Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Bước đầu đánh giá hiệu quả dự án trồng rừng việt đức kfw1 tại huyện cao lộc tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.56 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
********

NGUYỄN VĂN HÀ

BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ ÁN TRỒNG RỪNG
VIỆT – ĐỨC KfW1 TẠI HUYỆN CAO LỘC – TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI- 2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
********

NGUYỄN VĂN HÀ

BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ ÁN TRỒNG RỪNG
VIỆT – ĐỨC KfW1 TẠI HUYỆN CAO LỘC – TỈNH LẠNG SƠN

Chuyên ngành: Lâm hoc
Mã số: 60.62.60



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM VĂN TUẤN

HÀ NỘI- 2009



1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào giữa thế kỷ XX diện tích rừng của nước ta khoảng 14 triệu ha chiếm
43% diện tích đất tự nhiên. Trong 30 năm chiến tranh diện tích rừng nước ta bị thu
hẹp khá nhanh, năm 1976 chỉ cịn 11,17 triệu ha chiếm 33,8% diện tích cả nước
[61]. Đất nước ta đã trải qua một thời gian dài trong sự tàn phá của chiến tranh và
đang ở giai đoạn đầu bước vào công cuộc xây dựng tái thiết đất nước, vì vậy
chúng ta cịn nhiều khó khăn, thiếu thốn, điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng, phát
triển kinh tế, trình độ dân trí của người dân ở những khu vực rừng núi chưa được
quan tâm kịp thời. Đây chính là nguyên nhân gây ra các hiện tượng phá rừng bừa
bãi, đốt nương làm rẫy… đã làm suy giảm diện tích rừng một cách nghiêm trọng,
đầu thập kỷ 90 đã giảm đến mức thấp nhất là 9,1 triệu ha chiếm 27,8% diện tích cả
nước [64]. Hậu quả là làm mất cân bằng sinh thái, đất bị xói mịn, bạc màu, hạn
hán, lũ lụt, úng ngập lan tràn nhiều nơi.
Phục hồi và phát triển rừng nhằm nâng cao độ che phủ của rừng, hướng tới
phát triển bền vững đã trở thành một trong những mục tiêu hàng đầu và cấp bách
của nước ta. Sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân trước tiên phải dựa
vào sự bền vững về mơi trường, điều này chỉ có thể thực hiện được thông qua
việc khôi phục và phát triển rừng. Chỉ có nâng cao độ che phủ mới phát huy
được chức năng phịng hộ, cải thiện mơi trường, hạn chế thiên tai cho vùng hạ
lưu, cung cấp nước cho sản xuất nơng nghiệp, đóng góp vào cơng cuộc "xố đói

giảm nghèo" cho những người dân sống trên vùng đầu nguồn, vùng sâu, vùng xa.
Ngày 28 tháng 11 năm 1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Pháp lệnh trồng
rừng trong cả nước. Gần đây, Quốc hội đã đưa ra Luật Bảo vệ và phát triển rừng,
Chương trình trồng 5 triệu ha rừng… Chính phủ cũng khơng ngừng tranh thủ sự
hỗ trợ của các quốc gia và các tổ chức quốc tế, trong đó có sự hợp tác giữa Chính
phủ Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa liên bang Đức thực hiện
dự án trồng rừng để phủ xanh đất trống đồi núi trọc và khoanh nuôi xúc tiến tái


2
sinh tự nhiên, bảo vệ đất trên các khu vực bị đe dọa về sinh thái ở một số tỉnh của
Việt Nam. Huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn là nơi đã thực hiện dự án này từ năm
1996 đến nay và đã tạo được nhiều hiệu quả to lớn về kinh tế, xã hội và môi
trường. Để đánh giá được mức độ hiệu quả của dự án cho người dân trong vùng
dự án, đề tài: “Bước đầu đánh giá hiệu quả dự án trồng rừng Việt – Đức KfW1
tại huyện Cao Lộc – tỉnh Lạng Sơn” đã được thực hiện theo chương trình đào tạo
thạc sĩ của trường Đại học Lâm nghiệp.
Kết quả của đề tài sẽ đóng góp thêm những cơ sở khoa học trong việc đánh
giá dự án và đề xuất các giải pháp phù hợp để duy trì, phát triển dự án trong những
năm tiếp theo. Đây cũng là cơ sở quan trọng để thu hút và sử dụng hiệu quả các
nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho các hoạt động sản xuất lâm nghiệp tại Việt
Nam.


3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1 TRÊN THẾ GIỚI.


1.1.1 Khái niệm về dự án.
Theo Cleland và King (1975) thì coi dự án là sự kết hợp giữa các yếu tố
nhân lực và tài lực trong một thời gian nhất định để đạt được một mục tiêu định
trước.
Clipdap cho rằng dự án là một tập hợp các hoạt động để giải quyết một vấn
đề hay để hoàn thiện một trạng thái cụ thể trong một thời gian xác định.
Gitinger (1982) đưa ra quan điểm: dự án là một tập hợp các hoạt động mà ở
đó tiền tệ được đầu tư với hy vọng được thu hồi lại. Trong quá trình này các
cơng việc kế hoạch tài chính, vận hành hoạt động là một thể thống nhất, được
thực hiện trong một thời gian xác định [48].
Từ điển xã hội học của David Jary and Julia Jary(1991)[46], đưa ra định
nghĩa về dự án như sau: những kế hoạch của địa phương được thiết lập với mục
đích hỗ trợ các hành động cộng đồng và phát triển cộng đồng. Theo định nghĩa
này có thể hiểu dự án là một kế hoạch can thiệp có mục tiêu, nội dung, thời gian,
nhân lực và tài chính cụ thể. Dự án là sự hợp tác của các lực lượng xã hội bên
ngoài và bên trong cộng đồng. Với cách hiểu như trên thì thước đo sự thành cơng
của dự án khơng chỉ là việc hồn thành các hoạt động có tính kỹ thuật (đầu tư cái
gì, cho ai, bao nhiêu, đầu tư như thế nào...) mà là nó có góp phần vào q trình
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nhận thức về phát triển kinh tế, xã hội, môi trường
trong cộng đồng nông thôn miền núi hay không.
1.1.2 Quan niệm về đánh giá dự án.
Đánh giá dự án có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý và thực
hiện dự án, đánh giá dự án để đưa ra những nhận xét theo định kỳ về kết quả


