Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Nghiên cứu các tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên thượng tiến huyện kim bôi tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------------

ĐỖ THỊ HƯỜNG

NGHIÊN CỨU CÁC TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI DÂN
ĐỊA PHƯƠNG ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN
NHIÊN THƯỢNG TIẾN – HUYỆN KIM BÔI -TỈNH HỊA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
“Tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học đóng vai trị quan trọng trong
sự tiến hóa, duy trì hệ thống tự nhiên và phát triển kinh tế xã hội. Đa dạng sinh học
ở nhiều quốc gia trên thế giới đang bị suy giảm nghiêm trọng bởi các hoạt động của
con người. Các khu bảo tồn thiên nhiên( KBTTN) đóng vai trị chủ chốt trong bảo
tồn đa dạng sinh học và đáp ứng các mục tiêu đa dạng của cộng đồng” [24].
Trong vài thập kỷ qua, để đối phó với các nguy cơ suy giảm đa dạng sinh
học ngày càng tăng, hệ thống các vườn quốc gia( VQG) và khu bảo tồn( KBT) đã
dần được hình thành. Hiện nay trên thế giới có hơn 100.000 KBTTN chiếm 11,7%
diện tích đất liền tồn thế giới. VQG chiếm số lượng và diện tích lớn nhất, tiếp đến
là các KBT lồi và sinh cảnh [24]. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện một hệ thống


quản lý phù hợp trên thực tế nhằm hiện thực hóa các lợi ích tiềm năng mà KBTTN
có thể đem lại vẫn cịn là thách thức lớn tại rất nhiều nơi trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Những mối đe dọa chính tới KBTTN thường xuất phát từ mâu thuẫn
giữa mục tiêu bảo tồn và sinh kế của người dân sống trong và bên ngoài ranh giới
KBTTN. Khi những mâu thuẫn này chưa được xác định và giải quyết, thì những
vấn đề cơ bản của bảo tồn khó có thể giải quyết được.
Thực tế cho thấy, việc thành lập các KBTTN đã làm mất đi nguồn sống của
phần lớn các cộng đồng dân cư sống trong và gần các KBT và hậu quả là lâu nay
vẫn tồn tại tình trạng người dân khai thác trái phép các tài nguyên thiên nhiên [59].
Đa số người dân sống trong và gần các VQG, KBT là người nghèo, dân trí thấp, họ
cho rằng việc thành lập các KBT, VQG khơng đem lại lợi ích gì cho họ, mà chỉ bị
thiệt thịi vì khơng được tự do khai thác một phần tài nguyên thiên nhiên như trước
nữa [37]. Thêm vào đó, các nguồn thu nhập của người dân ngày càng bị hạn chế do
diện tích canh tác bị thu hẹp, giảm các nguồn thu từ rừng… mà họ chưa có bất cứ
nguồn sinh kế nào thay thế. Điều đó dẫn đến tác động của người dân tới các tài
nguyên rừng ở các VQG, KBT là điều không thể tránh khỏi.
KBTTN Thượng Tiến được thành lập theo quyết định số 1242/QĐ-UB ngày
09 tháng 10 năm 2000 của UBND Tỉnh Hồ Bình. Đây là một trong những KBTTN


2

đa lợi ích lớn nhất của tỉnh Hồ Bình tính đến thời điểm hiện nay. KBTTN Thượng
Tiến nằm trong khu vực có địa hình gồm nhiều dãy núi lớn, nhỏ, hình vịng cung
tạo nên một lưu vực tương đối khép kín; đây là vùng thượng nguồn cung cấp nước
cho vùng hạ lưu thuộc hai huyện Kim Bôi và huyện Lạc Thuỷ tỉnh Hồ Bình. Giá
trị sinh thái và kinh tế của KBTTN Thượng Tiến đã được khẳng định. Tuy nhiên,
hiện nay người dân sinh sống ở vùng đệm KBT thậm chí ngay trong vùng lõi đã và
đang từng ngày, từng giờ tác động tới tài nguyên rừng của khu bảo tồn dưới các
hình thức và mức độ tác động khác nhau. Một câu hỏi lớn đặt ra cho các KBT nói

chung và KBTTN Thượng Tiến nói riêng là: Làm thế nào để hài hòa được mục tiêu
bảo tồn với nhu cầu cuộc sống của người dân sống trong và cạnh các KBT? Để góp
phần giải đáp cho câu hỏi trên luận văn tiến hành:
“Nghiên cứu các tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng
tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến – huyện Kim Bôi – tỉnh Hịa Bình”.


3

Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Ở nước ngoài
1.1.1. Hiện trạng quản lý các VQG và khu bảo tồn thiên nhiên và những mẫu
thuẫn phát sinh
Theo định nghĩa của IUCN đã khẳng định bảo tồn đa dạng sinh học là mục
tiêu cơ bản của KBTTN:
“Khu bảo tồn thiên nhiên là một khu vực trên đất liền hoặc trên biển được khoanh
vùng để bảo vệ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên nhiên và văn hoá đi kèm,
được quản lý bằng các công cụ pháp luật hoặc các hình thức quản lý có hiệu quả
khác” (IUCN 1994 )[24].
Cơng ước ĐDSH (1992) xác định các KBTTN là công cụ hữu hiệu và có vai
trị quan trọng trong bảo tồn đa dạng sinh học “tại chỗ”. Tại điều 8 “Bảo tồn tại
chỗ” của Cơng ước có các mục qui đinh rõ các nước tham gia cơng ước ĐDSH có
trách nhiệm thành lập hệ thống KBTTN, xây dựng các hướng dẫn lựa chọn, thành
lập và quản lý các KBTTN, và quản lý các tài nguyên sinh học bên trong các K
BTTN để bảo tồn và sử dụng bền vững [16].
Nguồn gốc của KBTTN “hiện đại” có từ thế kỷ thứ 19. VQG Yellowstone là
VQG đầu tiên trên thế giới, được thành lập tại Mỹ năm 1872. VQG này nằm trên
vùng đất do người Crow và người Shoshone sinh sống trên cơ sở sử dụng bạo lực
ép buộc hai cộng đồng tộc người này phải rời bỏ mảnh đất của họ. Nhiều KBT TN
và VQG được thành lập sau đó ở các nước khác nhau trên thế giới cũng sử dụng

