Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình “3 giảm 3 tăng” tại huyện chợ mới tỉnh an giang năm 2004-2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 74 trang )

LÊ BÁ PHÚC
MSSV: DPN010740

ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH
“3 GIẢM 3 TĂNG” TẠI HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH AN GIANG NĂM 2004-2005
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Nguyễn Văn Minh
Ks. Trần Văn Khải
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN

Tháng 6. 2005
ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH
3 GIẢM 3 TĂNG TẠI HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH AN GIANG NĂM 2004-2005
Do sinh viên: LÊ BÁ PHÚC thực hiện và đệ nạp
Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt
Long Xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2005
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Nguyễn Văn Minh
Ks. Trần Văn Khải
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm với tên đề tài:
ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH “BA GIẢM
BA TĂNG” TẠI HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG NĂM 2004 -2005


Do sinh viên: LÊ BÁ PHÚC
Thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng ngày:
Luận văn đã được hội đồng đánh giá ở mức:
Ý kiến của Hội đồng:






Long xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2005
DUYỆT Chủ Tịch Hội đồng
BAN CHỦ NGHIỆM KHOA NN-TNTN
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
Họ và tên: LÊ BÁ PHÚC
Ngày tháng năm sinh: 11-02-1983
Nơi sinh: Xã Trung Nhứt, huyện Thốt Nốt, tỉnh Hậu Giang.
Con Ông: LÊ QUANG NHƯỜNG
và Bà: LÊ KIM NGA
Địa chỉ : Ấp Phúc Lộc II, xã Trung Nhất, huyện Thốt Nốt, TP Cần Thơ
Đã tốt nghiệp phổ thông năm 2001 tại Trường Phổ Thông Trung Học Thốt
Nốt- huyện Thốt Nốt- tỉnh Cần Thơ.
Vào Trường Đại học An Giang năm 2001, học lớp ĐH2PN2 khoá II, thuộc
Khoa Nông Nghiệp và Tài Nguyên Thiên Nhiên và đã tốt nghiệp kỹ sư ngành Phát
Triển Nông Thôn năm 2005.
LỜI CẢM TẠ
Kính dâng lên đấng sinh thành lòng biết ơn chân thành và thiêng liêng nhất đã
nuôi dưỡng và dạy dỗ con để có ngày hôm nay.
Kính gửi lời cảm tạ và lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Văn Minh, thầy
Trần Văn Khải đã tận tình dạy dỗ và và hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập

cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Chân thành cảm tạ cô Nguyễn Thị Thu Hồng, cô Nguyễn Thị Hạnh Chi chủ
nhiệm lớp ĐH2PN2 đã quan tâm, giúp đỡ và hướng dẫn trong suốt quá trình học tập
tại trường.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn em chân thành cảm ơn:
- Thầy Nguyễn Phú Dũng, thầy Trịnh Hoài Vũ cùng tập thể các Thầy Cô trong
khoa Nông Nghiệp- TNTN đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn
thành luận văn này.
- Các bạn Trịnh Tấn Đạt, Nguyễn Bá Lộc, Trần Thanh Hùng, Văn Công Của,
Lê Phước Sang, Trần Rước Đêm cùng tập thể các bạn lớp ĐH2PN2 đã nhiệt tình giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình điều tra và phỏng vẫn nông dân
- Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật An Giang đã giúp đỡ và cung cấp các tư liệu về
chương trình 3G3T.
- Chú Dũng trưởng Trạm Khuyến Nông huyện Chợ Mới, cô Châu phó chủ tịch
uỷ ban nhân dân xã Long Điền A, cùng các anh kỹ thuật viên nông nghiệp các xã Mỹ
An, Long Điền A, Long Kiến, Kiến An, Nhơn Mỹ, Mỹ Hội Đông đã giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Trong quá trình thực hiện đề tài này do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên
chắc chắn bài luận văn sẽ có những sai sót, kính mong các Thầy Cô và Hội Đồng
đóng góp ý kiến để bài luận văn của em được hoàn thiện hơn, em chân thành cảm ơn.
i
Lê Bá Phúc. 2005. Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình “3 giảm 3 tăng” tại
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang năm 2004-2005. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành
Phát Triển Nông Thôn. Khoa Nông Nghiệp- TNTN, Đại Học An Giang. Giáo viên
hướng dẫn: Ths. Nguyễn Văn Minh, Ks. Trần Văn Khải
TÓM LƯỢC
Chương trình “3 giảm 3 tăng” (3G3T) là kết quả của những thành tựu trong kỹ
năng canh tác lúa: giảm giống, giảm phân, giảm thuốc bảo vệ thực vật, giúp nông dân
loại bỏ những phương pháp canh tác truyền thống không còn phù hợp và tránh những
lãng phí không đáng có nhằm nâng cao lợi nhuận cho người trồng lúa. Ở An Giang

chương trình được triển khai từ vụ Hè Thu 2001 đã mang lại những kết quả tương đối
thắng lợi nhưng vẫn còn một số ý kiến trong nông dân cho rằng áp dụng 3G3T chỉ có
thể giảm giống, giảm thuốc BVTV mà không giảm được phân bón đặc biệt là phân
đạm. Vì vậy mục đích của đề tài nhằm đánh giá lại một lần nữa và củng cố thêm kết
quả của chương trình 3G3T. Bằng phương pháp phỏng vấn nông dân với 120 phiếu
điều tra (60 hộ áp dụng 3G3T và 60 hộ không áp dụng 3G3T) và tính các giá trị trung
bình, tối đa, tối thiểu trên phần mềm Excel, kết quả cho thấy: Lượng giống gieo sạ của
nông dân áp dụng 3G3T giảm từ 90-98 kg/ha/vụ, lượng phân đạm giảm từ 22-32,20
kg/ha/vụ, số lần phun thuốc trừ sâu giảm trung bình từ 0,9-0,2 lần/vụ, số lần phun
thuốc trừ bệnh giảm trung bình từ 0,5-0,75 lần/vụ, chi phí sản xuất giảm từ 811.000
đ/ha/vụ, năng suất tăng từ 0,12-0,38 tấn/ha/vụ, giá bán tăng từ 60-90 đ/kg, lợi nhuận
tăng từ 1.800.000- 2.300.000 đ/ha/vụ
Chương trình 3G3T đã thực sự mang lại hiệu quả cho nông dân cụ thể là nông
dân tại huyện Chợ Mới. Đây là một chủ trương đúng đắn giúp nông dân hạ giá thành
và tăng lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp nên cần được phát huy và nhân rộng
đúng như ý nghĩa của nó.
ii
MỤC LỤC
Nội dung Trang
CẢM TẠ i
TÓM LƯỢC ii
MỤC LỤC iii
DANH SÁCH BẢNG v
DANH SÁCH HÌNH vi
Chương 1 GIỚI THIỆU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở của chương trình 3G3T 4
2.1.1. Chương trình “Quản lý dịch hại tổng hợp- IPM” 4

