Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng từ thực tiễn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.46 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN PHƢƠNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Đà Nẵng, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN PHƢƠNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành

: Chính sách công

Mã số


: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. HỒ VIỆT HẠNH

Đà Nẵng, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Sau quá trình học tập và rèn luyện tại Học viện Khoa học Xã hội thuộc
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Khoa Chính sách công, cùng với việc
hoàn thành Luận văn tôi đã nhận được sự nhiệt tình giúp đỡ của các thầy cô, các
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Với lòng biết ơn chân thành nhất cho phép tôi được
gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc, các thầy, cô giảng viên, cán bộ các
phòng, ban chức năng của Học viện đã giúp đỡ tôi hoàn thành khoá học và hoàn
thành xuất sắc luận văn này.
Đặc biệt cho tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến PGS.TS Hồ
Việt Hạnh đã dành nhiều thời gian tâm huyết và tận tình hướng dẫn nghiên cứu,
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Đồng thời tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, cán bộ,
công chức Cơ quan Thanh tra tỉnh Quảng Nam và các đồng nghiệp đã giúp đỡ và
tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Đà Nẵng, tháng 3 năm 2018
Ngƣời thực hiện

Lê Văn Phƣơng



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn “Thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng từ
thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là công trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực và không
trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực, trên cùng địa bàn.
Tác giả luận văn

Lê Văn Phƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG ........................................................................ 7
1.1. Các khái niệm cơ bản ........................................................................................... 7
1.2. Nội dung thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng ................................ 10
1.3. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng17
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM .................................. 24
2.1. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng
tại tỉnh Quảng Nam ................................................................................................... 24
2.2. Thực trạng văn bản quy định về chính sách phòng, chống tham nhũng tại tỉnh
Quảng Nam ............................................................................................................... 30
2.3. Kết quả thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng tại tỉnh Quảng Nam.. 33
2.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng tại tỉnh Quảng
Nam ........................................................................................................................... 49
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM .............................................................................................. 58
3.1. Các quan điểm cơ bản về chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách

phòng, chống tham nhũng ở tỉnh Quảng Nam .......................................................... 58
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phòng,
chống tham nhũng tại tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới ...................................... 66
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTV

: Ban Thường vụ

CBCCVC

: Cán bộ, công chức, viên chức

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KTNN

: Kiểm toán nhà nước

MTTQVN

: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

PCTN


: Phòng, chống tham nhũng

TTCP

: Thanh tra Chính phủ

TTHC

: Thủ tuc hành chính

UBND

: Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu

Tên bảng biểu

Bảng 2.1. Kết quả kê khai tài sản, thu nhập 5 năm (2012 – 2016)
Bảng 3.1. Danh sách và số điện thoại, đường dây nóng của 19 đồng chí
lãnh đạo được công khai để tiếp nhận thông tin có liên quan
đến tham nhũng.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực tồn tại, gây thiệt hại nghiêm

trọng đến các nguồn lực công, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà
nước, làm sai lệch công lý, công bằng xã hội, suy giảm niềm tin, cản trở các nỗ
lực giảm nghèo và phát triển đất nước, xã hội. Công tác phòng, chống tham
nhũng (PCTN) được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài.
Thời gian qua, cùng với những thành tựu quan trọng đạt được về kinh tế xã
hội, đối ngoại, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, công tác
PCTN có nhiều chuyển biến tích cực cả về phòng ngừa và phát hiện, xử lý các
hành vi tham nhũng. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về PCTN được
quan tâm; thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN tiếp tục được hoàn thiện;
công tác cải cách hành chính, công khai minh bạch trong hoạt động của cơ quan,
tổ chức, đơn vị được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được những kết quả tích
cực; công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, xử lý các vụ việc, điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án tham nhũng được tăng cường; nhiều vụ án tham nhũng đặc biệt
nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố,
xét xử nghiêm minh; vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ
quốc và nhân dân trong PCTN từng bước được phát huy; hợp tác quốc tế về
PCTN tiếp tục được mở rộng, củng cố. Tham nhũng bước đầu được kiềm chế,
góp phần thiết thực giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Đạt được những kết quả trên đây là do có sự quyết tâm chính trị cao của
Đảng và Nhà nước trong đấu tranh PCTN; sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết
liệt, ráo riết với nhiều chính sách đúng đắn, kịp thời của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Quốc hội, Chính phủ; sự nỗ lực, cố