4
thực hiện các hoạt động dự án và những hiệu quả cũng như những tác động của
dự án trên cơ sở so sánh một số tiêu trí, chỉ tiêu đã lập trước, hay nói cách khác,
đánh giá dự án là q trình xem xét một cách có hệ thống và khách quan nhằm
cố gắng xác định tính phù hợp, tính hiệu quả và tác động của các hoạt động ứng

với các mục tiêu đã vạch ra.
Trong bất cứ một dự án nào vai trò của các bên liên quan tham gia có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng thì cơng tác đánh giá hiệu quả địi hỏi phải có sự tham
gia của các bên liên quan. Đánh giá hiệu quả dự án có sự tham gia là một hệ
thống phân tích được thực hiện bởi các nhà quản lý dự án và các thành viên được
hưởng lợi từ dự án, cho phép họ điều chỉnh, xác định lại các chính sách hoặc
chiến lược mục tiêu, nội dung, phương pháp triển khai, sắp xếp lại tổ chức,
nguồn lực nếu cần thiết. Nó là cơ hội cho cả người bên trong cuộc và người bên
ngồi cộng đồng nhìn nhận, phản ánh đúng q khứ, hiện tại và vạch ra định
hướng cho tương lai.
Theo L. Therse Barker, WHO[54],[60] cho rằng việc đánh giá liên quan
đến việc đo lường hay đưa ra nhận định. Đây là một quá trình nhằm đánh giá
mức độ đạt được những mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể đã đề ra, tương ứng
với chúng là hệ thống các hoạt động, các nguồn lực đã được triển khai và sử
dụng như thế nào? Đối với một dự án, đánh giá là xem xét dự án một cách có hệ
thống để xác định tính hiệu quả, mức độ thành cơng của dự án, tác động xã hội
cũng như các tác động kinh tế - môi trường đối với cộng đồng thụ hưởng (FAO) [56].
Hoạt động đánh giá dự án là một khâu quan trọng, được đánh giá tổng thể
trong quá trình thực hiện dự án, không chỉ thực hiện một lần vào khi dự án kết
thúc mà phải thực hiện trong những giai đoạn quan trọng trước, trong và sau dự
án (Gittinger, 1982)[48]. Nhiều tác giả đề nghị rằng, điều quan trọng phải tiến
hành đánh giá có sự tham gia của các bên có liên quan mà quan trọng là những
người hưởng lợi từ dự án, nhà quản lý dự án [45].


5
Một số tác giả và các tổ chức trên thế giới như: Jim Woodhill và Lisa
Robins [59], Joachim và Heather.M.Grady[52], ARI[44]... đã phân chia hai loại
đánh giá dự án: Đánh giá mục tiêu và đánh giá tiến trình. Đánh giá mục tiêu xem
xét liệu dự án có đạt được mục tiêu đã định hay khơng, nó tập trung vào việc

phân tích các chỉ tiêu, chỉ số đo đạc hiệu quả tác động thu được. Đánh giá tiến
trình là đánh giá mở rộng hơn so với loại đánh giá trên, nó sử dụng tri thức và sự
hiểu biết của nhiều người cùng xem xét nhiều vấn đề của dự án.
Các phương pháp đánh giá dự án cũng được phát triển mạnh mẽ từ những
năm 50, 60 của thế kỷ trước, khi các dự án phát triển cộng đồng ra đời. Các
phương pháp đánh giá bao gồm: Điều tra khảo sát (Survey); Phỏng vấn sâu
(indepth interview); Thảo luận nhóm tập trung (focus group); Bảng câu hỏi
(Questionaire); Họp với những người thụ hưởng (meeting); Nhật ký theo dõi dự
án (Project montitoring diary); Tranh ảnh (Photorgrap); Phương pháp đánh giá
nơng thơn có sự tham gia của người dân (Participatory Rural Apraisal (PRA)).
Những hình thức khuyết khích sự tham gia của cộng đồng như đóng kịch, sắm
vai, bài hát, hội thi...cũng được khuyến khích sử dụng để chính người dân địa
phương tại cộng đồng thụ hưởng thấy được những kết quả cụ thể của dự án.
Theo FAO [47], thì đánh giá về mặt kinh tế thường dùng để phân tích các
lợi ích và chi phí của xã hội, nên các lợi ích và chi phí đó phải được tính trong
suốt thời gian mà chúng cịn có tác dụng, nhất là đối với dự án trồng rừng, phải
sau một khoảng thời gian dài thì chúng mới tạo ra một đầu ra nhất định, đồng
thời lại có những tác động về mơi trường có thể cịn có tác dụng lâu dài hơn nhiều
so với dự án sau khi kết thúc. Vậy thì vận dụng khoảng thời gian nào là đánh giá
thích hợp?
Theo Lyn Squire [47] đã chỉ ra rằng, trong trường hợp các chi phí hoặc lợi
ích mơi trường kéo dài trong tương lai thì các lợi ích và chi phí đó phải được đưa
vào phân tích. Không phải là do dự án đã kết thúc về mặt hành chính mà chúng