2.1.1.1 IPM là gì? 4
2.1.1.2. Các đặc trưng của IPM 6
2.1.1.3. Các nguyên lý và nguyên tắc của IPM 7
2.1.1.4. Các yêu cầu của IPM 8
2.1.1.5. Các biện pháp trong IPM 8
2.1.2 Chương trình FPR. 20
2.1.3. Quản lý dinh dưỡng tổng hợp. 21
2.1.4. Thâm canh tổng hợp 21
2.2. Chương trình “Ba Giảm Ba tăng” 23
Chương 3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30
3.1. Phương tiện 30
3.2. Phương pháp 30
3.2.1 Thu thập số liệu thứ cấp 30
3.2.2. Chọn địa điểm điều tra 30
3.2.3. Phương pháp điều tra 30
3.2.4. Các chỉ tiêu theo dõi 30
3.2.4.1. Ba giảm 30
3.2.4.2. Ba tăng 31
3.3. Xử lý số liệu 31
Chương 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN 32
4.1. Mô tả điểm nghiên cứu 32
4.2. Phân bố mẫu điều tra 34
4.1 Thông tin chung về nông hộ 34
4.1.1. Độ tuổi nông dân 34
4.1.2 Diện tích canh tác 35
4.1.3. Nguồn cung cấp thông tin về 3G3T cho nông dân 37
4.1.4. Những lý do để nông dân áp dụng và không áp dụng 3G3T 39
4.2 Thuận lợi của chương trình 3G3T 41
4.2.1. Giảm yếu tố đầu vào 41
iii

4.2.1.1 Giảm lượng lúa giống 41
4.2.1.2. Giảm lượng phân đạm (N) 44
4.2.1.3. Giảm số lần phun thuốc trừ sâu 46
4.2.1.4. Giảm số lần phun thuốc bệnh 47
4.2.1.5. Giảm chi phí nhờ áp dụng 3G3T 48
4.2.2. Tăng năng suất và lợi nhuận 49
4.2.2.1 Tăng năng suất 49
4.2.2.2. Tăng chất lượng 50
.2.2. Tăng lợi nhuận 51
Chương 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 53
5.1. Kết luận 53
5.2. Đề nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
PHỤ CHƯƠNG pc-1

iv
DANH SÁCH BẢNG
Bảng
số
Tựa bảng Trang
1 Công thức bón phân chung cho vụ Hè Thu và Thu Đông 11
2 Công thức bón phân chung cho vụ Đông Xuân 12
3 Một số ngưỡng kinh tế đối với một số sâu hại 15
4 Phân bố mẫu điều tra 34
5 Độ tuổi của nông dân 34
6 Diện tích của nông dân có và không áp dụng 3G3T 35
7 Nguồn cung cấp thông tin về 3G3T cho nông dân 37
8 Lý do để nông dân áp dụng và không áp dụng 3G3T 39
9 Lượng lúa giống gieo sạ/ha 41
10 Lượng phân đạm (N)/ha 44

11 Số lần phun thuốc trừ sâu/vụ 46
12 Số lần phun thuốc trừ bệnh/vụ 47
13 Tổng chi phí lúa sản xuất/vụ 48
14 Năng suất lúa của nông dân có và không áp dụng 3G3T 49
15 Giá bán lúa của nông dân có và không áp dụng 3G3T 50
16 Lợi nhuận của nông dân 51
PHỤ CHƯƠNG pc-1
Phụ chương 1: Phiếu phỏng vấn chương trình “3 giảm 3
tăng” pc-1
Phụ chương 2: Thông tin chung về nông dân áp dụng
3G3T pc-4
Phụ chương 3: Thông tin chung về nông dân áp dụng
3G3T pc-7
Phụ chương 4: Các chỉ tiêu khác biệt về áp dụng và không
áp dụng 3G3T pc-9
v
DANH SÁCH HÌNH
Hình
số
Nội dung Trang
1 Bản đồ phân bố địa điểm điều tra 33
2 Độ tuổi nông dân áp dụng 3G3T 35
3 Độ tuổi nông dân không áp dụng 3G3T 35
4 Diện tích canh tác của nông hộ 36
5 Tỷ lệ diện tích áp dụng 3G3T 37
6 Tỷ lệ diện tích không áp dụng 3G3T 37
7 Nguồn thông tin cho nông dân áp dụng 3G3T 38
8 Nguồn thông tin cho nông dân không áp dụng 3G3T 38
9 Lợi ích của chương trình 3G3T 40
10 Lý do nông dân không áp dụng 3G3T 41

11 Giảm lượng giống nhờ áp dụng 3G3T 42
12 Sử dụng màu sạ hàng để giảm giống gieo sạ 43
13 Ruộng áp dụng 3G3T 43
14 Giảm lượng phân đạm 45
15 Bón phân theo bảng so màu lá lúa 45
16 Giảm số lần phun thuốc trừ sâu 46
17 Giảm số lần phun thuốc trừ bệnh. 48
18 Giảm chi phí nhờ áp dụng 3G3T 49
19 Tăng năng suất nhờ áp dụng 3G3T 50
20 Giá lúa bán cao hơn nhờ áp dụng 3G3T 51
21 Tăng lợi nhuận nhờ áp dụng 3G3T 52
vi
Chương I GIỚI THIỆU