1


gắng của các cơ quan tham mưu và của các cấp ủy, tổ chức đảng, bộ, ngành, địa
phương, nhất là sự nỗ lực rất cao của các cơ quan, đơn vị có chức năng PCTN và

các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và địa phương; sự tham gia tích cực
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và báo chí.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách PCTN trên cả nước nói chung và
tại tỉnh Quảng Nam nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa đạt mục tiêu
“ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng” mà Nghị quyết Trung ương 3 (khóa
X) đã đề ra. Tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng, với biểu hiện ngày càng tinh
vi, phức tạp, xảy ra trên diện rộng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực,
“làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, thách
thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà
nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ”.
Xuất phát từ những thực trạng trên, học viên đã chọn đề tài "Thực hiện
chính sách phòng, chống tham nhũng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài
luận văn thạc sĩ, nhằm đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện chính sách
phòng, chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua để từ đó đưa ra
những quan điểm, giải pháp tăng cường thực hiện tốt hơn chính sách PCTN tại
tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới là việc làm có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về tham nhũng của nhiều
học giả, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của tổ chức minh bạch quốc tế
(Transparency International), Ngân hàng thế giới (World Bank). Ở Việt Nam đã
có nhiều học giả, nhà chính trị, nhà khoa học quan tâm đến vấn đề nhạy cảm này
và đã có nhiều đề tài và bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể
kể đến một số công trình như:
Đề tài cấp Bộ năm 2015 “Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong
khu vực tư ở Việt Nam” do Tiến sĩ Đinh Văn Minh, Phó Viện trưởng Viện Khoa
học Thanh tra làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đưa ra một số vấn đề chung về tham

2



nhũng trong khu vực tư; thực trạng tham nhũng và phòng, chống tham nhũng
trong khu vực tư; dự báo tình hình, định hướng và giải pháp phòng, chống tham
nhũng trong khu vực tư ở Việt Nam. Nghiên cứu này dự báo, tình hình tham
nhũng không dừng lại ở bất kỳ một mô hình tổ chức kinh doanh hay một loại
hình giao dịch kinh tế, thương mại cụ thể nào mà sẽ xuất hiện và tồn tại ở nhiều
lĩnh vực và hoạt động của khu vực tư. Sẽ có nguy cơ phát sinh nhiều hơn ở
những tổ chức có môi trường và hiệu quả quản trị, kiểm soát thấp và ở những
lĩnh vực nhạy cảm, có nguy cơ xung đột lợi ích cao v.v.;
Đề tài: “Thanh tra và vấn đề phòng, chống tham nhũng” của tác giả Phạm
Thị Huệ - Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn ThS ngành:
Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01, Năm bảo vệ: 2006. Trên
cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và phân tích thực tiễn, luận văn nêu bật
vai trò của công tác thanh tra trong phòng ngừa, phát hiện và bước đầu xử lý tệ
nạn tham nhũng. Từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm tăng cường công tác thanh
tra góp phần hữu hiệu nâng cao hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng;
Đề tài “Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị
theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng - Thực trạng và giải pháp” năm
2011 của tác giả Phạm Trọng Đạt, Thanh tra Chính phủ. Đề tài nghiên cứu nhiều
vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn về khái niệm, vai trò, ý nghĩa, nội dung và
phương thức công khai, minh bạch. Từ đó, đưa ra được nhiều giải pháp, kiến nghị
để tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng;
Đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham
nhũng của các cơ quan thanh tra nhà nước theo Luật Phòng, chống tham nhũng”
năm 2007 của tác giả Trần Ngọc Liêm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
vị trí, vai trò và trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong thực hiện
nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng; chỉ ra phương hướng, giải pháp