phương thức quản lý theo mơ hình này, có nghĩa là ngăn cấm người dân địa phương
thâm nhập vào KBTTN và VQG và tiếp cận tài nguyên trong đó. Điều đó dẫn đến
những hiệu quả tất yếu là làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa CĐĐP và KBT và
mục đích bảo tồn tài nguyên đã không đạt được [24].
Phần lớn các KBT đều được thiết lập vì mục đích Quốc gia, mà ít nghĩ đến
các nhu cầu và mong muốn của người dân địa phương. Dựa trên mơ hình của Hoa
Kỳ, phương thức quản lý của nhiều VQG và KBT chủ yếu bao gồm việc ngăn cấm
người dân địa phương xâm nhập vào KBT và khai thác TNR. Phương thức này gọi
là biện pháp "Rào và phạt". Tại các nước Đông Nam Châu Á phương thức này tỏ ra


4

khơng thích hợp vì để duy trì sự đa dạng sinh học thì người dân địa phương bị mất
quyền tiếp cận với nguồn TNR, trong khi sự phụ thuộc của họ vào TNR là rất lớn
[46].
Các mơ hình ở Đơng Nam Châu Á đã chỉ ra rằng: Nỗ lực của các cơ quan
Chính phủ nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như
mong muốn trên cả phương diện quản lý TNR và kinh tế xã hội (KT-XH). Việc đưa
người dân vốn quen sống trên địa bàn của họ đến một nơi mới chẳng khác nào "bắt
cá khỏi nước" và khi đó lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà khơng
có người bảo vệ. Người dân địa phương có nhiều kiến thức cổ truyền về việc sử
dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế cộng đồng đã tỏ ra có hiệu quả trong
việc quản lý các nguồn tài nguyên này[46].
Trước những bất cập trong công tác bảo tồn ở các VQG, KBT trên thế giới,
từ những năm đầu của thập kỷ 80 nhiều dự án nghiên cứu, hội thảo quốc tế với sự
đóng góp của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về bảo tồn đã đề xuất những thay
đổi trong chiến lược bảo tồn. Một chiến lược bảo tồn mới dần được hình thành và
khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý KBTTN và VQG với các hoạt động
sinh kế của người dân địa phương, cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng

đồng trên cơ sở tơn trọng nền văn hố trong q trình xây dựng các quyết định.
Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới và kinh nghiệm thực tiễn của các
KBT và VQG khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa trên mơ hình quản lý
gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của người dân địa phương. Ở
VQG Kakadu (Australia), những người thổ dân chẳng những được chung sống với
VQG một cách hợp pháp mà họ còn được thừa nhận là chủ hợp pháp của VQG và
được tham gia quản lý VQG thông qua các đại diện của họ trong ban quản lý. Tại
VQG Wasur (Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc sống gắn với săn bắn cổ
truyền [40].
1.1.2. Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa cộng đồng người dân vào tài
nguyên rừng trong các VQG, KBTTN.
Bink Man W. (1988) trong nghiên cứu của mình thực hiện tại làng Ban Pong,
tỉnh S. Risaket, Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải phụ thuộc vào rừng để


5

chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như: củi đun và hoa quả trong rừng.
Tuy nhiên đây là một minh hoạ rất cần thiết của người dân địa phương tham gia vào
việc lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển (FAO, 1996) [43].
Năm 1986, trong tác phẩm “Lâm nghiệp xã hội và hành động của cộng
đồng” các tác giả Dorji, D.C. Chavada, B. Thinley và Wangchuks cho rằng: Rừng
chủ yếu là nguồn cung cấp gỗ xây dựng và làm hàng rào, cung cấp củi, nơi chăn thả
và chuồng trại cho gia súc. Chúng cũng cung cấp một phần lớn những yêu cầu về
thức ăn gia súc, lợi tức, công ăn việc làm và đóng vai trị quan trọng trong việc bảo
vệ đất và nước trên vùng đất dốc (FAO, 1996) [60].
Ở Nepal, đã có một số mơ hình thành cơng về chương trình bảo tồn đa dạng
sinh học (ĐDSH) theo hướng toàn cầu. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của cuộc xung
đột vũ trang trong gần một thập kỷ đã tác động xấu đến các hoạt động bảo tồn và
động vật hoang dã. Chính vì vậy, một số nghiên cứu về đánh giá tác động của những

hoạt động này đến bảo tồn đa dạng sinh học tại VQG Bardia và vùng đệm phía tây
Nepal đã được thực hiện. Nghiên cứu đã khẳng định, 73% người dân địa phương
sống trong khu vực phụ thuộc vào nông nghiệp, nguồn chất đốt và thức ăn [74].
Ở Ấn Độ, diện tích đất lâm nghiệp đứng thứ hai sau diện tích đất nơng
nghiệp, và là nơi ước tính có 275 triệu người dân địa phương ở các vùng nơng thơn
phụ thuộc vào rừng (ít nhất là một phần sinh kế của họ). Một nghiên cứu về lâm
nghiệp cộng đồng bên ngoài khu rừng đặc dụng đã chỉ ra rằng các khu rừng không
chỉ cung cấp tiềm năng to lớn để xố đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế nông
thôn ở Ấn Độ mà vẫn hỗ trợ tốt mục tiêu quan trọng là bảo tồn [84].
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở thành
vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những năm gần đây.
Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển bền
vững ở Rio De Janeiro, vấn đề này đã chính thức được cơng nhận [60, tr 6].
1.1.3. Vai trị của người dân trong việc thực hiện các chiến lược bảo tồn
Theo Gadgil và VP. Vartok năm 1976 trong tác phẩm: “Những lùm cây
thiêng miền Tây dãy Ghats ở Ấn Độ” cho rằng: Người dân địa phương ở Ấn Độ đã