1.1. Mở đầu
Trong những năm gần đây sản lượng lúa gạo nước ta liên tục gia tăng,
từ một nước phải cứu đói nay chúng ta đã vươn lên đứng hàng thứ 2 thế giới
về xuất khẩu gạo, sánh vai cùng các quốc gia như Hoa Kỳ, Thái Lan, …khiến
cho nhiều quốc gia phải thán phục khả năng sản xuất nông nghiệp của nông
dân Việt Nam. Trong đó Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa lớn
nhất của cả nước không chỉ góp phần thực hiện vấn đề an ninh lương thực mà
còn đóng vai trò quan trọng bậc nhất cho xuất khẩu gạo của cả nước.
Mặc dù chúng ta đã đạt được một sản lượng khá như vậy nhưng lợi
nhuận của nông dân không là bao do chi phí sản xuất cao và chất lượng hạt
gạo chưa thật tốt nên giá gạo của chúng ta vẫn còn ở mức thấp hơn so với
Hoa Kỳ, Thái Lan. Bên cạnh đó việc yêu cầu tập trung sản xuất lúa gạo để
đáp ứng cho đà tăng dân số nhanh chóng đã đưa đến sự thay đổi nhanh trong
kỹ thuật sản xuất lúa. Những thay đổi gần đây đã gây ra tần số dịch hại lớn.
Sự mở rộng diện tích trồng lúa đã tạo điều kiện cho các loại côn trùng phát
tán trong thời kỳ của chúng, có cơ hội để tìm những cây ký chủ thích hợp,

cho phép những đối tượng gây hại thay vì bị giới hạn ở những khu vực đơn lẻ
có thể lan rộng đến những vùng mới, tăng số các loài côn trùng, các loài này
đã chuyển từ ký chủ hoang qua lúa khi tập quán tự nhiên của chúng bị phá vỡ
(W.H. Reissing và ctv, 1993).
Vì vậy một trong những khâu quan trọng trong quá trình sản xuất
khiến nông dân vừa tốn sức người sức của chính là công tác phòng trừ sâu
bệnh cho ruộng lúa của mình. Với quan niệm sạ thật dầy, bón thật nhiều
phân đạm thì mới đủ số chồi để đạt được năng suất làm cho tình hình dịch hại
ngày càng gia tăng. Vì nóng lòng cho ruộng lúa của mình mà nông dân đổ
vào đồng rộng một lượng thuốc hoá học ngày càng nhiều với hi vọng là sẽ
tiêu diệt hết dịch hoạ. Một sự thật hiển nhiên là nơi nào người nông dân phun
nhiều thuốc trừ sâu, bệnh càng nhiều thì nơi ấy dịch hại ngày càng phát triển
1
nhiều thêm và những nơi ấy môi trường nước, đất ngày càng bị ô nhiễm (Võ
Tòng Xuân, 1993). Chính vì vậy mà ngày càng có nhiều chương trình
như:“IPM quốc gia”, “Nông dân tham gia thí nghiệm”, “Quản lý dinh dưỡng
cho cây lúa” …do Cục Bảo Vệ Thực Vật (BVTV), Viện Lúa ĐBSCL, Sở
Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn phát động nhằm hạn chế dịch hại
đồng thời giữ vững được năng suất của cây lúa. Các chương trình trên mặc dù
đã giải quyết được phần lớn những vấn đề về dịch hại nhưng vẫn còn bộc lộ
một số khuyết điểm như chương trình IPM nặng về quản lý sâu hơn là bệnh,
chương trình nông dân tham gia thí nghiệm đồng ruộng chỉ tập trung cho việc
không phun thuốc đầu vụ…. chưa giúp nông dân hoàn thiện kỹ năng trong
canh tác lúa của họ. Một trong những bước đột phá trong quản lý dịch hại
trên lúa được Cục BVTV, Viện Nghiên Cứu Lúa Ô Môn, IRRI triển khai đó
là chương trình quản lý dinh dưỡng và dịch hại tổng hợp gọi tắt là "ba giảm
ba tăng". Sức thuyết phục của các chương trình này chính từ những hiệu quả
thực tế trên đồng ruộng.
An Giang là một trong những tỉnh đi đầu trong thi đua sản xuất lúa
chất lượng cao và cũng là trọng điểm của chương trình 3G3T. Từ vụ Hè Thu

2001, Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật An Giang được sự hỗ trợ của Cục Bảo Vệ
Thực Vật Phía Nam đã triển khai 4 lớp huấn luyện 3G3T và kể từ đó chương
trình đã phát triển rộng khắp 11 huyện thị trong tỉnh. Mặc dù chương trình đã
phát động một cách rất rầm rộ ở quy mô lớn, các báo cáo tổng kết của chi cục
và trạm BVTV cho thấy hiệu quả của chương trình rất rõ rệt. Nhưng vẫn còn
một số ý kiến trong nông dân cho rằng áp dụng 3G3T chỉ giảm được giống
gieo sạ, giảm thuốc BVTV chứ không giảm được lượng phân đạm (N). Ngoài
ra theo báo cáo về hiệu quả của chương trình 3G3T tại xã Vĩnh Nhuận huyện
Châu Thành- một trong điểm của chương trình 3G3T ở An Giang của tác giả
Nguyễn Thanh Xuân, Khoa Kinh Tế- Quản Trị Kinh Doanh- Trường Đại Học
An Giang thì lượng phân N của nông dân áp dụng 3G3T là 148 kg/ha so với
nông dân không áp dụng 3G3T là 116 kg/ha, cao hơn 32kg. Chính vì vậy,
chương trình này còn nhiều chuyện bỏ ngỏ và hiệu quả của chương trình cần
được chứng minh để củng cố lòng tin trong nông dân góp phần đẩy mạnh
2
chương trình phát triển ở quy mô rộng hơn. Địa bàn chọn điều tra là huyện
Chợ Mới, một huyện cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu với dân số là
toàn huyện năm 1999 là 351.762 người. Tổng diện tích tự nhiên là 35.571 ha,
diện tích đất nông nghiệp là 23.585 ha trong đó đất lúa là 19.873 ha, huyện
bao đê khép kín 60/73 tiểu vùng (Huỳnh Hiệp Thành, 2000). Do tình hình
đặc thù của huyện Chợ Mới là vùng đê khép kín, đây là một trong những
nguyên nhân làm giảm năng suất lúa trong khi lượng phân bón cứ tăng lên
đặc biệt là phân đạm (N), áp lực dịch hại ngày càng tăng nên nông dân phải
sử dụng một lượng lớn thuốc BVTV không những làm cho chi phí sản xuất
tăng lên, lợi nhuận có phần giảm sút mà còn làm ô nhiễm môi trường đặc biệt
là trong vùng đê bao khép kín do đó việc quán triệt chương trình đến nông
dân thực sự rất có ý nghĩa trong bối cảnh ngành nông nghiệp của huyện Chợ
Mới hiện nay.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình 3G3T tại huyện Chợ