3



nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng của các cơ quan thanh tra
nhà nước;
Đề tài “Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra góp phần phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng” của tác giả Nguyễn Đức
Hạnh, Thanh tra Chính phủ (năm 2009). Đề tài đã đi sâu phân tích vị trí, vai trò
của công tác thanh tra góp phần phòng, chống lãng phí, thất thoát, tham nhũng
trong quản lý đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước;
Luận án “Tham nhũng ở nước ta hiện nay và biện pháp khắc phục” của
Phó tiến sĩ triết học Lê Văn Cương, năm 1993; Đề tài nghiên cứu khoa học
“Thanh tra với cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay” do Thanh tra nhà
nước (nay là Thanh tra chính phủ) tiến hành năm 1995; Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ về tham nhũng do Ban Nội chính trung ương Đảng chủ trì, năm
1997; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Tham nhũng và phòng chống tham
nhũng trong xây dựng cơ bản” do Bộ Công an chủ trì năm 2000; Luận văn tiến sĩ
luật “Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh chống tội phạm tham
nhũng” của Trần Công Phàn, năm 2002; Dự án “Nghiên cứu đấu tranh chống
tham nhũng” của Ban Nội chính trung ương do SIDA tài trợ kết thúc năm 2005;
Các bài nghiên cứu, bài viết của các nhà báo, chuyên gia về lĩnh vực này
như: “Tham nhũng và chống tham nhũng ở nước ta”, Vũ Xuân Kiều, Tạp chí
Cộng sản số 12-1996; “Tham nhũng: nhận diện từ các khía cạnh pháp lý và cơ sở
pháp lý mới” của GS,TS Đào Trí Úc, Viện trưởng Viện NN&PL đăng trên Tạp
chí Cộng sản số 2-1997; Phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay”, Vũ
Quốc Hùng, Tạp chí Xây dựng Đảng số 9-2004…
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về thực tiễn thực hiện chính sách
phòng, chống tham nhũng tại tỉnh Quảng Nam như là một đề tài nghiên cứu độc
lập. Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ, đề tài luận
văn được tổng kết từ thực tiễn việc thực hiện chính sách phòng, chống tham
nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để phân tích, đánh giá từ đó đưa ra các giải


4


pháp phù hợp với tình hình thực tế ở Quảng Nam là không trùng lặp với các
công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng ở tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến thực hiện chính sách
phòng, chống tham nhũng;
- Nghiên cứu quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề
phòng, chống tham nhũng hiện nay;
- Nghiên cứu thực trạng việc thực hiện chính sách phòng, chống tham
nhũng hiện nay tại tỉnh Quảng Nam.
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Chính sách phòng, chống tham nhũng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam;
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng từ thực
tiễn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006 - 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Trên cơ sở Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ
nghĩa duy vật lịch sử, Tư tường Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về chính sách phòng, chống tham nhũng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng

hợp, so sánh và tổng kết từ thực tiễn để xem xét, giải quyết các vấn đề cụ thể về
lý luận và thực tiễn. Những nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu được thu
thập, tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, như các công trình nghiên cứu,

5


giáo trình, sách, báo, tạp chí, báo cáo tổng kết, văn bản pháp luật,...Trong đó chú
trọng sử dụng nguồn số liệu từ các cơ quan chuyên trách về công tác phòng,
chống tham nhũng của tỉnh Quảng Nam.
Phương pháp trình bày của luận văn: Dựa trên cơ sở tổ chức các bước của
quy trình chính sách, đề tài sẽ phân tích nội dung thực hiện chính sách PCTN.
Hay nói cách khác từng nội dung được trình bày sẽ đồng thời lồng ghép theo tổ
chức các bước thực hiện chính sách.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu đề tài này sẽ hệ thống hóa được cơ
sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài của luận văn sẽ đưa ra bức
tranh chung về thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam; đồng thời, cung cấp các luận cứ khoa học và đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phòng, chống tham
nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay. Đây cũng là nguồn tư liệu tham
khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phòng, chống
tham nhũng.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng từ
thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
phòng, chống tham nhũng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về chính sách công
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính
sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể
nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính
chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó
của chủ thể, nó bao gồm các mục tiêu mà chủ thể muốn đạt được và cách làm để
thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện
trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội - môi trường.
Chính sách công (public policy) được tiếp cận nghiên cứu từ những giác độ
khoa học khác nhau theo đó có những cách hiểu, xác định không hoàn toàn
giống nhau về khái niệm và các thuộc tính của chính sách công, Ở các nước phát
triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính sách công” được sử dụng
rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
- Chính sách công là những hoạt động mà chính quyền chọn làm và không
làm (Thomas R. Dye, 1984).
- Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành
(Peter Aucoin, 1971).
- Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của

một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978).
Nhìn vào thực tiễn của nước ta có thể thấy: Chính sách công là sự cụ thể hóa