6

bảo vệ được các đám rừng từ dưới 0,5 ha đến 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để
thờ các vị thần của lùm cây. Việc thờ cúng tại những lùm cây thiêng đó được hình
thành từ các xã hội chuyên về săn bắn và hái lượm. Việc lấy ra bất cứ sản phẩm nào
đều bị cấm kỵ. Với nạn phá rừng ngày càng tăng, những lùm cây đó đã trở thành
những di sản còn lại của rừng tự nhiên và do đó đã trở nên quan trọng trong việc thu
lượm một số sản phẩm như: Cây thuốc, lá rụng, gỗ khô…Việc khai thác gỗ đã bị
cấm nhưng đôi khi vẫn xảy ra tình trạng khai thác gỗ trộm (FAO, 1996) [43].
Ở Philippines, chiến lược Quốc gia về bảo tồn ĐDSH nêu rõ rằng: "Điều chủ
chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn ĐDSH là phải bảo đảm rằng các cộng đồng địa
phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết định về chính sách

liên quan đến mơi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối với
bảo tồn ĐDSH" (Denr và TCSD, 1994) [46].
Ở Indonesia, kế hoạch hành động ĐDSH ghi nhận rằng "Việc tăng cường sự
tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong và phụ thuộc
vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của kế hoạch hành
động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch (Bappenas, 1993)
(dẫn theo Lê Sỹ Trung, 2005) [46].
Ở Thái Lan, một thử nghiệm của Dự án “Quản lý rừng bền vững thông qua
sự cộng tác” thực hiện tại Khu bảo tồn động vật hoang dã Phu Kheio, tỉnh
Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý
bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là
phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu
nhập của họ [60].
Cũng ở Thái Lan, hệ thống quản lý khu bảo vệ trước đây đã nhấn mạnh các
quyền sở hữu và kiểm sốt rừng của Nhà nước mà khơng chú ý tới ảnh hưởng giữa
con người và các nguồn tài nguyên, đã dẫn tới những thất bại vì tỉ lệ phá rừng hàng
năm vẫn ở mức cao 2,6%. Một nghiên cứu tại vùng đệm của KBT động vật hoang
dã Phu Kheio, Đông Bắc Thái Lan đã giới thiệu một cách tiếp cận mới để quản lý
chúng trên cơ sở thu hút sự tham gia của người dân địa phương trong tiến trình. Kết


7

quả thảo luận ở đây cũng đã khẳng định rằng, có một cơ hội để tạo ra một sự hiểu
biết tốt hơn giữa người dân nông thôn về tầm quan trọng của trồng rừng và bảo tồn
thiên nhiên sẽ dẫn đến một cách quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên trong tương
lai [73].
Về chính sách lâm nghiệp, Sheppherd G(1986) cho rằng đối với cộng đồng
dân cư sống trong và gần các KBTTN, một giải pháp đề nghị là cho phép người dân
địa phương củng cố quyền lợi của họ theo cách hiểu của các hệ quản lý nông nghiệp

hiện đại, bằng cách trồng cây, cho và nhận đất, nhà nước cần xác định rõ các quyền
lợi chính trị của dân trên mảnh đất mà họ nhận với mục đích tạo thêm công ăn việc
làm, tăng thu nhập và giảm tác động đến tài nguyên rừng [42].
Theo Poffenberger, M. và McGean, B( 1993) trong báo cáo: “Liên minh
cộng đồng: đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu điểm tại VQG Dang
Yai nằm ở đông bắc và khu phịng hộ Nam Sa ở phía bắc Thái Lan. Tại Dang Yai
người dân đã chứng minh được khả năng của họ trong việc tự tổ chức các hoạt động
bảo tồn đồng thời phối hợp với cục lâm nghiệp Hoàng gia xây dựng hệ thống quản
lý rừng đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái đồng thời phục vụ lợi ích của
người dân trong khu vực. Tại Nam Sa cộng đồng người dân cũng rất thành công
trong công tác quản lý rừng phịng hộ. Họ khẳng định nếu chính phủ có chính sách
khuyến khích và chuyển giao quyền lực cho họ thì chắc chắn họ sẽ thành cơng trong
việc kiểm soát tài nguyên rừng [42].
Dilmour D.A. (1999) lại cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tính kém
hiệu quả của các chương trình, dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên là chưa giải
quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các cá nhân trong cộng đồng, giữa lợi ích cộng
đồng địa phương với lợi ích quốc gia. Do đó chưa phát huy được năng lực nội sinh
của các cộng đồng cho quản lý tài nguyên. Vì vậy, quản lý tài nguyên cần phát triển
theo hướng kết hợp giữa hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên với hoạt động
sản xuất để cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, thống nhất lợi ích của người
dân với lợi ích quốc gia trong hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng [42].


8

Theo Nick Salafky và các đồng sự( trong Biodiversity Support Program
Washington, DC, USA, 2000) cho rằng vào những năm 90 của thế kỷ trước, các nhà
bảo tồn bắt đầu phát triển một cách tiếp cận mới nhằm đáp ứng nhu cầu về lợi ích
kinh tế và bảo tồn. Những cách tiếp cận này dựa vào việc thực hiện các hoạt động
sinh kế độc lập và có mối liên hệ trực tiếp với bảo tồn. Đặc điểm cơ bản của chiến