Mới, tỉnh An Giang thông qua đánh giá từng mặt giảm và tăng nhằm củng cố
hiệu quả của chương trình 3G3T góp phần giúp chương trình phát triển nhanh
hơn và sâu rộng hơn tại huyện Chợ Mới, giúp nông dân giảm được chi phí
đầu vào và tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp .
3
Chương II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU

Chương trình 3G3T trước đây còn được gọi là Quản lý dinh dưỡng &
dịch hại tổng hợp được gọi tắt là ICM (Integrated Crop Management) là
chương trình quản lý dịch hại dựa trên mối quan hệ của dinh dưỡng cây trồng
và sự gây hại của dịch hại. Dựa vào những mối tương quan biết được, các nhà
khoa học IRRI, và Cục BVTV đã triển khai ứng dụng trong quản lý dịch hại
cho cây lúa (Sở Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, 2002)
Cốt lõi của chương trình này là sự kế thừa và phát huy chương trình
IPM và thâm canh tổng hợp trong sản xuất lúa.
2.1. Cơ sở của chương trình 3G3T
2.1.1. Chương trình “Quản lý dịch hại tổng hợp- IPM”
2.1.1.1 IPM là gì?
Thuật ngữ IPM là khái niệm rất quen thuộc đối với người nông dân
sản xuất lúa, được xem như là giải pháp tổng hợp trong quản lý dịch hại. Tuy
nhiên để nông dân hiểu rõ và có thể thực hiện đầy đủ các khái niệm này
không thực sự đơn giản (Trần Văn Hai, 2004)
IPM là chữ viết tắt của từ tiếng Anh: Integrated Pest Management, có
nghĩa là quản lý dịch hại tổng hợp.
Theo Rainer Daxl (1994) thì quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) là một
hệ thống quản lý dịch hại mà trong khung cảnh cụ thể của môi trường và
những biến động quần thể của các loài gây hại, sử dụng tất cả các kỹ thuật và
biện pháp thích hợp có thể được, nhằm duy trì mật độ của các loài gây hại ở
dưới mức gây ra thiệt hại kinh tế.
Quản lý dịch hại tổng hợp cũng có thể định nghĩa là một hệ thống các

biện pháp phòng trừ hợp lý về kinh tế và vững bền, dựa trên sự phối hợp các
biện pháp trồng trọt, sinh học di truyền chọn giống và hoá học nhằm đạt được
4
sản lượng cây trồng cao nhất và tác hại của môi trường ít nhất (Oudejans,
1991, trích dẫn bởi Nguyễn Công Thuật 1996)
Các biện pháp trên cần được sử dụng phối hợp với nhau và ở mức độ
thích hợp tuỳ theo từng điều kiện cụ thể về tình hình dịch hại, khả năng chịu
đựng và đền bù cả cây trồng, điều kiện đất đai, thời tiết khả năng về kinh tế…
phối hợp ở đây chủ yếu là sử dụng nhiều biện pháp để hỗ trợ cho nhau, tăng
hiệu quả phòng trừ, không nên chỉ đơn thuần dựa vào một biện pháp, nhất là
không nên chỉ dựa vào biện pháp hoá học. Mức độ thích hợp tức là không nên
dùng quá liều yêu cầu cần thiết và phải phù hợp với từng điều kiện cụ thể (Võ
Văn Á và ctv, 1998)
Ngày nay khi nền sản xuất nông nghiệp đã theo hướng thâm canh,
bên cạnh năng suất gia tăng thì kéo theo sự gia tăng về dịch hại. Người ta ước
tính có khoảng 10 ngàn loài sâu hại và hàng trăm ngàn loại bệnh gây hại trên
các loại cây trồng làm giảm năng suất cây trồng trung bình từ 20-30%. Nhiều
nước trên thế giới đã ghi nhận những đợt dịch hại nghiêm trọng. Ở nước ta,
trong vòng 30 năm qua cũng từng xảy ra những đợt dịch sâu bệnh gây hại
nặng nề, điển hình như đợt rầy xanh đuôi đen và bệnh vàng lụi lúa ở các tỉnh
phía Bắc những năm 1964-1965, dịch rầy nâu và bệnh lùn xoắn lá ở các tỉnh
Nam Bộ trong những năm 1977-1980 và các năm 1991-1992. Ngoài ra các
loài dịch hại khác như bệnh, cỏ dại, chuột tuy không gây hại thành dịch
nghiêm trọng nhưng đã làm giảm năng suất đáng kể và tốn chi phí phòng trừ
rất tốn kém (Võ Văn Á và ctv, 1998)
Để phòng trừ các loài dịch hại bảo vệ cây trồng nhiều biện pháp kỹ
thuật ngày càng tiến bộ đã được áp dụng vào đồng ruộng. Ban đầu là các biện
pháp thủ công như bắt giết, biện pháp canh tác, sử dụng một số chất vô cơ có
sẵn trong tự nhiên và các chất hoá học tổng hợp đổ vào đồng ruộng ngày
càng nhiều hơn như hợp chất Clo hữu cơ, Lân hữu cơ, Cacbamat, Cúc tổng

