhân dân
tham gia thực hiện chính sách pḥịng, chống XHTD. Tuyên truyền chính sách tốt
giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về
mục đích, yêu cầu của chính sách; hiểu rõ vềtính đúng đắn của chính sách trong
điều kiện hồn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách để họ có thể tự giác
thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời, phổ biến, tun truyền
chính sách cịn giúp cho mỗi cán bộ, cơng chức, viên chức có trách nhiệm tổ chức
thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mơ của chính sách với đời
sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực
hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực
hiện chính sách được giao.
- Chủ thể phổ biến, tuyên truyền chính sách phịng, chống XHTD trẻ em bao
gồm đội ngũ cán bộ trong bộ máy cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ. Đội ngũ
này phải được đào tạo đủ trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng trong việc tuyên truyền,

phổ biến chính sách phịng, chống XHTD trẻ em đảm bảo chính sách khi được phổ
biến, tuyên truyền phải đảm bảo tính trung thực, khách quan.
- Đối tượng phổ biến, tuyên truyền chính sách phịng, chống XHTD trẻ em
bao gồm: những công dân được tác động trực tiếp và là đối tượng thụ hưởng chính
sách phịng, chống XHTD trẻ em; những cơng dân bị tác động gián tiếp bởi chính
sách phịng, chống XHTD trẻ em, đây là những nhân tố góp phần làm cho chính
sách hiệu quả; những đối tượng tham gia thực thi, triển khai chính sách phịng,
chống XHTD trẻ em.
- Phương tiện và cách thức tuyên truyền: tuyên truyền là một trong những hoạt
động hiệu quả nhất nhằm nâng cao nhận thức của người dân và toàn xã hội trong thực
hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻem. Nội dung phải đa dạng về cách thức và phong
phú về hình thức đáp ứng được nhu cầu của từng đối tượng tuyên truyền.
Bước 3: phân công, phối hợp thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em
Hoạt động phân cơng, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách
bảo vệ, chăm sóc trẻ em một cách chủđộng, sáng tạo để ln duy trì chính sách
được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quảchính sách, đảm bảo phát huy
được tính năng động, sáng tạo của các yếu tố cấu thành và tác động đến chính sách.

22


Bước 4: duy trì chính sách phịng, chống XHTD trẻ em
Việc duy trì chính sách phịng, chống XHTD trẻ em là tồn bộ hoạt động
đảm bảo cho chính sách phát huy tác dụng trong đời sống chính trị và xã hội. Đồng
thời, phải có sự quyết tâm và thống nhất cao của các tổ chức, người thực thi và môi
trường thực hiện chính sách. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về chính sách
phịng, chống XHTD trẻ em phải chủ động tổ chức thực thi chính sách, tăng cường
cơng tác tun truyền, vận động các đối tượng chính sách và tồn xã hội tích cực
tham gia thực thi chính sách. Nếu việc thực thi chính sách gặp phải những khó khăn
do mơi trường thực tế biến động thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ

quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách,
đồng thời chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hồn cảnh mới.
Bước 5: điều chỉnh chính sách phịng, chống XHTD trẻ em
Trong q trình thực hiện chính sách phịng, chống XHTD trẻ em, do tác
động của nhiều yếu tố, chính sách sẽ bộc lộ sự bất cập. Từ đó, việc điều chỉnh chính
sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xun trong tiến trình tổ chức thực
hiện chính sách. Việc điều chỉnh chính sách được thực hiện bởi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình
hình thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều
chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp, cơ
chếchính sách diễn ra rất linh hoạt, vì thế cơ quan quản lý nhà nước các ngành, các
cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách đểthực hiện sao cho có hiệu
quả, miễn là khơng làm thay đổi mục tiêu của chính sách.
Bước 6: theo dõi, đơn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách phịng, chống
XHTD trẻ em
Việc đơn đốc thực hiện chính sách phịng, chống XHTD là hoạt động của cơ
quan, cán bộ, cơng chức có thẩm quyền thực hiện, thơng qua các cơng cụ hữu ích
nhằm làm cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện các
biện pháp theo định hướng chính sách; vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn
để hồn thành nhiệm vụ, vừa phịng, chống những hành vi vi phạm quy định trong
quá trình thực thi chính sách phịng, chống XHTD trẻ em.