lược này là mối liên hệ giữa ĐDSH và con người xung quanh. Các chủ thể địa
phương có cơ hội hưởng lợi ích trực tiếp từ ĐDSH và như vậy sẽ có thể hạn chế
được các tác nhân gây hại từ bên ngoài đối với ĐDSH. Sinh kế sẽ giúp cho bảo tồn
ĐDSH chứ không phải cạnh tranh với nhau. Hơn nữa chiến lược này cơng nhận vai
trị của người dân địa phương trong bảo tồn ĐDSH. Cũng trong chiến lược này, các
nhà bảo tồn có thể giúp cho người dân địa phương khai thác sử dụng LSNG hoặc
phát triển du lịch sinh thái [42].
Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (WWF) 2001 đã đưa ra một
thông điệp chung rất đơn giản: “Hoạt động bảo tồn phải đề cập đến vấn đề xóa đói
giảm nghèo như là một phần quan trọng của chính sách bảo tồn tài nguyên rừng [42]”
Theo nguyên tắc 22 trong công bố của liên hợp quốc về môi trường và phát
triển họp tại Rio De Janeiro từ 3/6 đến 14/6/1992 cho biết: “ Nhân dân bản xứ và
những cộng đồng của họ và các cộng đồng khác ở địa phương có vai trị quan trọng
trong quản lý và phát triển mơi trường vì sự hiểu biết và tập tục truyền thống của
họ. Các quốc gia nên cơng nhận và ủng hộ thích đáng bản sắc văn hoá và những
mối quan tâm của họ, khiến họ tham gia có hiệu quả vào việc thực hiện một sự phát
triển lâu bền”
1.2. Ở trong nước
1.2.1. Các chính sách liên quan tới cơng tác bảo tồn và quyền lợi của người dân
khi tham gia vào hoạt động bảo tồn các VQG, KBTTN
Trải qua hơn bốn thập kỷ hình thành và phát triển, đến nay hệ thống KBTTN
của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn Quốc gia, 69 khu dự
trữ thiên nhiên, 45 khu Bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm khoa
học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc trưng với giá


9

trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và trên biển
đã và đang được xây dựng trên khắp các vùng, miền cả nước [24].

Cùng với sự ra đời của hàng loạt các VQG và KBTTN rải đều từ VQG
Hoàng Liên Sơn hùng vĩ ở vùng núi phía Bắc cho đến VQG ngập nước U Minh
Thượng thì hệ thống các thể chế, chính sách về công tác bảo tồn cũng được thiết
lập. Trước tiên là Luật BV và PTR ban hành ngày 12/08/1991 và được sửa đổi ngày
03/12/2004. Theo đó, rừng đặc dụng bao gồm:
+ Vườn quốc gia
+ Khu bảo tồn thiên nhiên gồm: Khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài,
sinh cảnh
+ Khu bảo vệ cảnh quan gồm: Khu rừng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam
thắng cảnh
+ Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học
Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2001 đã đề cập đến
việc Ban quản lý các khu bảo vệ được xây dựng các quy định về phạm vi sử dụng
rừng đối với người dân địa phương sinh sống trong các KBT. Gần đây nhất, Thủ
tướng Chính phủ ký quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/08/2006 về việc ban
hành Quy chế quản lý rừng, thay thế quyết định số 08/2001/QĐ-TTg. Theo điều 14
chương II của quy chế quản lý rừng cho biết: Trong VQG và KBTTN được chia
thành các phân khu chức năng sau đây:
a) Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:
- Là khu vực có diện tích vừa đủ để bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái tự nhiên
như mẫu chuẩn sinh thái quốc gia, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn
biến tự nhiên của rừng và hệ sinh thái.
- Đối với rừng đặc dụng ở vùng đất ngập nước, phạm vi và quy mô của phân
khu bảo vệ nghiêm ngặt được xác định theo mục tiêu, đối tượng, tiêu chí bảo tồn và
điều kiện thuỷ văn.
b) Phân khu phục hồi sinh thái
Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để khôi phục các hệ sinh thái rừng
thông qua việc thực hiện một số hoạt động lâm sinh cần thiết.



10

c) Phân khu dịch vụ - hành chính
Là khu vực để xây dựng các cơng trình làm việc và sinh hoạt của ban quản lý,
các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí.
Cũng theo điều 24 của quy chế này đã ghi rõ: Vùng đệm là vùng rừng, vùng
đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm liền kề với VQG và KBTTN; bao gồm toàn bộ
hoặc một phần các xã, phường, thị trấn nằm sát ranh giới với VQG và KBTTN.
Vùng đệm được xác lập nhằm ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm hại của con người tới
VQG và KBTTN. Ban quản lý khu rừng đặc dụng tổ chức cho cộng đồng dân cư
vùng đệm tham gia các hoạt động bảo vệ, bảo tồn, sử dụng hợp lý lâm sản và các tài
nguyên tự nhiên, các dịch vụ du lịch sinh thái để góp phần nâng cao thu nhập và gắn
sinh kế của người dân với các hoạt động của khu rừng đặc dụng.
Theo điều 23 trong quy chế quản lý rừng đã nêu rõ :
1. Việc ổn định đời sống dân cư sống trong các khu rừng đặc dụng thực hiện
theo quy định tại Điều 54 của Luật Bảo vệ và phát triển rừng.
2. Diện tích rừng sản xuất nằm xen kẽ trong rừng đặc dụng được bảo vệ, phát
triển và sử dụng theo quy định tại Chương IV Quy chế này.
3. Diện tích đất ở, ruộng, vườn và nương rẫy cố định của dân cư sống trong
rừng đặc dụng khơng tính vào diện tích rừng đặc dụng nhưng phải được thể hiện
trên bản đồ, cắm mốc ranh giới rõ ràng trên thực địa và quản lý theo quy định của
pháp luật về đất đai.
Trong quyết định số 192/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt
chiến lược quản lý hệ thống KBTTN Việt Nam đến năm 2010 đã chỉ rõ :
- Kế hoạch quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn thiên nhiên
phải tham khảo đầy đủ nguyện vọng về kinh tế và thu hút sự tham gia của các cộng
đồng dân cư sống xung quanh KBTTN.
- Làm rõ mối quan hệ giữa vùng đệm và khu bảo tồn thiên nhiên bằng các giải
pháp xây dựng Qui chế hoạt động và nguyên tắc phối hợp giữa vùng đệm với khu
bảo tồn thiên nhiên. Qui định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia quản lý