6
ta phải bỏ qua các lợi ích và chi phí về môi trường. Tuy nhiên thực tế do vấn đề
tỷ suất triết khấu và lý do muốn giản đơn việc tính tốn đã làm cho nhiều người
chọn các thời hạn phân tích và đánh giá ngắn hơn nhiều, đối với các dự án quản
lý rừng đầu nguồn hoặc trồng rừng thì thời hạn đánh giá phải đủ lớn chừng 15

đến 20 năm để thấy đầy đủ và rõ ràng về các lợi ích về chi phí kinh tế.
UNEP [59] đã xây dựng bản hướng dẫn đánh giá tác động môi trường của
các dự án phát triển. Đây là một phương pháp nghiên cứu chính thức để dự báo
các tác động môi trường của dự án phát triển chủ yếu đang được dự kiến, nhưng
cũng có thể vận dụng để đánh giá những tác động đã qua đối với môi trường.
Việc đánh giá tác động môi trường nhằm trả lời 5 câu hỏi: Điều gì sẽ xẩy ra sau
khi dự án kết thúc? Phạm vi của các biến đổi đó là gì? Các biến đổi thực sự có
phải là vấn đề lớn khơng? Có thể làm gì đối với chúng? Cần phải thông báo cho
những người ra quyết định như thế nào về những việc phải làm?.v.v…
H.M Gregensen và Brooks [59] cho rằng bất cứ khi nào có một sự phát sinh
mới của một dự án như: công ăn việc làm mới, khu vực canh tác mới, sản lượng
mùa màng tăng… thì nhà đánh giá phải xác định phần nào là lợi ích gia tăng của
dự án, chứ khơng phải là các lợi ích thơ. Mặt khác, do các tác động ở quy mơ địa
phương phụ thuộc vào dịng chu chuyển của các nguồn lực thực tế, và việc đánh
giá sẽ dùng các chi phí tiền mặt và thu nhận tiền mặt, nên trên thực tế, đó là một
phần tích hoặc là một đánh giá tài chính chứ khơng phải là một đánh giá kinh tế
mang tinh xã hội, tất cả các tác động có lợi của dự án phải được tính về cả các số
lượng và chất lượng.
1.2 TẠI VIỆT NAM.

1.2.1 Quan niệm về dự án ở Việt Nam.
Dự án như là một tổng thể các hoạt động dự kiến với các nguồn lực và chi
phí cần thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và địa
điểm xác định nhằm tạo ra những kết quả cụ thể để thực hiện những mục tiêu


7
nhất định. Thực hiện một dự án là nhằm tạo ra những điều kiện cải thiện tình
trạng kinh tế và xã hội của cộng đồng mà chúng ta muốn giúp đỡ.
Dự án là một loại đề tài có mục đích ứng dụng xác định, cụ thể về kinh tế

và xã hội. Dự án có những địi hỏi khác đề tài như: đáp ứng một nhu cầu đã được
nêu ra; chịu sự ràng buộc của kỳ hạn và thường là ràng buộc về nguồn lực; phải
thực hiện trong một bối cảnh không chắc chắn [43].
Dự án là một danh từ được dùng tương đối rộng rãi ở nước ta trong những
năm gần đây. Có thể là các dự án do Chính phủ tiến hành, lớn hơn là các dự án
liên Chính phủ, nhỏ hơn là các dự án do một tỉnh, huyện, xã, một tổ chức kinh tế
xã hội làm chủ. Tầm quan trọng của các dự án phụ thuộc vào cấp quản lý, vào
các mục tiêu can thiệp cũng như tổng số vốn tương ứng, thời gian tiến hành [42].
Dự án là một tập hợp các hoạt động theo không gian và thời gian nhằm
đáp ứng một hoặc một số mục tiêu nào đó do con người đưa ra.
Vũ Nhâm có đưa ra mơ hình khái niệm về dự án như sau [28]:

Mục tiêu
phát triển

Mục tiêu
trước mắt

Thời gian
dự án

Hiện tại

Mong muốn


8
Nguyễn Thị Oanh [30] đưa ra 2 định nghĩa về dự án như sau:
- Dự án là sự can thiệp một cách có kế hoạch nhằm đạt một hoặc một số
mục tiêu đã định trước tại một địa bàn và trong một khoảng thời gian nhất định,

có huy động sự tham gia thực sự của những nhân tố và tổ chức cụ thể.
- Dự án là tổng thể những kế hoạch (công việc) nhằm đạt một số mục tiêu
cụ thể trong một khoảng thời gian và khn khổ chi phí nhất định.
Theo Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang [20] dự án được hiểu như một
kế hoạch can thiệp để giúp một cộng đồng dân cư hoặc cá nhân cải thiện điều
kiện sống trên một địa bàn nhất định.
Tuỳ theo lĩnh vực xã hội, đối tượng hoạt động mà dự án đưa ra các mục
tiêu cụ thể cho riêng mình. Trong xã hội hiện nay có rất nhiều loại dự án khác
nhau như dự án về lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, y tế.v.v…
Chỉ riêng về lĩnh vực lâm nghiệp tuỳ theo mục tiêu mà có các dự án khác
nhau. Hiện nay trong lâm nghiệp có rất nhiều dự án với các mục tiêu khác nhau:
dự án trồng 5 triệu ha rừng, dự án trồng rừng phòng hộ đầu nguồn Sông Đà, dự
án trồng rừng nguyên liệu giấy nhà máy giấy Bãi Bằng…
Nhìn chung các dự án đều có các can thiệp nhằm đem lại những thay đổi
trong nhận thức và hành động tập thể của cộng đồng. Nhờ đó các lực lượng bên
trong và bên ngồi cộng đồng quyết tâm thực hiện các kế hoạch hành động nhằm
đem lại một sự thay đổi về điều kiện hay mơi trường sống. Khi có dự án các
nhận thức, năng lực, kỹ năng tổ chức, các hoạt động tập thể được nâng cao, tạo
cơ sở cho việc hình thành những dự án mới. Do đó tình trạng xã hội, mơi trường
của cộng đồng lại được cải thiện ở mức cao hơn.
Từ các ý kiến trên có thể hiểu dự án như sau:
"Dự án là một tập hợp các hoạt động có liên quan đến nhau, nhằm đạt một
hoặc một số mục tiêu nào đó, có dự kiến các nguồn lực và chi phí cần thiết được