23


Bước 7: tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách phịng,
chống XHTD trẻ em
Tổng kết, đánh giá q trình tổchức thực thi chính sách, xem xét, kết luận về
chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách.
Đối tượng được xem xét, đánh giá, tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính

sách là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Ngồi ra, cịn xem xét cả vai
trị, chức năng của các tổchức chính trị, chính trị-xã hội và xã hội trong việc tham
gia thực thi chính sách phịng, chống XHTD trẻ em. Trên cơ sở để tổng kết, đánh
giá công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách phịng, chống XHTD trẻ em
trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được
xây dựng ở bước một của phần này; đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản liên
tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị và xã hội và các văn bản quy
phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách
cơng của các tổ chức chính trị và xã hội với Nhà nước.
1.3. Hệthống chính sách phịng, chống xâm hại tình dục trẻ em
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước
Các chủtrương của Đảng, về chính sách bảo vệ trẻ em được quy định trong
các văn kiện, đáng chú ý là Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 Bộ Chính trị về
tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với cơng tác chăm sóc, giáo
dục trẻ em, trong đó yêu cầu hạn chế đến mức thấp nhất sự xâm hại đối với trẻ em.
Có biện pháp giải quyết tốt một số mục tiêu quan trọng như: tích cực phịng chống
tình trạng dụ dỗ trẻ em tham gia buôn bán và nghiện hút ma túy, trẻ em bị xâm hại,
trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em lang thang kiếm sống [2]. Bộ Chính trị ban hành
Chỉ thị 20/CT-TW, ngày 5/11/2012 về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với cơng tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới. Qua đó, yêu
cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổquốc Việt Nam và các đoàn thể phải
quan tâm giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ năng chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ
em; phê phán, lên án các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại, bạo lực, lôi kéo trẻ em
vào hoạt động tội phạm và cản trở việc thực hiện các quyền của trẻ em. Rà soát, sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và
bảo vệ trẻ em [3]. Quy định tại Hiến pháp năm 2013: “Nghiêm cấm xâm hại, hành

24



hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi
phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37)[21].Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
(BVCS&GD) trẻ em năm 2004 thay thế cho Luật Bảo vệ và chăm sóc (BV&CS) trẻ
em năm 1991 và kế thừa, phát huy những hiệu quả của Luật năm 1991 về vấn đề trẻ
em nhưng đồng thời tiếp thu có chọn lọc các quy định của pháp luật các nước và
văn kiện quốc tế; sửa đổi, bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ mới
phát sinh, bảo đảm phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đềra. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế-xã hội của đất nước có nhiều
thay đổi, sự hội nhập quốc tếngày càng sâu rộng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới
tác động đến cơng tác BV&CS trẻ em. Vì thế, Luật BVCS&GD trẻ em năm 2004 đã
bộc lộ những hạn chế, bất cập, không đáp ứng yêu cầu của các vấn đề mới phát
sinh,đặc biệt là vấn đề về BV&CS trẻ em [34].
Quốc hội khóa XIII đã thơng qua Luật Trẻ em, ngày 05/4/2016 gồm 7
chương với 106 Điều. Luật trẻ em năm 2016 ra đời là cơ sở pháp lý cao nhất quy
định về quyền, bổn phận của trẻ em; nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện
quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân
trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em [39]. Để cụ thể hóa thực hiện
Luật trẻ em, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017
quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020 và Chương trình mục tiêu Phát
triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2020, trong đó có dự án Phát triển hệ
thống bảo vệ trẻ em. Đồng thời, ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg, ngày 16/5/2017về
việc tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày 26/5/2020
vềviệc tăng cường các giải pháp đảm bảo thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em,
là cơ sở pháp lý để các ban, ngành và cả hệ thống chính trị vào cuộc chăm lo cho
cơng tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất
nước. Trong những năm gần đây, quan điểm về chăm sóc, bảo vệ trẻ em của Đảng,
Chính phủViệt Nam đã có những thay đổi quan trọng. Xác định rõ vị trí và tầm
quan trọng trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em gắn với mục tiêu phát triển đất nước theo

hướng bền vững và hội nhập, các quan điểm vềbảo vệ, chăm sóc trẻ em đã hướng

25


×