7


các chủ trương, quan điểm, định hướng của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Các quyết định về chính sách công là những quyết định chính trị bao hàm
ý chí chính trị và thực tiễn cuộc sống nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân. Chính
sách công tập trung giải quyết các vấn đề xã hội đang đặt ra trong đời sống kinh tế xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định, không chỉ đề ra mục tiêu và các giải pháp
với công cụ hành động thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề có mối
quan hệ biện chứng đang đặt ra trong đời sống xã hội, mà còn giải quyết mối quan
hệ giữa các bên tham gia chính sách.
Từ các phân tích trên, chúng ta có thể hiểu rằng: Chính sách công là tổng thể
chương trình hành động của chủ thể nắm quyền lực công nhằm giải quyết những
vấn đề nổi cộm trong cuộc sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được
các mục tiêu đề ra và bảo đảm cho xã hội phát triển bền vững.
1.1.2. Các giai đoạn chính của quá trình chính sách
- Hoạch định chính sách với các bước cụ thể là:
+ Lập chương trình (Agenda setting);
+ Hình thành chính sách (Policy formulation);
+ Thông qua chính sách (Policy adoption).
- Thực hiện chính sách (Policy implementation): Để tổ chức thực hiện
chính sách, người ta có thể tuân thủ theo các bước sau:
+ Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách;
+ Phổ biến tuyên truyền chính sách;
+ Phân công, phối hợp triển khai thực hiện chính sách;
+ Giám sát, đôn đốc thực hiện chính sách;
+ Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách;

- Đánh giá chính sách (Policy evaluation): Trong giai đoạn này, các đơn vị
chức năng như thanh tra, kiểm toán xác định xem các cơ quan thực thi chính
sách có đáp ứng yêu cầu, tuân thủ quy định pháp lý, và đạt được các mục tiêu
của chính sách không. Theo nghĩa này thì đánh giá chính sách là một giai đoạn

8


trong quy trình chính sách. Bên cạnh đó, đánh giá chính sách trong nghiên cứu
chính sách còn được hiểu là một phương pháp phân tích chương trình, chính
sách, thông qua việc sử dụng các công cụ phân tích.
1.1.3. Khái niệm tham nhũng
- Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực tồn tại ở tất cả các quốc gia trên
thế giới. Tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng đến các nguồn lực công, xâm
hại đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý, công
bằng xã hội, suy giảm niềm tin, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển đất
nước, xã hội.
Tham nhũng được thực hiện bởi hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
mà đáng lý ra họ phải thực hiện hành vi đó vì lợi ích chung của cả xã hội thì lại
bị lạm dụng vào mục đích trục lợi cho cá nhân.
Ở Việt Nam, khái niệm tham nhũng được quy định tại khoản 2, Điều 1 của
Luật Phòng, chống tham nhũng của Nhà nước ta có hiệu lực thi hành từ ngày
01/6/2006: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
1.1.4. Khái niệm về chính sách phòng, chống tham nhũng
Từ các khái niệm trên chúng ta có thể hiểu: Chính sách phòng, chống tham
nhũng là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng và Nhà
nước nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ thực hiện nhằm giải quyết
các vấn đề về phòng, chống tham nhũng theo mục tiêu tổng thể đã xác định.
1.1.5. Khái niệm thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng

Thực hiện chính sách phòng chống tham nhũng là khâu hợp thành của chu
trình chính sách phòng, chống tham nhũng, là toàn bộ quá trình chuyển hoá ý chí
của Đảng, Nhà nước trong chính sách phòng, chống tham nhũng thành hiện thực
đối với đối tượng cần phải phòng, chống tham nhũng nhằm đạt được mục tiêu
phòng, chống tham nhũng đã định.
Nó có ý nghĩa cơ bản sau đây:

9


Thứ nhất, thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng có vị trí quan
trọng kết nối các khâu trong chu trình chính sách thành một hệ thống và là bước
hiện thực hoá chính sách phòng, chống tham nhũng.
Thứ hai, qua kết quả thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng sẽ
giúp ta biết được chính sách đó có đúng, phù hợp và đi vào thực tiễn hay không.
Thứ ba, quá trình thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng với
những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần vào việc điều chỉnh, bổ sung và hoàn
thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn phòng, chống tham nhũng đáp ứng
yêu cầu của cuộc sống.
1.2. Nội dung thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng
Việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng là vấn đề phức tạp, về
cơ bản có những nội dung sau:
1.2.1. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục và tổ chức việc thực
hiện chính sách phòng, chống tham nhũng
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về phòng chống
tham nhũng nói riêng là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội.
Việc thực thi và chấp hành pháp luật phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó có yếu tố ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của nhân dân. Đặc
trưng rõ nét của ý thức pháp luật - thể hiện thái độ của các thành viên trong xã
hội đối với kỷ cương, pháp luật là sự đánh giá và ghi nhận tính công bằng của