11

vùng đệm, đặc biệt đối với cộng đồng các dân tộc trên mỗi địa phương có khu bảo
tồn thiên nhiên.
Tiếp theo là chỉ thị số 08/2006/CT- TTg ngày 08/3/2003 về tăng cường các
biện pháp cấp bách ngăn chặn tình trạng chặt phá, đốt rừng, khai thác rừng trái
phép.
Nghị định số 109/2003/ NĐ- CP ngày 23/9/2003 về bảo tồn và phát triển bền
vững các vùng đất ngập nước.
Quyết định số 62/2005/QĐ- BNN ngày 12/10/2005 quy định tiêu chí phân loại
rừng đặc dụng.
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2001 – 2010.
Như vậy, Việt Nam đã và đang trong quá trình đổi mới công tác quản lý rừng
dưới sự đồng thuận của các hộ gia đình( HGĐ) và các tổ chức địa phương (Barney
2005). Chính phủ ngày càng trao cho người dân địa phương nhiều quyền hơn trong
công tác quản lý rừng. Tuy nhiên trong môi trường biến động hiện nay, việc nhận
thức về quyền của người dân địa phương vẫn cịn hạn chế, các cơ quan nhà nước
cịn ít quan tâm đến kiến thức và quan điểm của địa phương trong quá trình cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như việc phân cấp quản lý. Thách thức được
đặt ra là làm thế nào để các bên tham gia hiểu rõ hơn về quan điểm của các cộng
đồng dân cư sống trong hoặc gần khu bảo tồn. Bên cạnh đó, việc xác định rõ năng
lực của địa phương trong công tác quản lý rừng đặc biệt là quản lý các khu rừng đặc
dụng nhằm đảm bảo việc ra quyết định đạt hiệu quả cao là hết sức cần thiết.
1.2.2. Các thành quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn
Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên
(1997), đã đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa phương
vào rừng. Tác giả đã chỉ ra rằng: Diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc Việt Nam
đã giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác như: tre

nứa, nấm, cây dược liệu, động vật hoang dã và được xem như là nguồn sinh kế chủ
yếu của người dân miền núi [20, tr 1-2].


12

Đánh giá hiệu quả của công tác bảo vệ các KBT ở Việt Nam, Nguyễn Bá
Thụ (1997) đã nhận định: Công tác này phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết
những vấn đề tồn tại trên vùng đệm gồm nâng cao đời sống của nhân dân vùng đệm,
chuyển đổi hoặc thay thế tập quán dùng củi, gỗ bừa bãi lãng phí của người dân sống
trên vùng đệm; nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác nông lâm nghiệp, đẩy mạnh
thâm canh, nâng cao năng suất cây trồng, nhanh chóng từ bỏ lối canh tác du canh,
quảng canh, nâng cao trình độ hiểu biết về bảo tồn, sử dụng hợp lý và bền vững tài
nguyên cho người dân địa phương [42].
D.A. Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), đã thực hiện một nghiên cứu về
quản lý vùng đệm tại 3 VQG: Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên. Kết quả nghiên cứu đã
phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt nam như: Tình hình KT-XH, tình
trạng bảo tồn tại các VQG và vùng đệm; hoạt động phát triển trong các vùng đệm;
tổ chức, thể chế cho quản lý vùng đệm [19].
Việc xây dựng vùng đệm Kỳ Thượng ở KBTTN Kẻ Gỗ được Võ Quý và
Đồng Nguyên Thụy nghiên cứu trong đề tài KT02 – 08 – 1992. Nghiên cứu đã chỉ
ra rằng để có thể bảo vệ được rừng thì điều cần thiết phải cộng tác với nhân dân địa
phương, động viên họ bảo vệ rừng và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ bằng
cách giúp họ nâng cao năng suất lúa với giống mới phù hợp với địa phương, thực
hiện nông lâm kết hợp, tổ chức trồng cây ăn quả, nuôi ong, xây dựng thủy điện nhỏ
cho gia đình…Huấn luyện nhân dân cách xây dựng và quản lý vùng đệm, sử dụng
bền vững tài nguyên rừng (TNR), giảm bớt sức ép lên rừng [36].
Báo cáo tại hội thảo quốc gia năm 1999 với chủ đề: Để cuộc sống và môi
trường của người dân miền núi được bền vững, tác giả Võ Quý cho rằng để duy trì
cuộc sống, nhiều người sinh sống trong các KBT buộc phải khai thác các nguồn tài

nguyên thiên nhiên ở đây mà đáng ra họ phải góp phần bảo vệ. Vì vậy, để giải quyết
mâu thuẫn nói trên phải chú ý đến vấn đề KT-XH phức tạp mà chủ yếu là tìm cách
hữu hiệu để cải thiện mức sống của người dân, nhất là những người dân nghèo,
đồng thời phải nâng cao nhận thức của họ về bảo vệ thiên nhiên và môi trường, sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, kể cả đất và rừng mà họ có trách nhiệm bảo vệ


13

và họ được quyền quyết định cách sử dụng tốt nhất cho cuộc sống của họ và cho cả
cộng đồng.
Về quan hệ đồng tác trên cơ sở cộng đồng trong vùng đệm các KBTTN, Lê
Quý An (2001) đã khẳng định quản lý và phát triển vùng đệm trên cơ sở cộng đồng
là phát huy lợi thế của cộng đồng, hạn chế tác động tiêu cực trong các hoạt động
bảo tồn. Cộng đồng cịn có thể phát huy những mặt hay của phong tục, tập quán
trong mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, trong mối quan hệ giữa con
người và thiên nhiên để xây dựng nề nếp của cuộc sống lành mạnh về mặt mơi
trường, góp sức cho việc bảo tồn [1].
Nguyễn Thị Phương (2003) khi “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa
phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì- Hà Tây” đã vận dụng phần
mềm SPSS trong việc tổng hợp và xử lý số liệu về hình thức tác động và các
nguyên nhân tác động và chỉ ra rằng: Cộng đồng ở đây sống chủ yếu bằng nghề
nơng nhưng diện tích đất nơng nghiệp rất ít và năng suất lúa thấp. Vì vậy, để giải
quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày họ tác động tới tài nguyên rừng dưới nhiều hình
thức như: sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá, khai thác sản phẩm với mục đích
tiêu dùng, chăn thả gia súc….trong đó hình thức sử dụng đất rừng để sản xuất hàng
hố cho tỷ trọng thu nhập cao nhất trong cơ cấu thu nhập của cộng đồng (36,4%).
Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các
dân tộc, các nhóm hộ khác nhau [32].
Hồng Quốc Xạ (2005) đã có sự kết hợp tốt giữa phân tích định tính và định