hợp. Các hợp chất này có hiệu lực trừ sâu cao nhưng cũng rất độc hại với môi
trường và con người, giết hại nhiều loại thiên địch, làm sâu hại dễ quen thuốc.
Dần dần người ta nhận ra rằng biện pháp hoá học là “con dao hai lưỡi”, nó có
thể giúp phòng trừ sâu hại có hiệu quả cao nhưng cũng rất có hại tới sức khoẻ
5
con người và huỷ hoại môi trường sinh thái (Võ Văn Á và ctv, 1998) Vì vậy
áp dụng biện pháp phòng trừ vừa đảm bảo về năng suất vừa duy trì được tính
bền vững của nền nông nghiệp là hết sức cần thiết.
2.1.1.2. Các đặc trưng của IPM
Theo Rainer Daxl (1994) IPM có các đặc trưng sau:
 Sự kiểm soát được dựa trên sự hiểu biết về dịch hại và thiên
địch của chúng
Một sự hiểu biết về sinh học và sinh thái học về sâu hại và thiên địch
của chúng đặc biệt ở đâu và khi nào chúng xảy ra và di chuyển như thế nào
vào cây trồng làm nơi cư trú để hình thành cơ sở cho sự kiểm soát . Người áp
dụng IPM cũng cần hiểu quan hệ giữa dịch hại và thiên địch để có thể quyết
định mật độ của chúng
 Mật độ quần thể của dịch hại được giữ ở mức độ thấp.
Dịch hại xảy ra ở một qui mô nhỏ thì không hẳn gây ra tức thì sự tổn
thất nào. Ở một mật độ quần thể thấp, tác động của chúng có thể cân bằng
với cây trồng. sự thiệt hại xảy ra khi cây không đủ khả năng đền bù. Tuy
nhiên, kiểm soát dịch hại chỉ đảm bảo bằng tài chính nếu chi phí của biện
pháp kiểm soát đó thấp hơn chi phí thiệt hại mà nó sẽ gây ra.Theo một qui
luật, chi phí của các biện pháp kiểm soát thì cao hơn trong khi kết quả đạt
được chỉ một thời đoạn ngắn. Bởi thế từ quan điểm về kinh tế của người
nông dân nó là một sự kỳ vọng ổn định mật số quần thể của dịch hại ở một
mức độ thấp, nhưng không loại trừ được chúng một cách hoàn toàn. Người ta
đã chứng tỏ rằng không thể thực hiện được cũng như không có hiệu quả kinh
tế để diệt từ tận gốc những dịch hại cây trồng tại một miền hay ở cấp độ quốc
gia. Hơn nữa từ quan điểm sinh thái học xem cơ thể sâu hại là nguồn thức ăn

cho thiên địch để duy trì sự cân bằng hệ sinh thái.
 Kết hợp các phương pháp kiểm soát
Kết hợp các phương pháp kiểm soát là một đặc trưng quan trọng của
IPM. Và ít ra cũng là một công cụ cho việc định nghĩa khái niệm đó. Sự kết
hợp giữa các biện pháp ngăn ngừa và diệt trừ để chặn đứng hoặc giúp ngăn
6
chặn mật số dịch hại chống lại sự phát triển tới một mức độ mà sự thiệt hại
lớn xảy ra.
IPM nhắm vào mục tiêu này chủ yếu thông qua các kỹ thuật không sử
dụng thuốc hoá học. Dựa trên điều kiện cây trồng và điều kiện từng địa
phương các biện pháp có thể bao gồm: phương pháp canh tác chọn giống, vệ
sinh đồng ruộng, sự can thiệp và cuối cùng ít ra thúc đẩy sự phát triển của
thiên địch.
2.1.1.3. Các nguyên lý và nguyên tắc của IPM
Việc áp dụng biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp phải dựa trên
những nguyên lý và nguyên tắc của nó. Theo Nguyễn Công Thuật (1996),
phòng trừ dịch hại tổng hợp có những nguyên tắc và nguyên lý như sau:
- Một là, trong hệ thống phòng trừ dịch hại tổng hợp tất cả các kỹ
thuật tham gia cần được xét dến sự hài hoà giữa các yếu tố của môi trường,
đặc biệt là phải khai thác tối đa các yếu tố gây chết tự nhiên của sâu hại. Mặt
khác, tác động của tất cả các kỹ thuật được sử dụng cũng phải được xem xét
về mặt này.
- Hai là, không thể suy nghĩ một cách nông cạn cho rằng có thể tiêu
diệt hết các cơ thể gây hại trên đồng ruộng, mà cần hiểu rằng chỉ có thể duy
trì mật độ của chúng ở dưới mức gây ra thiệt hại kinh tế. Như vậy một biện
pháp phòng trừ chỉ được áp dụng trong trường hợp mà nếu không thực hiện
thì giá trị tổn thất về sản lượng cây trồng sẽ lớn hơn những chi phí của việc
xử lý.
- Ba là, không thể quan niệm phòng trừ tổng hợp là một qui trình in
sẵn để có thể áp dụng trong mọi trường hợp, ở mọi nơi, mọi lúc, mà phải coi

đó như là một nguyên tắc cần phải tuân theo để cho phép xác định, trong mỗi
tình huống cụ thể, một giải pháp tối ưu, xét về mọi mặt.
- Bốn là, những biện pháp áp dụng trong phòng trừ tổng hợp rất
phong phú và đa dạng. Đồng thời những thành tựu mới trong nghiên cứu
khoa học BVTV ngày nay càng được đưa ra sử dụng trong sản xuất nhiều
hơn, rộng rãi hơn và không ngừng lại một chỗ.
7
Sau cùng, khái niệm phòng trừ tổng hợp có liên quan đến hai khái
niệm là ngưỡng gây hại và ngưỡng kinh tế.
2.1.1.4. Các yêu cầu của IPM
Theo Võ Văn Á và ctv (1998) để việc áp IPM trên ruộng lúa đạt kết
quả tốt cần có những yêu cầu sau:
- Trồng cây khoẻ.
- Bảo vệ thiên địch.
- Thăm đồng thường xuyên.
- Nông dân trở thành chuyên gia.
Trồng cây khoẻ chủ yếu là chọn giống kháng sâu bệnh và chăm sóc
cây đầy đủ bằng các biện pháp canh tác.
Bảo vệ thiên địch chủ yếu là sử dụng thuốc hoá học hợp lý khi cần
thiết và dùng loại thuốc ít gây hại thiên địch, tạo điều kiện môi trường cho
thiên địch tồn tại và phát triển.
Hai yêu cầu đầu tiên thể hiện nội dung cơ bản về mặt kỹ thuật của IPM
là điều khiển cân bằng hệ sinh thái trên cơ sở tác động vào cây trồng và thiên
địch để chủ động khống chế sự phát triển của dịch hại. Hai yêu cầu sau là
những công việc quan trọng cần làm để thực hiện các biện pháp quản lý dịch
hại tổng hợp có kết quả. Trong quá trình thực hiện phải nắm vững và vận
dụng đồng thời 4 yêu cầu này. Muốn xác định những biện pháp thích hợp, có
hiệu quả thì phải thường xuyên điều tra đồng ruộng để nắm vững kết cấu và
sự biến động của hệ sinh thái. Cụ thể là nắm vững tình hình sinh trưởng của
cây trồng, thành phần và số lượng các loài thiên dịch, dự kiến khả năng biến