9
phân chia bố trí theo một thời điểm khơng gian và thời gian nhất định nhằm đạt
được kết quả như mục tiêu đã nêu."
Bất kỳ một dự án nào khi đi vào hoạt động cũng nhằm tạo ra những điều
kiện cải thiện kinh tế, xã hội, môi trường mà cộng đồng cần. Đồng thời phát huy

tối đa sự tham gia của người dân trong cộng đồng, giúp cộng đồng xác định
những nhu cầu đích thực để giải quyết. Dự án phải là điểm hội tụ giữa ý định
nhu cầu và khả năng.
Theo Vũ Nhâm [28] bất kỳ một dự án nào khi đi vào hoạt động để đạt
được mục tiêu của mình nó cần đảm bảo các u cầu cơ bản sau: tính khoa học,
tính thực tiễn, tính pháp lý, tính thống nhất.
Những yêu cầu trên là cơ sở quan trọng để dự án có thể triển khai tại cộng
đồng. Những vấn đề này sẽ được đề tài vận dụng trong việc đánh giá tác động
của dự án đến phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường của khu vực nghiên
cứu.


10
KẾ HOẠCH SẢN XUẤT NGÀNH

CÁC CHƯƠNG TRÌNH

CÁC CHƯƠNG TRÌNH

CÁC CHƯƠNG

PHÁT TRIỂN LIÊN

PHÁT TRIỂN CỦA

TRÌNH HỖ TRỢ

KẾT

NGÀNH


PHÁT HIỆN NHẬN BIẾT VÀ XÁC
ĐỊNH DỰ ÁN

-

Thu thập tư liệu.

-

Phân tích, đề xuất phương án.

PHÂN TÍCH TIẾP

XÂY DỰNG DỰ ÁN

HỒN THÀNH NGHIỆM

PHÂN TÍCH VÀ LẬP DỰ ÁN

THU, ĐÁNH GIÁ, TỔNG

-

Thiết kế nội dung.

KẾT KINH NGHIỆM, GIẢI

-


Nghiên cứu khả thi

THỂ

-

Soạn thảo chi tiết

THỰC HIỆN D.ÁN,
GIÁM SÁT KIỂM
TRA

THỰC HIỆN
DỰ ÁN

XÉT DUYỆT: DUYỆT LẠI,
CÂN NHẮC, ĐÁNH GIÁ KHẢ
THI, PHÊ DUYỆT

HOẠT HỐ VÀ TỔ
CHỨC

Hình 1.1: Khái qt chu trình quản lý dự án


11
Khi khoa học kỹ thuật phát triển, chúng ta đã nhận thấy ảnh hưởng của các
dự án không những đối với việc phát triển kinh tế mà cịn có tác dụng về mặt xã
hội và môi trường.
1.2.2. Quan niệm về đánh giá dự án ở Việt Nam.

Đánh giá dự án là nhằm mục tiêu xác định những ảnh hưởng dự án hoặc
một hoạt động nào đó của dự án đến môi trường xung quanh. Trên cơ sở những
kết quả thực hiện của dự án, những thay đổi trên lĩnh vực kinh tế xã hội, môi
trường vào các thời điểm trước và sau khi dự án triển khai. Việc đánh giá cần
xác định rõ nguyên nhân của sự thay đổi, mức độ thay đổi từ đó xác định những
tác động cơ bản của dự án đến sự thay đổi trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
môi trường của vùng dự án hoặc trên một lĩnh vực nhất định nào đó.
Theo Vũ Nhâm [28] việc đánh giá dự án cần chuẩn bị một số bước sau:
+ Bước 1: Xem xét các mục tiêu dự án, thực hiện các hoạt động của dự án.
+ Bước 2: Xác định lý do đánh giá.
+ Bước 3: Xác định các vấn đề đánh giá.
+ Bước 4: Xác định ai sẽ thực hiện đánh giá.
+ Bước 5: Xác định các chỉ số trực tiếp và gián tiếp, định lượng và định
tính trong đánh giá.
+ Bước 6: Xác định các nguồn thông tin cần thu thập cho đánh giá.
+ Bước 7: Xác định yêu cầu chuyên môn của người đánh giá.
+ Bước 8: Lập kế hoạch thời gian tiến hành đánh giá.
+ Bước 9: Xác định ai sẽ thu thập thông tin.
+ Bước 10: Phân tích trình bày kết quả.
Để đảm bảo tính bền vững của dự án, khi đánh giá dự án cần quan tâm
đánh giá những chỉ tiêu sau:


12
KINH TẾ

Lợi ích của
các đối tác

XÃ HỘI


MƠI TRƯỜNG

Mỗi dự án khi đánh giá đều có phương pháp đánh giá riêng cho mình để
đạt được mục tiêu đề ra.
Năm 1985 trong quy định về điều tra sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ mội trường. Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) có nêu ra
trong xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của các cơng trình xây dựng lớn hoặc
các cơng trình phát triển kinh tế xã hội quan trọng, đã tính và đưa vào nội dung
các cơng trình việc đánh giá hiệu quả của dự án. Có thể nói đây là qui định quan
trọng mở ra một thời kỳ mới, và cũng từ đây công tác đánh giá tác động (hiệu
quả) đã trở thành một yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong sự nghiệp
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, xin được điểm qua những nghiên cứu
đánh giá của các nhà khoa học trong những năm gần đây như sau:
- Năm 1990 Per Hstahl và Heine Krekula đã tiến hành đánh giá hiệu quả
kinh tế cho hoạt động kinh doanh rừng Bạch đàn trồng làm nguyên liệu giấy tại
khu công nghiệp giấy Bãi Bằng - Phú Thọ. Các chỉ tiêu kinh tế NPV, BCR, IRR
đã được đề cập và đành giá kỹ, cịn các chỉ tiêu về mơi trường sinh thái và xã hội
nhân văn mới chỉ được đề cập đến một cách chung chung chưa đi vào phân tích sâu.
Cơng tác đánh giá hiệu quả dự án trên lĩnh vực nông lâm nghiệp có sự
tham gia của cộng đồng bằng phương pháp RRA, PRA thường được áp dụng
không những trong quy hoạch sử dụng đất mà cả trong đánh giá tác động của dự
án. Phương pháp PRA là phương pháp tiếp cận và cũng là phương pháp học hỏi


13
cùng với người dân, từ người dân và bằng người dân về đời sống, điều kiện nông
thôn [37]. Các điều kiện để thực hiện tốt phương pháp PRA theo nghiên cứu của
Nguyễn Thị Dơn (1999) đó là: Cơ chế chính sách của Nhà nước cấp cho phép sử
dụng phương pháp có sự tham gia của người dân, các thành viên trong nhóm

PRA phải hiểu biết nhau, cảm nhận thoải mái và thân thiện, các thành viên trong
nhóm phải gặp gỡ người dân, tạo mối quan hệ qua lại để hòa nhập học hỏi phong
tục tập quán, cách sống, thói quen; Cần phải giải thích rõ để người dân nắm được
mục đích và u cầu của cơng việc và tham gia tích cực vào các hoạt động đó.
Trước khi thực hiện PRA phải thu thập và nghiên cứu kỹ các tài liệu có sẵn của
địa phương, xây dựng kế hoạch, hệ thống mẫu, biểu, phiếu điều tra cơ bản...
Năm 2002, Phạm Xuân Thịnhđã thực hiện đề tài “Đánh giá tác động của
dự án KfW1 tại xã Tân Hoa, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”[36]. Kết quả đã
đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội của người dân, tác động của dự án đến môi
trường vùng dự án.
Năm 2003, Lại Thị Nhu thực hiện đề tài “Đánh giá tác động của dự án trồng
rừng nguyên liệu ván dăm tại công ty Lâm nghiệp Thái Nguyên” đề tài đã tập trung
phân tích bối cảnh ra đời của dự án, đánh giá quá trình thực hiện dự án và bước đầu
đánh giá tác động của dự án đến phát triển kinh tế, xã hội và môi trường của vùng
dự án [29].
Thực chất của đánh giá tác động dự án là một quá trình phân tích và so
sánh sự khác biệt về giá trị các chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi trường ở các thời
điểm khác nhau như trước và sau khi thực hiện dự án. Đồng thời có thể so sánh
giá trị các chỉ tiêu ấy ở vùng có dự án và khơng có dự án.
Hiện nay, đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, mơi trường nói chung và trong
Lâm nghiệp nói riêng, đã được chú ý và đầu tư một cách đáng kể. Các kết quả
nghiên cứu trong giai đoạn này đã phần nào thể hiện được hiệu quả sản xuất kinh
doanh một cách tổng hợp. Tuy nhiên do công tác đánh giá hiệu quả kinh tế, xã


14
hội, mơi trường trong sản xuất, kinh doanh nói chung và ngành Lâm nghiệp nói
riêng cịn rất mới mẻ, đang ở giai đoạn đầu. Hơn thế vấn đề lại phức tạp, thiếu
hụt về thông tin và phương pháp luận, điều đó làm cho kết quả nghiên cứu thiếu
đồng bộ, chưa toàn diện và chưa đều khắp. Đặc biệt, các dư án có vốn đầu tư

nước ngồi hoạt động trong lĩnh vực Lâm nghiệp cũng rất cần được đánh giá làm
cơ sở để đề xuất chính sách, cải thiện mơi trường đầu tư, phát huy mọi nguồn lực
trong công cuộc đổi mới đất nước.
1.3. GIỚI THIỆU VỀ DỰ ÁN KfW1.

1.3.1. Mục tiêu:
Trồng thêm 16.556 ha trên địa bàn 37 xã thuộc 6 huyện của 2 tỉnh Lạng
Sơn và Bắc Giang, nhằm góp phần cải thiện điều kiện sống của người dân trồng
rừng, cải thiện điều kiện sinh thái trong khu vực và đảm bảo duy trì nguồn nước
cho sản xuất và sinh hoạt của người dân địa phương.
1.3.2. Nhiệm vụ:
Các hoạt động của dự án nhằm nâng cao năng lực của người dân địa
phương trong một số lĩnh vực sau:
- Kỹ thuật trồng, chăm sóc và bảo vệ các lồi cây lâm nghiệp, kỹ năng lựa
chọn các loài cây trồng.
- Phương pháp quy hoạch và sử dụng hợp lý đất đại.
- Cách nhìn nhận về tầm quan trọng của các tài nguyên trong khu vực cư trú.
- Cách quản lý kinh tế hộ thơng qua hệ thống tín dụng và quỹ tiết kiệm.
- Nhận thức về sự cân bằng giới và vai trò của người phụ nữ trong các
hoạt động dự án cũng như các hoạt động sản xuất, xã hội khác.
Các hoạt động của dự án cũng nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ địa
phương về cách thức lựa chọn vùng dự án, các phương pháp tiếp cận trong quá
trình triển khai xây dựng dự án, các phương pháp quy hoạch sử dụng đất vi mô.