lượng trong việc xác định các hình thức tác động và nguyên nhân tác động khi
nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến TNR tại vùng đệm VQG Xuân
Sơn tỉnh Phú Thọ. Các giải pháp được tác giả đưa ra tuy bao hàm nhiều lĩnh vực
song chưa dựa trên các yếu tố đã được phân tích cụ thể tại khu vực nghiên cứu và
chưa thể hiện được tính khả thi của các giải pháp đưa ra [73].
Ngơ Ngọc Tun (2007) đã lượng hố tốt và thể hiện sinh động ảnh hưởng
của các yếu tố sản xuất đển tổng thu nhập của hộ gia đình cũng như mối quan hệ
giữa tổng thu nhập với các nhân tố trong khai thác TNR thông qua việc thực hiện


14

nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến TNR tại KBTTN Na Hang,
Tuyên Quang. Tác giả đã lựa chọn 4 dân tộc chính trong khu vực, mỗi dân tộc 30
HGĐ để phỏng vấn, nhưng chưa chỉ ra cho người đọc cách thức và nguyên tắc chọn
mẫu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày
người dân đã tác động tới TNR dưới nhiều hình thức song “sử dụng tài nguyên
rừng” là hình thức có tác động bất lợi nhất, các dân tộc khác nhau thì mức độ tác
động cũng khác nhau. Nghiên cứu đã sử dụng hàm Cobb-Douglas để phân tích ảnh
hưởng của các yếu tố đến thu nhập của HGĐ, tuy nhiên phân tích mới dừng lại ở 3
yếu tố nguồn lực mà chưa phân tích đến các yếu tố hiệu quả [60].
Năm 2001, Đỗ Anh Tuân thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBTTN Pù mát
cho đề tài ảnh hưởng của bảo tồn tới sinh kế của các CĐĐP và thái độ của họ về
các chính sách bảo tồn. Tác giả chủ yếu đánh giá sự thay đổi sinh kế của người dân
địa phương do sự ảnh hưởng của KBT và mức độ chấp nhận của cộng đồng thông
qua việc phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và tài nguyên. Nghiên cứu cho rằng
hầu hết người dân địa phương vẫn còn sử dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại
thời điểm nghiên cứu, trung bình, 34% tổng thu nhập hàng năm của một hộ gia đình
trong vùng đệm và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình (HGĐ) trong vùng bảo
vệ nghiêm ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30% 71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương.

Mặc dù đã có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại KBTTN, nhưng chúng
chưa bù lại được những mất mát do thành lập KBTTN [63].
Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự ( 2002) dưới sự hỗ trợ của chương trình hỗ trợ
lâm nghiệp xã hội, trung tâm đào tạo Lâm nghiệp xã hội đã thực hiện một nghiên
cứu về khả năng thu hút các cộng đồng địa phương vào quản lý và sử dụng đất lâm
nghiệp tại khu phục hồi sinh thái (PHST). Các tác giả cho rằng hệ thống chính sách
hiện nay là đầy đủ để có thể thu hút CĐĐP vào quản lý, sử dụng các khu rừng đặc
dụng, không thể loại trừ cộng đồng ra khỏi quyền hưởng lợi từ VQG và đề xuất mơ
hình quản lý đất đai trong khu PHST của VQG Ba Vì [28].


15

Khuất Thị Lan Anh (2009) khi: “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa
phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ - tỉnh Bắc Kan” đã
nghiên cứu các yếu tố kinh tế và xã hội chi phối các hình thức và mức độ tác động
bất lợi của người dân địa phương tới tài nguyên rừng. Đề tài đã phần nào lượng hóa
được mức độ tác động của người dân tới KBT như: Sử dụng tài nguyên rừng, khai
thác các sản phẩm rừng, sử dụng đất rừng để chăn thả gia súc, tác động đến TNR do
các nguyên nhân rủi ro, các hoạt động khai thác vàng…Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu
nghiên cứu các tác động tích cực của người dân. Thêm vào đó, các giải pháp đưa ra
cịn chung chung, chỉ mang tính chất định hướng, chưa đi sâu vào các giải pháp
mang tính khả thi đối với địa phương [3].
Trần Ngọc Thể (2009) khi: “Nghiên cứu tác động của người dân địa phương
tới tài nguyên rừng tại VQG Ba Bể - tỉnh Bắc Kan”đã đưa ra 1 hệ thống cơ sở lý
luận và thực tiễn trong nghiên cứu tác động của người dân tới các KBT. Ngồi ra đề
tài cịn lượng hóa được mức độ tác động của người dân tới tài nguyên rừng ở VQG
Ba Bể bằng cách phân tích các yếu tố sản xuất ảnh hưởng tới tổng thu nhập của các
HGĐ thơng qua hàm Cobb Douglas (hàm sản xuất có độ co giãn không đổi).
Nghiên cứu đã đưa 7 biến sản xuất (diện tích đất, số lao động chính, phân bón, đầu