động của sự tương quan giữa chúng để có biện pháp xử lý thích hợp. Cuối
cùng là tất cả các biện pháp trên chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi người
nông dân, người chủ thực sự của đồng ruộng thông hiểu và thực sự tin tưởng
các biện pháp IPM. Khi đó mỗi người nông dân áp dụng các biện pháp tức là
cả cánh đồng, cả địa phương, cả nước đã áp dụng được IPM thì IPM mới thực
sự có kết quả mong muốn.
8
2.1.1.5. Các biện pháp trong IPM
Trên cơ sở các nguyên tắc, nguyên lí và các yêu cầu của IPM, các biện
pháp được áp dụng trong IPM là:
 Kiểm dịch và khử trùng:
Để ngăn ngừa các loài dịch hại mới từ nước ngoài vào hoặc lan
truyền giữa các vùng trong nước, kiểm dịch để phát hiện các loài dịch hại có
trong nông sản (Võ Văn Á và ctv, 1998).
Khử trùng các vật liệu làm giống bị nhiễm sâu bệnh trước khi đem
gieo trồng để ngăn ngừa sâu bệnh lan rộng và phá hại trên đồng ruộng, giảm
được chi phí phòng trừ trong sản xuất (Nguyễn Công Thuật, 1996).
 Biện pháp canh tác:
- Làm đất và vệ sinh đồng ruộng: Làm đất sớm và vệ sinh đồng ruộng
sau mỗi vụ: việc làm này rất có ý nghĩa trong việc diệt trừ các mầm mống sâu
bệnh sống trong đất và tàn dư của cây trồng và cỏ dại. Cày lật đất sớm sau
mỗi vụ lúa diệt được sâu non và nhộng sâu đục thân lúa sống trong rạ và gốc
rạ, đồng thời làm mất nơi cư trú của rầy nâu và rầy xanh là côn trùng môi
giới truyền các bệnh siêu vi trùng nguy hiểm cho lúa, như bệnh vàng lụi, bệnh
lùn xoắn lá lúa và bệnh mạ lạ. Các chuyên gia của Viện Lúa Gạo Quốc Tế
cũng đánh giá việc cày lật đất sau mỗi vụ thu hoạch và vệ sinh đồng ruộng có
tác dụng hạn chế sâu hại và các bệnh do virus trên lúa và coi đây là một biện
pháp quan trọng trong phòng trừ tổng hợp sâu bệnh trên lúa. Nguyên lý tác
động của biện pháp vệ sinh đồng ruộng và xử lý tàn dư cây trồng sau mỗi vụ
thu hoạch là cắt đứt vòng chu chuyển của sâu bệnh từ vụ này sang vụ khác và

hạn chế nguồn sâu bệnh tích luỹ, lây lan ngay từ đầu vụ gieo trồng (Nguyễn
Công Thuật, 1996).
- Gieo trồng đúng thời vụ: Thời vụ gieo trồng thích hợp là thời vụ
đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, đạt năng suất cao tránh
được các rủi ro do thời tiết khí hậu gây ra. Trên thực tế đồng ruộng tuy cùng
gieo cấy trong khung thời vụ thích hợp nhưng các giống lúa gieo cấy sớm hơn
lúa đại trà xung quanh thường bị bọ xít và sâu đục thân phá hại nặng. Nguyên
9
nhân là sâu hại tập trung lại những chỗ ruộng này vào giai đoạn sinh trưởng
thích hợp của cây trồng để phá hại.
Gieo cấy đồng loạt để rút ngắn thời gian của một vụ lúa đã được các
chuyên gia của Viện Lúa Gạo Quốc Tế coi là một trong những biện pháp kỹ
thuật có hiệu quả vì nó hạn chế sâu hại phát sinh và tích lũy trong nhiều thể
hệ (Nguyễn Công Thuật, 1996).
- Trồng giống ngắn ngày và gieo sạ với mật độ thích hợp: Trồng
giống lúa ngắn ngày có thể tránh được sâu đục thân và sâu cắn gié lúa. Trong
phòng trừ rầy nâu các giống lúa cực ngắn (với thời gian sinh trưởng từ 80-90
ngày) cũng coi là một biện pháp có hiệu quả vì rầy nâu không kịp tích luỹ đủ
mật số để gây hại nặng trên ruộng lúa cực ngắn (Nguyễn Công Thuật, 1996).
Trồng dày tạo nên môi trường thuận lợi cho sâu bệnh phát triển. các
ruộng lúa gieo dày thường khép hàng sớm tạo điều kiện cho rầy nâu và bệnh
đốm vằn phát triển và phá hại mạnh lúc cuối vụ
- Bón phân cân đối và hợp lý: Theo Võ Văn Á và ctv (1998) phân
bón có ảnh hưởng trực tiếp rất rõ rệt đến sinh trưởng và phát triển của cây
trồng, qua đó ảnh hưởng tới dịch hại. Để góp phần hạn chế dịch hại trong kỹ
thuật bón phân cần chú ý các đặc điểm sau:
Theo Hoàng Minh Châu (1998) việc hiểu rõ các thời kỳ tăng trưởng
và phát triển của cây trồng cùng những nhu cầu dinh dưỡng của chúng trong
các thời kỳ đó là điều kiện tiên quyết để điều hành việc cung cấp dinh dưỡng .
Với N trong giai đoạn đầu sẽ tích lũy ở thân cho đến tận của cuối giai đoạn