15
1.3.3. Những kết quả tại Lạng Sơn.
a. Về trồng rừng: đã trồng được 10.344 ha, bằng 98,42% mục tiêu của dự án, chi
tiết ở từng huyện như sau:
Biểu 1.1: Kết quả trồng rừng của dự án tại Lạng Sơn

STT
1

Đơn vị
Toàn tỉnh

Mục tiêu (ha)
10.511

Đã trồng (ha)
10.344

Tỷ lệ (%)
98,42

2

Chi Lăng

3.334

3.156

94,69

3

Cao Lộc

2.682


2.632

92,36

4

Lộc Bình

1.300

1.954

109,69

5

Đình Lập

1.393

2.602

102,20

Qua biểu trên cho thấy 2 huyện Đình Lập và Lộc Bình đều thực hiện vượt
mục tiêu đề ra, cịn 2 huyện Chi Lăng và Cao Lộc thực hiện trên 90% mục tiêu.
Trong đó, xã trồng được nhiều nhất là xã Bính Xá - Đình Lập (869,76 ha) và
Vân An - Chi Lăng (812,47 ha). Xã trồng được ít nhất là xã Thụy Hùng - Cao
Lộc (102,75 ha) và xã Sao Mai – Chi Lăng (110,35 ha), hai xã này đã trồng

không đạt theo quy hoạch và kế hoạch. Nguyên nhân chính thuộc về nhận thức
của người dân cịn thấp và năng lực của cán bộ địa phương trong việc vận động
dân chưa được tốt.
b. Về số lượng hộ gia đình tham gia dự án: đây là một chỉ tiêu phản ánh tính xã
hội của nghề rừng. Trong một chừng mực nhất định, chỉ tiêu số lượng hộ tham
gia có ý nghĩa đảm bảo cho rừng trồng bền vững, có hiệu quả xã hội ổn định
hơn. Trong một thôn bản, một xã diện tích trồng rừng tuy nhiều nhưng chỉ tập
trung vào một số ít hộ gia đình, sẽ dễ tạo ra tình trạng khơng cơng bằng xã hội và
khả năng bảo vệ, kinh doanh rừng lâu dài sẽ khó khăn. Nghề rừng địi hỏi tính
cộng đồng cao hơn so với các hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp khác: Vừa


16
phải trồng tập trung, vừa phải đảm bảo có nhiều người tham gia. Đối với chỉ tiêu
này đạt được kết quả như sau:
Biểu 1.2: Số lượng thôn tham gia dự án tại Lạng Sơn
STT

Đơn vị

Số thơn
tồn xã

Số thơn

Số thơn

Tỷ lệ số

Tỷ lệ số


đăng ký

thực tế

thơn đăng

thơn thực

tham gia

đã trồng

ký/ tồn xã

tế/ đăng ký

A

B

1

2

3

4=2/1

5=3/2


1

Tồn tỉnh

225

160

167

71%

104%

2

Chi Lăng

77

58

60

75%

103%

3


Cao Lộc

55

41

41

75%

100%

4

Lộc Bình

42

30

33

71%

110%

5

Đình Lập


51

31

32

61%

103%

Số lượng các thôn bản tham gia trồng rừng vượt chỉ tiêu so với số lượng
đã đăng ký. Trong số các xã tham gia thì chỉ có huyện Đình Lập là có 61% số
thơn tham gia, cịn các huyện khác thì từ 71% - 75% số thôn tham gia dự án. Số
lượng hộ dân tham gia dự án trên toàn tỉnh Lạng Sơn được thể hiện ở biểu 1.3
dưới đây.
Biểu 1.3: Số lượng hộ dân tham gia dự án tại Lạng Sơn
Tổng số hộ
Số hộ
trong các
đăng ký
thôn tham gia tham gia

Số hộ
thực tế
đã trồng

Tỷ lệ số hộ
Tỷ lệ số
đăng ký/ hộ thực tế/

tổng số
đăng ký

STT

Đơn vị

A
1

B
Tồn tỉnh

1
8.987

2
8.550

3
8.084

4=2/1
95%

5=3/2
95%

2


Chi Lăng

3.828

3.171

2.711

83%

85%

3

Cao Lộc

2.462

2.682

2.206

109%

82%

4

Lộc Bình


1.300

1.300

1.488

100%

114%

5

Đình Lập

1.397

1.393

1.679

100%

121%


17
Hầu hết các hộ đã đăng ký đều tham gia trồng rừng, một số huyện do bổ
sung thêm thôn bản nên số hộ thực trồng cao hơn số hộ dự kiến trong kế hoạch.
Riêng đối với huyện Cao Lộc, trong q trình đăng ký tham gia thì thêm 2 thơn ở
xã Hồng Đồng nhưng đến khi thực hiện thì lại bớt 2 thôn ở xã Thụy Hùng.

Trong tổng số 167 thơn tham gia dự án có đến 140 thơn có tỷ lệ hộ gia
định tham gia dự án trên 70% tổng số hộ. Rừng trồng liền vùng, liền khoảnh, tạo
thành một lâm phần lớn, đảm bảo tính xã hội của nghề rừng và cộng đồng thôn
bản sẽ phối hợp tốt trong quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng bền vững. Ở những
thơn bản này dự án có thể coi là thành cơng tồn diện trên các mục tiêu chính.
c. Tiến độ trồng rừng: Năm sau được trồng cao hơn năm trước rất nhiều, kết quả
trồng rừng được thể hiện qua biểu sau:
Biểu 1.4: Tiến độ trồng rừng qua các năm
Năm

Diện tích trồng (ha)