tư bằng cơng, khai thác gỗ, chăn thả gia súc, số khẩu), 11 biến hiệu quả (Học vấn
chủ hộ, độ cao, loại kinh tế hộ, mức độ gần rừng, dân tộc DT1T, dân tộc DT2T,
mức độ thuận tiện giao thông, khả năng tiếp cận thị trường, tỷ lệ LĐC/số khẩu, số
lần đốt nương rẫy, sử dụng giống) vào mô hình để phân tích, kết quả cho 4 biến sản
xuất và 6 biến hiệu quả tồn tại trong mơ hình. Kết quả cho thấy: Tồn tại mối quan
hệ rất chặt giữa tổng thu nhập từ rừng với 4 yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và
6 yếu tố hiệu quả với hệ số xác định R2 =0.93( F=14.601, Sig.F=0.000); và 93%
biến động của thu nhập được giải thích bởi các yếu tố này [43]. Đây là 1 nghiên cứu
mẫu có ý nghĩa tham khảo rất tốt. Tuy nhiên, đề tài chỉ tập trung phân tích các tác
động bất lợi của người dân địa phương tới tài nguyên rừng( TNR) của VQG Ba Bể
mà chưa quan tâm tới những tác động tích cực của người dân, trong khi đó sự tham


16

gia của người dân theo hướng tích cực là phần không thể thiếu đối với công tác bảo
tồn ở bất kỳ VQG nào.
1.2.3. Những nghiên cứu tại khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến
KBTTN Thượng Tiến từ khi thành lập đến nay chưa có một nghiên cứu cụ
thể nào về tác động của người dân tới TNR của khu bảo tồn. Một số nghiên cứu mới
chỉ đề cập đến giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học có sự tham gia của người dân.
Theo Nguyễn Minh Thanh (2004) khi: “ Nghiên cứu một số giải pháp bảo tồn đa
dạng sinh học có người dân tham gia tại xã Thượng Tiến thuộc Khu bảo tồn thiên
nhiên Thượng Tiến – tỉnh Hòa Bình” đã chỉ ra những tác động chính của người dân
tới KBT như: Khai thác gỗ, củi, săn bắt động vật hoang dã, khai thác LSNG, chăn
thả gia súc….Đồng thời tác giả cũng đề xuất một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh
học có sự tham gia của người dân [42]. Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu phân tích các
tác động của người dân theo từng nhóm hộ và chưa định lượng được mức độ tác
động tới Khu bảo tồn.
Ngoài ra, các tác giả khác đã tiến hành nghiên cứu bảo tồn một số loài động

thực vật ở Khu bảo tồn Thượng Tiến như: Nguyễn Thị Bích Ngọc (2005), Nguyễn
Văn Giáp (2008), Lưu Quang Vinh (2009)….
1.3. Những kết luận rút ra phục vụ cho nghiên cứu
Như vậy, Mối quan hệ giữa cộng đồng người dân với công tác bảo tồn ở các
khu rừng đặc dụng đã và đang được nghiên cứu dưới nhiều góc nhìn khác nhau.
Một số nghiên cứu đã xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn khá đầy đủ cũng như đã
lượng hóa được hình thức và mức độ tác động của cộng đồng người dân tới tài
nguyên rừng của một số khu rừng đặc dụng. Các nghiên cứu khác lại tập trung vào
phân tích mức độ phụ thuộc của người dân vào TNR. Tuy nhiên, cách tiếp cận của
các nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở khía cạnh phân tích các tác động bất lợi mà chưa
đề cập tới các tác động tích cực từ phía người dân trong cơng tác bảo tồn. Ngoài ra
các nghiên cứu chỉ đưa ra các giải pháp chung chung, mang tính chất định hướng,
chưa giải quyết các mâu thuẫn phát sinh từ thực tế.


17

Hiện nay, số lượng khu rừng đặc dụng của nước ta ngày càng tăng lên( 164
khu rừng đặc dụng – theo thống kê của IUCN)[24], trong khi đó mỗi khu rừng đặc
dụng lại có đặc trưng về quy mơ, sinh thái, phân bố dân cư, tình hình kinh tế, xã hội,
phong tục tập quán….khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa cộng
đồng người dân với các khu rừng đặc dụng nhằm đề xuất các giải pháp thu hút
người dân tham gia công tác bảo tồn ở mỗi VQG, KBTTN trên phạm vi cả nước là
việc cần thiết.


18

Chương 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu

2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu góp phần xây dựng các luận cứ khoa học giải quyết mối quan hệ
giữa bảo tồn ĐDSH và sinh kế của người dân sống trong và cạnh VQG, KBTTN ở
Việt Nam nói chung và ở KBTTN Thượng Tiến nói riêng. Đồng thời, nghiên cứu
cũng góp phần cung cấp cơ sở thực tiễn quan trọng cho công tác quản lý, bảo vệ và
phát triển bền vững tài nguyên rừng trên cơ sở cộng đồng địa phương.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được các hình thức và mức độ tác động của người dân vào TNR
tại KBTTN Thượng Tiến – huyện Kim Bơi - tỉnh Hồ Bình.
- Xác định được các nguyên nhân dẫn tới tác động tích cực và bất lợi của
người dân địa phương tới TNR.
- Đề xuất các giải pháp phát huy tác động tích cực và giảm thiểu tác động bất
lợi nhằm thu hút người dân tham gia quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững TNR tại
KBT Thượng Tiến - huyện Kim Bôi - tỉnh Hồ Bình.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tác động tích cực và bất lợi của
cộng đồng người dân sống ở PK bảo vệ nghiêm ngặt, PKPHST và vùng đệm của
KBTTN Thượng Tiến - huyện Kim Bơi - tỉnh Hồ Bình.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung vào việc xác định các tác động tích cực và bất lợi của
cộng đồng người dân vào TNR tại KBTTN Thượng Tiến - huyện Kim Bơi - tỉnh
Hồ Bình.
- Cộng đồng người dân sống ở bên trong KBT và vùng đệm là đối tượng
chính của luận văn.