của thời kỳ tăng trưởng. Việc di chuyển N từ các bộ phận đến hạt thật đáng
kể sau lúc trổ hoa.
Hàm lượng NPK tăng dần theo độ tăng trưởng và sau đó giảm đi sau
khi đã đạt tới giá trị cực đại.
Tỷ lệ của N trong cây giảm đến cực tiểu khi cấy rồi tăng dần cho đến
lúc trổ. Sau đó hàm lượng N tiếp tục giảm cho đến thời kỳ đông sữa rồi giữ
mức cố định cho đến lúc lúa chín
10
Bảng 1: Công thức bón phân chung cho vụ Hè Thu và Thu Đông
Đv. Kg/công
Nguồn: Viện Lúa ĐBSCL 2005
Thời gian và liều lượng bón phân (1 công = 1000 m
2
)
Loại đất Bón ra rễ
(7-10 ngày sau
sạ)
Bón thúc
chồi
(22-25
nss)
Bón thúc
đòng
(42-45 nss)
Bón nuôi hạt
(55-60 nss)
Đất phù
sa
15 kg
NPK 20-20-15

4-5 kg
DAP
7-8 kg urê
5-6 kg urê
3 kg kali
clorua
Phun KNO
3
2 đợt,
trước và sau trổ 7
ngày,150g/bình 8
lít (4 bình / công)
Đất phèn
15 kg
NPK 20-20-15
6-7 kg
DAP
6-7 kg urê
4-5 kg urê
3 kg kali
clorua
Phun KNO
3
2 đợt,
trước và sau trổ 7
ngày,150g/bình 8
lít (4 bình / công)
Đất phèn
mặn
15 kg

NPK 20-20-15
6-7 kg
DAP
6-7 kg urê
5-6 kg urê
3 kg kali
clorua
Phun KNO
3
2 đợt,
trước và sau trổ 7
ngày,150g/bình 8
lít (4 bình / công)
11

Bảng 2: Công thức bón phân chung cho vụ Đông Xuân
Đv. Kg/công
Thời gian và liều lượng bón phân (1 công = 1000 m
2
)
Loại đất Bón ra rễ
(7-10 ngày sau
sạ)
Bón thúc
chồi
(22-25 nss)
Bón thúc
đòng
(42-45 nss)
Bón nuôi hạt

(55-60 nss)
Đất phù
sa
10 kg
( 20-20-15)
4-5 kg urea
4-5 kg
DAP
7-8 kg urê
7-8 kg urê
3 kg kali
clorua
Phun KNO
3
2 đợt, trước
và sau trổ 7
ngày,150g/bình 8 lít (4
bình / công)
Đất phèn
15 kg
NPK 20-20-15
5-6 kg
DAP
6-7 kg urê
5-6 kg urê
3 kg kali
clorua
Phun KNO
3
2 đợt, trước

và sau trổ 7
ngày,150g/bình 8 lít (4
bình / công)
Đất phèn
mặn
15 kg
NPK 20-20-15
5-6 kg
DAP
7-8 kg urê
5-6 kg urê
3 kg kali
clorua
Phun KNO
3
2 đợt, trước
và sau trổ 7
ngày,150g/bình 8 lít (4
bình / công)
Nguồn: Viện Lúa ĐBSCL 2005
- Sử dụng giống chống chịu sâu bệnh
Theo Nguyễn Công Thuật (1998) cho rằng sử dụng giống kháng
được coi là một trong những biện pháp then chốt trong phòng trừ tổng hợp
sâu bệnh hại lúa. Khoảng 70% diện tích lúa ở nước ta hiện nay được trồng
bằng giống lúa chống chịu với các sâu bệnh hại chủ yếu như rầy nâu, bệnh
đạo ôn, bạc lá.
Ngoài lợi ích về kinh tế sử dụng giống kháng sâu bệnh đã được đặc
biệt quan tâm vì nó phù hợp với những nguyên lý và mục tiêu của phòng trừ
tổng hợp như:
12

+ Dễ áp dụng trong các điều kiện, hoàn cảnh và trình độ sản xuất
khác nhau
+ Ít tốn kém nên nông dân có thể sử dụng rộng rãi.
+ Giảm được một phần rất lớn lượng thuốc hoá học phòng trừ sâu
bệnh trong sản xuất.
+ Tránh được ô nhiễm môi trường, bảo vệ được các loài thiên địch
trong tự nhiên
+ Giữ được cân bằng trong các hệ sinh thái nông nghiệp, góp phần
xây dựng hệ thống nông nghiệp bền vững.
- Sử dụng thiên địch.
Trên đồng ruộng, có rất nhiều loài sinh vật là thiên địch của dịch hại,
góp phần rất lớn trong việc hạn chế sự phát triển của dịch hại trong tự nhiên,
giữ thế cân bằng trong hệ sinh thái đồng ruộng. Thực tế đã chứng minh có rất
nhiều trường hợp dịch hại bị tiêu diệt bởi thiên địch mà con người không cần
phải can thiệp vào bất cứ biện pháp nào. Trên ruộng lúa có nhiều khi phát
hiện tỷ lệ trứng sâu đục thân lúa bị ong ký sinh tới 90%. Sức ăn của các loài
thiên địch bắt mồi cũng rất lớn. Một con nhện Lycosa trưởng thành ăn mỗi
ngày từ 5-15 con rầy nâu, một con sâu non của bọ rùa 8 chấm ăn mỗi ngày từ
5-10 con mồi. Ở nước ta kết quả điều tra bước đầu cho thấy số lượng thiên
địch rất phong phú. Chỉ riêng đối với sâu hại lúa đã phát hiện 344 loài thiên
địch thuộc14 bộ, 53 họ, 205 giống gồm nhiện, côn trùng, tuyến trùng và
virus. Chỉ riêng rầy nâu đã phát hiện và xác định 58 loài thiên địch (Võ Văn
Á và ctv,1998)
Trong số 344 loài thiên địch trên thì nhóm bắt mồi ăn thịt chiếm đa số
(58,8%). Sau đó là nhóm ký sinh (39,6%), còn lại là nhóm vi sinh vật gây
bệnh cho sâu (Phạm Văn Lầm, 1994,trích dẫn bởi Võ Văn Á và ctv,1998).
Phần lớn các loài sâu hại lúa đều có rất nhiều loài thiên địch, vai trò thiên
địch thể hiện rất rõ đối rầy nâu, sâu đục thân, và sâu cuốn lá, bọ xít…
Làm thế nào để bảo vệ và tăng cường hoạt động của các loài thiên
địch, theo Võ Văn Á và ctv (1998) cần thực hiện tốt các nội dung sau đây:

13
Bảo vệ các loài thiên địch khỏi bị độc hại do việc dùng thuốc hóa học
bằng cách dùng các loại thuốc chọn lọc (có phổ tác dụng hẹp) thuốc ít hại đối
với thiên địch, chỉ dùng thuốc trừ sâu khi cần thiết (tới ngưỡng phòng trừ),
dùng thuốc dạng hạt rãi xuống đất. Không dùng thuốc hoá học đã hạn chế
hoặc cấm sử dụng. Với lúa không dùng thuốc trong vòng 30 ngày sau khi sạ
vì thời gian này thiên địch đang phát triển. người ta thấy rằng các loại thuốc
hoá học có độ độc cao và có tác dụng phổ rộng như Wofatox (nhóm lân hữu
cơ) Decis, Sherpa (nhóm cúc tổng hợp) không hạn chế được rầy nâu mà còn
làm rầy bùng phát lên do thuốc diệt nhiều thiên địch. Các loại thuốc trừ sâu
như Monitor, Basudin, Padan đều rất độc hại đối với các thiên địch trên trên
ruộng lúa. Nơi không dùng thuốc trừ sâu tỷ lệ ong mắt đỏ ký sinh trên trứng
một số côn trùng cánh vảy hại lúa có thể đạt tới 60-70%, nơi dùng 2-3 lần tỷ
lệ này giảm chỉ còn 3,6-21%
Thực hiện các biện pháp để giúp thiên địch phát triển như giữ
cho ruộng luôn ẩm hoặc giữ nước trong ruộng lúa, gieo trồng với mật độ
thích hợp
 Mức gây hại kinh tế và ngưỡng phòng trừ.
Sâu hại thường gây ra những triệu chứng dễ nhận thấy trên đồng
ruộng. Tuy vậy, khó có thể xác định được mức độ gây hại trên đồng ruộng sẽ
ảnh hưởng đến năng suất là bao nhiêu. Trong một số trường hợp cây trồng có
thể chịu đựng được với sâu bệnh ở một mức độ nhất định mà không ảnh
hưởng tới năng suất lúc thu hoạch. Cây lúa khi bị sâu cắn phá một số dảnh sẽ
đẻ thêm dảnh mới hoặc các dảnh còn lại sẽ cho hạt lúa mẩy hơn nên không
ảnh hưởng tới năng suất. Tuy vậy khả năng này của cây trồng chỉ giới hạn ở
một mức độ nhất định, nếu sâu bệnh phá hại nặng hơn thì cây trồng không thể
tự đền bù lại năng suất được. Vì vậy nếu có thể xác định được thiệt hại về sản
lượng là bao nhiêu, tương ứng với các mức độ thiệt hại do sâu bệnh gây ra
trên đồng ruộng thì điều này rất có ý nghĩa, việc xử lý thuốc nhờ đó sẽ được
thực hiện đúng lúc không quá sớm cũng không quá muộn và trong nhiều

trường hợp có thể tránh được việc dùng thuốc
14
Mức gây hại kinh tế là mật độ sâu bệnh đủ gây ra thiệt hại về kinh tế
lớn hơn so với chi phí phòng trừ (Nguyễn Công Thuật, 1996).
Võ Văn Á và ctv (1998) ngưỡng kinh tế là mật độ dịch hại trên cây
trồng mà ở đó khi tiến hành các biện pháp phòng trừ (nhất là biện pháp sử
dụng thuốc hóa học) thì giá trị của phần nông sản thu thêm được do tiến hành
phòng trừ sẽ cao hơn hoặc bằng với chi phí bỏ ra cho công việc phòng trừ
(tức là phải có lãi hoặc hòa vốn)
Bảng 3: Một số ngưỡng kinh tế đối với một số sâu hại
Nguồn: Võ Văn Á và ctv 1998
Đối với bệnh nhiều nhà khoa học đề nghị ngưỡng kinh tế khoảng 5-
10% số lá bị bệnh (với các bệnh đạo ôn, bạc lá) hoặc 5-10% số dảnh (bệnh
đốm vằn).
Ngưỡng kinh tế đối với một số sâu hại được đề nghị dựa trên cơ sở
sinh lý học của cây trồng, sở dĩ cây không bị giảm năng suất khi bị sâu hại ở
một mức độ nhất định là do cây có khả năng “tự đền bù”. Theo Võ Văn Á và
ctv (1998) khả năng tự đền bù của cây là khả năng cây có thể tự bù đắp những
Tên sâu
Giai đoạn sinh trưởng
của lúa
Ngưỡng kinh tế
Sâu đục thân 2 chấm
Đẻ nhánh
Bắt đầu trổ
Trỗ 50 %
0.8-1.2 ổ trứng/m
2
0.2-0.4 ổ trứng/m
2

0.4-0.6 ổ trứng/m
2
Sâu cuốn lá lúa loại nhỏ Đòng – trổ 6-9 sâu non/m
2
Rầy nâu Bắt đầu trổ- chín sữa 18-27 con/bụi
Bọ xít xanh Chín sữa 18-24 con bọ non/m
2
Bị trĩ Đẻ nhánh 15% số lá bị hại
Sâu phao
Mạ
Đẻ nhánh
50% số lá
15% số lá
Sâu keo
Đẻ nhánh
Có đòng
25% số lá
15% số lá
Sâu đục thân
Đẻ nhánh
Đòng- trổ
10% nõn héo
5% số dảnh
Sâu cuốn lá nhỏ Đẻ nhánh
Đòng trổ
15% số lá
5% số lá
Bọ xít dài Trổ- chín 10-20 con/bụi
Rầy nâu Đẻ nhánh- trổ 1.5 con/dảnh
15

×