pháp luật xã hội chủ nghĩa. Pháp luật chỉ có thể trở thành công cụ có tác dụng
điều chỉnh những hành vi đúng đắn khi sự cần thiết của nó đối với xã hội được
ghi nhận, chấp nhận, khi mà nghĩa vụ chấp hành các quy định của pháp luật thực
sự trở thành nhu cầu chấp hành một cách tự nguyện và có ý thức của bản thân
mỗi người. Bởi thế có thể coi ý thức pháp luật như là tiền đề tư tưởng cho sự
củng cố và phát triển nền pháp chế.
Trong thực tế, không phải lúc nào việc chấp hành pháp luật cũng trở thành
ý thức tự nguyện. Bởi vậy trong điều kiện hiện nay, vai trò của giáo dục pháp

10


luật là hình thành ý thức pháp luật, góp phần giúp mỗi người nhận ra tính công
bằng của pháp luật, chấp hành pháp luật trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ nhu
cầu của bản thân, mà không phải do sự sợ hãi trước sự trừng phạt.
Tuân thủ pháp chế XHCN còn phụ thuộc không nhỏ vào trình độ văn hoá
pháp lý của nhân dân. Trình độ văn hóa pháp lý không chỉ phản ánh sự hiểu biết
các quy định của pháp luật một cách tổng thể, cần thiết cho mỗi con người, gắn
liền với các nghĩa vụ của họ mà còn là sự hiểu biết một cách sâu sắc ý nghĩa của
pháp luật trong cuộc sống xã hội, sự tôn trọng pháp luật và biết vận dụng pháp
luật một cách đúng đắn.
Tóm lại, giáo dục pháp luật với những phương thức khác nhau, trong đó có
phổ biến, tuyên truyền pháp luật, tạo điều kiện cho việc nâng cao trình độ văn
hoá pháp lý của người dân. Đồng thời, sự phát triển của văn hóa pháp lý cũng
chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động thực thi pháp luật của các cơ quan Nhà
nước. Hiệu quả tác động này lại phụ thuộc vào trình độ văn hoá pháp lý của đội
ngũ cán bộ, công chức; phụ thuộc vào việc họ thực thi đúng pháp luật, có thái độ
tôn trọng pháp luật. Bởi vậy, thực hiện nhiệm vụ nâng cao văn hoá pháp lý đòi
hỏi không chỉ nâng cao trình độ văn hoá chung của nhân dân mà còn phải tăng
cường năng lực thực thi pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan

Nhà nước. Một trong những nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật là do
trình độ văn hoá pháp lý của một bộ phận nhân dân, trong đó có cả cán bộ, công
chức còn thấp. Rõ ràng, việc nâng cao văn hoá pháp lý có quan hệ gắn bó mật
thiết với việc tiếp tục tăng cường pháp chế.
1.2.2. Cải cách hành chính, công khai minh bạch trong hoạt động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị, đổi mới công nghệ quản lý nhằm phòng ngừa tham nhũng
Tham nhũng xuất hiện do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do các
thủ tục hành chính (TTHC) rườm rà, phức tạp, không rõ ràng tạo điều kiện thuận lợi
cho một số cán bộ, công chức nhũng nhiễu, vòi vĩnh tiền, tài sản của cá nhân, tổ
chức khi giải quyết TTHC; cộng thêm cơ chế kiểm tra, thanh tra, kiểm soát hoạt

11


động hiệu quả thấp, việc xử lý người vi phạm chưa nghiêm, dẫn đến tham nhũng
vẫn đang tồn tại hàng ngày, hàng giờ, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Một trong những xu hướng chung của cải cách hành chính ở khu vực và
trên thế giới là hướng tới việc xây dựng một nền hành chính gọn nhẹ, hoạt động
linh hoạt, năng động, hiệu quả, cung ứng tốt nhất các dịch vụ công cho xã hội,
đáp ứng các yêu cầu hội nhập và toàn cầu hoá. Trong đó, việc ứng dụng các
thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào các
hoạt động hành chính đã và đang góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của
hoạt động công vụ, thay đổi cách làm việc, góp phần xây dựng hoàn thiện các
chuẩn mực về thủ tục hành chính của chính phủ.
Tóm lại, cải cách hành chính, trong đó cải cách TTHC là trọng tâm, luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Cải cách TTHC nhằm bảo đảm sự
thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai, minh bạch của TTHC, từ đó tạo sự
thuận lợi cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong tiếp cận, tham gia giám sát
và thực hiện TTHC; tăng cường trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức; góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, từ đó, góp phần phòng,