Tổng cộng:
1996
1997
1998
1999
2000

10.344,75
339,36
1.590,01
2.301,03
4.133,99
1.980,36

Tỷ lệ so với kết
quả 5 năm (%)
100
3,3

15,3
22,2
40
19,1

Diện tích trồng từng năm
4133.99

4500
4000
3500
3000
2500
2000
1500
1000

2301.03

1980.36

1590.01

339.36

500
0
1996

1997


1998

1999

2000

Hình 1.2: Biểu đồ thể hiện tiến độ trồng rừng qua các năm


18
Năm đầu trồng thử nghiệm nhằm rút ra kinh nghiệm, những năm sau tốc
độ trồng rừng tăng rất nhanh, năm cuối cùng phần còn lại của chỉ tiêu chung đã
được điều chỉnh.
d. Cơ cấu cây trồng trong dự án ngày càng đa dạng: năm đầu chỉ trồng 3 loài
cây, cuối cùng tồn bộ rừng dự án đã có 6 lồi cây đó là: thơng mã vĩ, hồi, trám,
sa mộc, keo, vối thuốc. Những lồi cây được lựa chọn thích hợp với điều kiện
lập địa tại chỗ và khả năng tiêu thụ trên thị trường. Các loài cây này được trồng
trên vùng dự án như sau:
Biểu 1.5: Các loài cây trồng tham gia dự án
STT

Lồi cây

Diện tích (ha)

Tỷ lệ (%)

8.941,06


86,3

1

Thơng mã vĩ

2

Keo

100,37

1,0

3

Sa mộc

119,49

1,2

4

Hồi

777,83

7,5


5

Trám

359,42

3,5

6

Vối thuốc

46,58

0,5

Tổng cộng:

10.344,75

100

Việc trồng rừng hỗn lồi khơng những có giá trị kinh tế cao, an tồn trong
kinh doanh mà cịn có ý nghĩa rất lớn đối với mơi trường sinh thái, bảo vệ rừng.
Diện tích rừng thơng mã vĩ chiếm đa số, nguyên nhân chủ yếu là vùng quy hoạch
trồng rừng của dự án có rất nhiều đất trống đồi trọc trạng thái Ia, chỉ có cây
thơng mã vĩ mới có thể sống và phát triển được, cịn cây hồi, trám thì chỉ trồng
được trên đất tốt vẫn cịn tính chất đất rừng. Chính vì vây, các lồi cây thường
được trồng độc lập và thành từng vùng riêng biệt. Với tỷ lệ đa dạng loài như trên
chưa thể có được ý nghĩa của rừng hỗn lồi.



19
e. Chất lượng rừng trồng: rừng trồng đã được nghiệm thu và đánh giá là rất tốt,
đạt yêu cầu của dự án. Hàng năm tỷ lệ cây sống trong nghiệm thu trồng rừng đều
đạt trên 90%, sau hai đến ba năm nghiệm thu chăm sóc vẫn đo đếm thấy mật độ
cây còn tồn tại và sinh trưởng phát triển tốt không dưới 80%. Kết quả nghiệm
thu vào tháng 8 năm 2001 về chất lượng rừng trồng từng loài được thể hiện qua
bảng sau:
Biểu 1.6: Kết quả nghiệm thu chất lượng rừng trồng
STT

Lồi cây
Tổng cộng:
Tỷ lệ %

Tốt

TB

Xấu

kém

10.104,10 ha

215,05 ha

25,60 ha


0

97,7%

2,1%

0,2%

1

Thơng mã vĩ

8.941,06

2

Keo

3

Sa mộc

83,89

4

Hồi

777,83


5

Trám

301,32

6

Vối thuốc

100,37
35,60

32,50

25,60

46,58

Qua biểu trên có thể nhận thấy rừng sinh trưởng, phát triển tốt chiếm tỷ lệ
rất cao, rừng trung bình và xấu khơng đáng kể.
Dự án KfW1 là một dự án viện trợ trồng rừng có quy mơ lớn lần đầu tiên
triển khai ở tỉnh Lạng Sơn. Dự án này thực chất là một dự án của Việt Nam xây
dựng trên nền tảng: Chiến lược phát triển rừng của Việt Nam, các quy định của
pháp luật Việt Nam, các quy trình cơng nghệ và cơ chế quản lý Việt Nam [5].
Tuy nhiên, dự án có một số yếu tố nước ngồi (chủ yếu là: có hợp tác về tài
chính, hỗ trợ về quản lý, giám sát…) nên có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, ngay từ đầu dự án xác định rõ và công bố rộng rãi về quyền lợi
và nghĩa vụ của các hộ nông dân tham gia trồng rừng.



20
- Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho diện tích trồng rừng
dự án theo luật đất đai Việt Nam.
- Được hưởng sự hỗ trợ đầy đủ về phân bón, cây con và tiền nhân cơng
theo định mức do bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quy định.
- Được hưởng các dịch vụ hỗ trợ do dự án tiến hành như thảo luận về định
hướng sử dụng đất trong thôn bản, chủ động lựa chon cây trồng, tập huấn kỹ
thuật và kinh nghiệm quản lý kinh doanh rừng, tham quan học tập…
- Được hưởng toàn bộ hoa lợi do rừng dự án mạng lại sau khi đã làm tròn
nghĩa vụ với Nhà nước theo luật pháp Việt Nam quy định.
* Hộ nông dân khi tự nguyện tham gia dự án phải có nghĩa vụ:
- Chủ động tham gia cùng cộng đồng thôn bản khi lựa chọn khu vực trồng
rừng và loài cây trồng, để đảm bảo rừng dự án ổn định, bền vững và có hiệu quả
kinh tế cao. Diện tích trồng rừng dự án khơng mâu thuẫn với các nhu cầu sử
dụng đất khác như rừng phòng hộ, đất trồng cây ăn quả, đất xây dựng các cơng
trình kết cấu hạ tầng… và cũng khơng có tranh chấp về quyền quản lý.
- Thực hiện nghiêm chỉnh quy trình trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng do dự
án hướng dẫn và giám sát.
- Từng hộ gia đình và cộng đồng thơn bản có biện pháp cụ thể và hiệu quả
nhằm bảo vệ tốt diện tích rừng trồng dự án cũng như các diện tích có rừng khác
trong khu vực. Trong đó đặc biệt lưu ý khắc phục nạn thả rơng trâu bị, đốt rừng
làm nương, đốt đồng cỏ để chăn thả…
Thứ hai, dự án rất coi trọng tinh thần chủ động và tự nguyện cũng như
trách nhiệm của các bên liên quan; đồng thời nhấn mạnh chức năng giám sát của
cơ quan quản lý dự án các cấp.
- Các hộ nơng dân cần hiểu rõ mục đích yêu cầu của dự án, nắm chắc
quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia, chủ động và tự nguyện tham gia
đầy đủ các hoạt động dự án. Trong đó, đặc biệt lưu ý việc tự giác điều chỉnh đất