chống tham nhũng và lãng phí một cách hiệu quả, thiết thực.
1.2.3. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn; ban hành
các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp
Các chế độ, định mức, tiêu chuẩn về lợi ích, nhất là các chế độ đối với
người có chức vụ lãnh đạo, quản lý, như chế độ phục vụ, chế độ dùng xe công,
tiêu chuẩn dùng điện thoại, máy vi tính... Vi phạm trong việc thực hiện chế độ,
định mức, tiêu chuẩn này là hưởng hay sử dụng kinh phí hoặc loại tài sản vượt
mức mà Nhà nước quy định. Người không thuộc diện được hưởng nhưng đã
được hưởng, tức là tự ý mở rộng đối tượng được hưởng một tiêu chuẩn thuộc về
lợi ích vật chất nào đó. Các chế độ, định mức, tiêu chuẩn có tính chất chuyên
môn - kỹ thuật là những quy định để bảo đảm chất lượng các công trình, dự án,
với những yêu cầu chính xác cao về kỹ thuật, về quy trình thực hiện, về thời

12


gian, về nguyên vật liệu. Tự ý thay đổi, hạ thấp tiêu chuẩn này sẽ dẫn đến việc
một số người được hưởng lợi, thực chất là tham nhũng, biểu hiện của loại vi
phạm này chính là hiện tượng "rút ruột" công trình xây dựng, hạ thấp chi phí
thực tế để chia nhau hưởng lợi. Đây là hành vi hết sức nguy hiểm bởi vì không
những Nhà nước bị thiệt hại về tài sản mà hậu quả có thể hết sức nghiêm trọng,
việc khắc phục là rất khó khăn, tốn kém. Do đó, cần xây dựng và thực hiện đúng
các chế độ, tiêu chuẩn, định mức.
Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức là các chuẩn mực xử sự
của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong
quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm phù hợp với
đặc thù công việc của từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực
hoạt động công vụ nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công
chức, viên chức. Việc ban hành và thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công
chức, viên chức nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên

chức trong thực thi nhiệm vụ, công vụ; làm căn cứ để các cơ quan, đơn vị được
phân cấp quản lý xử lý trách nhiệm khi cán bộ, công chức, viên chức vi phạm
các chuẩn mực xử sự trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội,
là căn cứ để các tổ chức và nhân dân giám sát việc chấp hành pháp luật của cán
bộ, công chức, viên chức.
Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức thể hiện ở đạo đức công
vụ đó là một dạng đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp có thể được hiểu
là một hệ thống quy định hoặc quy tắc gắn liền với những chuẩn mực về cách
ứng xử đạo đức của một nghề nhằm hướng dẫn hành vi đúng đắn và việc ra
quyết định trong phạm vi nghề đó. Với cách hiểu này, có thể suy ra rằng đạo đức
công vụ là những giá trị và chỉ dẫn nhằm hướng dẫn quyết định của những người
thực hành các hoạt động công quyền.
Đạo đức công vụ chịu ảnh hưởng bởi tính chất và những đặc điểm của công
vụ, cụ thể bao gồm:

13


+ Mục đích của công vụ là phục vụ nhân dân và xã hội.
+ Nội dung hoạt động công vụ gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời thực hiện
chức năng tổ chức phục vụ các nhu cầu chung của xã hội không vì mục đích lợi
nhuận. Hoạt động công vụ mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp.
+ Chủ thể thực thi công vụ là công chức.
+ Tính chất của công vụ: công vụ không chỉ thuần tuý mang tính quyền lực
nhà nước, mà còn bao gồm cả hoạt động của các tổ chức do nhà nước thành lập
(được nhà nước uỷ quyền) để phục vụ các nhu cầu của nhân dân.
Với những đặc điểm như vậy, đối chiếu vào đạo đức công vụ với tư cách
một loại đạo đức nghề nghiệp, có thể thấy:
+ Về mục đích, đạo đức công vụ đề cao đạo đức và những hành vi đúng