21
đai, trao đổi nương rẫy cũ để có được các lô trồng rừng liền vùng, liền khoảnh
cho mỗi hộ khoảng từ 0,5 – 2 ha tham gia dự án, để tránh tình trạng manh mún,
phân tán và tranh chấp.
Mọi người đều tích cực tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện quy ước
bảo vệ rừng thôn bản cũng như lập kế hoạch sử dụng lao động gia đình để có thể
hỗ trợ, đổi cơng với nhau, đảm bảo thực hiện trồng rừng đúng thời vụ và đạt tỷ lệ
sống cao. Ngay cả trong việc cung cấp cây con, phân bón, nghiệm thu thành quả
lao động, trả cơng lao động, dự án cũng có biện pháp thích hợp để người nông
dân tham gia được tôn trọng và được trao quyền chủ động. Bởi vì mục tiêu của
dự án khơng chỉ đơn thuần giúp nơng dân trồng rừng mà cịn thơng qua các hoạt
động phổ cập, cùng làm quy hoạch thảo luận xác định mức độ che phủ của rừng
cần thiết trong thơn bản, lựa chọn vùng trồng rừng, lồi cây trồng, tính tốn hiệu
quả kinh tế cây trồng, sắp xếp sử dụng lao động gia đình trong thời vụ, trong
năm, bàn bạc cách thức phối hợp cộng đồng trong công việc bảo vệ rừng, chăn
dắt trâu bị, tính tốn số tiền trong tài khoản cá nhân, giao dịch với ngân hàng…
Dự án mong muốn tăng thêm năng lực làm kinh tế gia đình trong nền kinh tế thị
trường nói chung, nâng cao trình độ dân trí, ý thức tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của từng đơn vị kinh tế gia đình. Khi trồng rừng và các cây lâu năm khác, người
nơng dân khơng chỉ biết quan tâm đến lợi ích kinh tế mà cịn biết tính tốn đến
lợi ích sinh thái, quan tâm đến tính cân đối, tính tốn diện tích có rừng che phủ ở
một mức độ hợp lý. Có như vậy thì diện tích rừng và cây lâu năm mới có triển
vọng bền vững, ổn định và đưa lại hiệu quả kinh tế mong muốn, hỗ trợ tích cực
cho sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt hàng ngày của từng hộ gia đình
cũng như cộng đồng thơn bản.
- Bộ máy chính quyền địa phương vùng dự án cần coi dự án là một cơ hội
đầu tư quý báu để phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn, cần tập trung cán bộ chỉ
đạo, phân công trách nhiệm cụ thể, huy động sức mạnh các đoàn thể quần chúng



22
trong quá trình vận động và triển khai. Các cấp chính quyền địa phương có vai
trị quyết định khi điều chỉnh quản lý đất đai, xử lý dứt điểm các tranh chấp để
trồng rừng dự án phù hợp với luật pháp, phù hợp với chương trình phát triển kinh
tế - xã hội lâu dài của địa phương cũng như đảm bảo tính chất bền vững của hệ
thống rừng trồng.
- Ban quản lý dự án các cấp cần làm cho người dân hiểu rõ các khía cạnh
có liên quan đến dự án trước khi họ tự nguyện quyết định tham gia. Hướng dẫn
và trợ giúp người dân xây dựng kế hoạch gia đình, phối hợp trong thơn bản để
từng bước hồn thành tốt những công việc của dự án đúng thời vụ và có chất
lượng cao.
Ngồi ra một vai trị rất quan trọng của Ban quản lý dự án các cấp là giám
sát chặt chẽ từng công việc của dự án. Mục đích của việc giám sát thường xuyên
và chặt chẽ nhằm mang lại lợi ích tối đa và tồn diện cho các hộ nông dân tham
gia dự án trong điều kiện cho phép.
Thứ ba, mức độ đầu tư tương đối đủ và đồng bộ cho các hoạt động liên
quan đến công việc trồng rừng như quy hoạch sử dụng đất thôn bản, điều tra lập
địa, đo đạc thiết kế, làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bìa đỏ),
tập huấn kỹ thuật giám sát, cung ứng cây con đủ tiêu chuẩn, kiểm tra từng công
đoạn chuẩn bị trồng, chăm sóc, nghiệm thu…
Đầu tư đồng bộ là một ưu điểm nổi bật của dư án viện trợ. Đây là một
cách làm hay, dễ vận dụng, hiệu quả lớn. Tuy nhiên đầu tư cao cũng kèm theo
các yêu cầu rất cao về trình tự, thủ tục, kỹ thuật, chất lượng rừng trồng trong nhiều
năm liên tục cùng với chất lượng quản lý, bảo vệ rừng dự án trước mắt và lâu dài.
Đầu tư đầy đủ yêu cầu phải giám sát chặt chẽ, thường xun. Có như vậy thì chất
lượng rừng mới tốt và cuối cùng lợi ích đó người dân được hưởng trọn vẹn.
Về chi phí, tồn bộ nguồn kinh phí theo hiệp định đã ký giữa hai Chính
phủ sẽ đầu tư như sau:



×