đắn của người thi hành công vụ, cũng là nhằm bảo đảm việc phục vụ tốt hơn xã
hội và nhân dân và việc thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
(chức năng quản lý và phục vụ) không vì mục tiêu lợi nhuận.
+ Đạo đức công vụ là để quản lý đội ngũ thực thi công vụ tức là công chức.
+ Đạo đức công vụ cũng cần được công nhận và điều chỉnh bởi pháp luật;
pháp luật là hình thức pháp lý của đạo đức công vụ, pháp luật về công vụ như là
“vỏ bọc, áo khoác pháp lý” của đạo đức công vụ.
1.2.4. Công khai minh bạch tài sản, thu nhập, chuyển đổi vị trí công tác
của cán bộ, công chức, viên chức chế độ tiền lương và đãi ngộ:
Có thể nói kê khai tài sản, thu nhập là biện pháp quan trọng đầu tiên để
ngăn ngừa tham nhũng. Công khai, minh bạch sẽ tạo điều kiện để người dân
cũng như toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Với việc công khai minh bạch về tài sản, thu nhập, người dân sẽ dễ dàng nhận
biết và chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình cũng như đòi hỏi cơ
quan Nhà nước và các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thực hiện các quy
định đó. Công khai, minh bạch sẽ làm cho cán bộ, công chức, viên chức nhà

14


nước có ý thức hơn trong việc thực hiện chức trách, công vụ của mình theo đúng
trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định bởi, mọi hành vi vi phạm,
phiền hà, sách nhiễu hay lợi dụng chức trách để tư lợi đều có thể bị phát hiện và
xử lý.
Để CB,CC,VC hoàn thành tốt nhiệm vụ đồng thời nói không với tệ tham
nhũng hay nói cách khác ít có cơ hội tiếp xúc với tham nhũng thì việc luân
chuyển cán bộ, chuyển đổi vị trí công tác là việc làm thường xuyên và hết sức
quan trọng.
Việc luân chuyển cán bộ phải bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông,
thường xuyên, liên tục, có luân chuyển dọc, luân chuyển ngang giữa các cơ

quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị; phải gắn kết chặt chẽ với quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ; bố trí cân đối, hài
hòa giữa luân chuyển cán bộ với việc phát triển nguồn cán bộ tại chỗ.
Việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức nhằm
phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng đã được thực hiện nhất là từ sau khi có Luật
Phòng, chống tham nhũng, việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức,
viên chức theo quy định của Luật này được tiến hành một cách rộng rãi, chặt chẽ
và “bài bản” hơn.
Việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức được thực
hiện theo Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị định số 158. Còn việc luân
chuyển cán bộ được thực hiện theo Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 25/01/2002,
của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý và Kết luận số 24KL/TW, ngày 5/6/2012, của Bộ Chính trị về đẩy mạnh công tác quy hoạch và
luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
Chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức và luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều điểm khác nhau ví dụ như:
+ Chuyển đổi vị trí công tác nhằm chủ động phòng ngừa tham nhũng.
+ Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm mục đích chính là đào tạo,

15


bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ.
Tuy nhiên, cả 2 cách đều góp phần thực hiện tốt việc phòng ngừa tham
nhũng đối với CB,CC,VC trong quá trình thực thi công vụ.
Để CB,CC,VC yên tâm công tác và hoàn thành tốt nhiệm vụ đồng thời
không cần tham nhũng cũng đảm bảo mức sống cho bản thân và gia đình thì
chính sách tiền lương, chính sách đãi ngộ cần phải được chú trọng, trước hết cần
phải có cơ chế để cán bộ, công chức phải sống dựa vào lương, xóa bỏ những cơ
chế hình thành nên các chế độ, chính sách ngoài lương như phụ cấp, thâm
niên…; chỉ trả lương cho những cán bộ, công chức làm được việc, loại bỏ những

cán bộ yếu kém, thiếu năng lực; tạo ra cơ chế trả lương công bằng, đảm bảo tính
cạnh tranh và giảm sức ì trong đội ngũ cán bộ, công chức.
1.2.5. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra, giám sát,
thanh tra, xử lý các vụ việc, điều tra, truy tố, xét xử
Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam là kiên quyết đấu
tranh và xử lý những sai phạm, các vụ việc tham nhũng, tiêu cực; có các hình
thức xử lý nghiêm minh những đối tượng vi phạm pháp luật theo đúng quy định
của luật pháp Việt Nam, quan điểm này cũng đã được các đồng chí lãnh đạo của
Việt Nam nhiều lần nêu rõ và báo chí Việt Nam cũng đã đăng tải.
Người có hành vi tham nhũng phải bị xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm
minh về trách nhiệm chính trị, hành chính hoặc hình sự, bất kể người đó là ai và
ở cương vị nào. Chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng, áp dụng chính sách khoan
hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường
thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng.
Trừng trị nghiêm khắc những đối tượng tham nhũng có tổ chức, gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng.
Việc tăng cường chỉ đạo phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng lớn
được công luận đồng tình ủng hộ, qua đó đã có tác dụng răn đe, góp phần ngăn
chặn các hành vi tham nhũng, bước đầu củng cố niềm tin của nhân dân vào vai
trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với công tác PCTN.

16


Thông qua việc xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng đã giúp các cấp, các ngành
phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế - xã hội, từ đó bổ sung cơ
chế, chính sách, khắc phục những hạn chế, yếu kém, đưa ra các giải pháp phòng
ngừa tiêu cực, tham nhũng phù hợp hơn.
Từ trước đến nay, hoạt động thanh tra được coi là khâu không thể thiếu
trong quản lý nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý.

Thanh tra được coi là tai mắt của các cấp lãnh đạo, quản lý và được tổ chức
thành một hệ thống từ Trung ương đến địa phương.
Trong hệ thống các giải pháp trực tiếp và gián tiếp phòng, chống tham
nhũng thì hoạt động thanh tra chính là một phương thức quan trọng để thực hiện
nhiệm vụ này thể hiện qua các phương diện công tác cũng như thực tiễn hoạt
động của các tổ chức thanh tra nhà nước trong những năm vừa qua.
Phòng, chống tham nhũng là một trong những trách nhiệm của Thanh tra
Chính phủ (TTCP) và ngành Thanh tra. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
mình, TTCP đã thể hiện vai trò như một công cụ không thể thiếu được của nhà
nước trong cuộc đấu tranh PCTN hiện nay.
Kiểm toán nhà nước (KTNN) là công cụ phục vụ cho sự minh bạch về tài
chính ngân sách thông qua việc công khai kết quả kiểm toán báo cáo tài chính
của các tổ chức, các cấp ngân sách. Đây là cơ sở cho hoạt động giám sát của các
đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội và của công dân đối với công tác quản lý tài chính ngân sách, đặc
biệt là các nguồn lực tài chính nhà nước. KTNN là công cụ quan trọng để phát
hiện những hiện tượng, những dấu hiệu tham ô, lãng phí, không tuân thủ pháp
luật trong quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực tài
chính, tài sản nhà nước...
1.3. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách phòng, chống
tham nhũng
Thứ nhất, chủ thể thực hiện chính sách PCTN
Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp,

17


nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều
mặt; để công tác phòng, chống tham nhũng thực sự đạt được kết quả như mong
đợi thì vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, xã hội trong việc thực hiện

chính sách phòng, chống tham nhũng là hết sức quan trọng; đòi hỏi sự lãnh đạo,
chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, ráo riết với nhiều quyết sách đúng đắn, kịp thời của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Quốc hội, Chính
phủ về công tác PCTN; quyết tâm chính trị là yếu tố hàng đầu quyết định sự
thành công của công tác PCTN.
Chủ thể thực hiện chính sách PCTN tại địa phương là: các cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự
nghiệp, doanh nghiệp của Nhà nước và cơ quan, tổ chức, đơn vị khác thuộc phạm
vi địa phương. Trong đó, UBND tỉnh đóng vai trò chủ đạo, là cơ quan quản lý nhà
nước về công tác PCTN, có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện các
quy định của Luật PCTN tại địa phương. Các cơ quan Thanh tra, Công an, Viện
Kiểm sát, Tòa án trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện công tác phòng,
chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Thông tư số
03/2014/TTLT-TTCP-BNV ngày 08 tháng 9 năm 2014 của Thanh tra Chính phủ và
Bộ Nội vụ: vị trí của cơ quan Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và PCTN; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và PCTN theo quy định của pháp luật. Như vậy, trong phạm vi địa
phương, cơ quan thanh tra có vai trò rất quan trọng, là đầu mối giúp UBND cấp tỉnh
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác PCTN tại địa phương.
Mặt khác yếu tố về tổ chức của các cơ quan chức năng về PCTN cũng ảnh
hưởng đáng kể đến việc thực hiện chính sách PCTN. Việc tổ chức bộ máy các cơ
quan PCTN một cách khoa học có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn… có cơ chế phối hợp để xử lý công việc nhanh chóng, không chồng
chéo có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách PCTN.

18



×