19

- Luận văn tập trung phân tích các nguyên nhân nội tại của các cộng đồng
sống ở PK bảo vệ nghiêm ngặt, PKPHST và vùng đệm của KBT và các ngun

nhân bên ngồi gây ra các tác động tích cực và bất lợi tới KBT.
- Do cộng đồng người dân sống ở trong KBT và vùng đệm của KBTTN
Thượng Tiến chủ yếu là dân tộc Mường nên yếu tố dân tộc không ảnh hưởng tới
việc phân chia các tác động của người dân tới KBT.
- Luận văn tập trung vào các tác động tích cực và bất lợi tới TNR ở KBT của
các HGĐ Khá, Trung bình và Nghèo ( kế thừa kết quả phân loại hộ gia đình của địa
phương)(xem phụ lục 03).
2.4. Nội dung nghiên cứu
- Xác định và phân tích các tác động tích cực và bất lợi của cộng đồng người
dân tới TNR ở KBTTN Thượng Tiến – huyện Kim Bơi - tỉnh Hồ Bình.
- Phân tích các nguyên nhân dẫn tới các tác động tích cực và bất lợi của
người dân địa phương tới TNR.
- Đề xuất các giải pháp phát huy các tác động tích cực và giảm thiểu các tác
động bất lợi tới TNR và thu hút người dân tham gia quản lý, bảo vệ và sử dụng bền
vững TNR.
2.5. Quan điểm và Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm và phương pháp luận nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành dựa vào các quan điểm sau đây: Lý luận về lý
thuyết hệ thống; Quan điểm sinh thái nhân văn; Quan điểm bảo tồn – phát triển;
Tiếp cận có sự tham gia.
2.5.1.1. Lý luận về lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong các ngành khoa
học giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương hỗ. Cơ sở lý thuyết hệ
thống được L.vonbertanlanfy đề xướng vào đầu thế kỷ XX và nó được sử dụng như
một cơ sở để giải quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp.


20

Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau, có quan hệ và

tác động qua lại. Áp dụng quan điểm tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu có nghĩa
là: Khi nghiên cứu một hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội ta phải xem xét đối tượng
nghiên cứu trong mối quan hệ với các hiện tượng khác, vì mọi hiện tượng đều có
mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mặt khác mỗi hiện tượng đều nằm trong trạng thái
biến đổi và phát triển mà nguồn gốc và động lực chủ yếu của hiện tượng đó nằm
trong bản thân sự vật, vì vậy việc nghiên cứu một sự vật phải xem lý thuyết hệ
thống là nền tảng của phương pháp luận.
Áp dụng quan điểm hệ thống trong phân tích mối quan hệ giữa người dân địa
phương và TNR cho thấy: Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt
động trong hệ thống KT-XH và tác động tới hệ thống tự nhiên
+ Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong hệ
thống kinh tế có nghĩa là các yếu tố trong hệ thống kinh tế như nguồn thu nhập, chi
phí, mức sống, nhu cầu của thị thường, các nguồn sinh kế, lợi nhuận.... có ảnh
hưởng tới các hình thức và mức độ tác động của người dân tới TNR. Ngược lại các
tác động của người dân đến TNR và mức độ tác động cũng chi phối đến hiệu quả
kinh tế của các HGĐ như: tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, mức độ tác động lớn
hay nhỏ...
Do các tác động của người dân có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố kinh tế
nên có thể tác động vào các yếu tố kinh tế nhằm phát huy tác động tích cực và giảm
thiểu tác động bất lợi của người dân tới TNR trong KBT. Đây là một trong những
cơ sở lý luận quan trọng để đề xuất các giải pháp kinh tế trong luận văn.
+ Các tác động của người dân tới TNR là hoạt động mang tính xã hội. Điều
này được thể hiện ở chỗ: Con người là trung tâm của các tác động tích cực hoặc bất
lợi tới TNR. Các tác động do con người thực hiện và phục vụ cuộc sống của con
người. Vì vây, các tác động chịu sự chi phối của của các yếu tố xã hội như: Nhận
thức của người dân về vai trị của rừng, hiểu biết về chính sách, thể chế, luật pháp
của nhà nước, phong tục tập qn, tín ngưỡng......Ngồi ra, các chính sách của KBT,


21


VQG, chính quyền địa phương, các quy định riêng của cộng đồng cũng ảnh hưởng
không nhỏ tới tác động của người dân địa phương vào TNR.
Ngược lại các tác động của người dân tới TNR cũng thể hiện các yếu tố xã
hội trong một cộng đồng như: Vấn đề công bằng, bình đẳng , tổ chức và thể chế của
cộng đồng có được thực thi, phát triển bền vững...
Từ những phân tích trên cho thấy vấn đề nghiên cứu của luận văn có quan hệ
qua lại với các yếu tố xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu các nguyên nhân xã hội chi
phối các tác động của người dân tới TNR nhằm đề xuất các giải pháp xã hội giảm
thiểu các tác động bất lợi của người dân tới TNR là có cơ sở khoa học.
+ TNR là một hệ thống tự nhiên trong đó các phần tử trong hệ thống có mối
quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Bất kỳ tác động nào từ bên ngoài tới TNR cũng
dẫn tới sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. Trong tự nhiên TNR
tồn tại khách quan, vận động và phát triển theo những quy luật nhất định như: Tái
sinh, sinh trưởng và phát triển, diễn thế....Nếu không tôn trọng quy luật vận động
của tự nhiên hoặc tác động vượt quá giới hạn chịu đựng của tự nhiện thì hệ thống sẽ
suy giảm và có nguy cơ biến mất. Một số người cho rằng: Rừng là tài nguyên có thể
tái tạo được. Nếu khai thác tài ngun rừng ở giới hạn cho phép nào đó thì sau một
thời gian Rừng có thể phục hồi lại. Lý luận này không sai nhưng nhiều người đã lợi
dụng điều này để tác động tới TNR quá mức và không cho thời gian để rừng kịp
phục hồi. Vì vậy, để duy trì TNR như một hệ thống hồn chỉnh trong tự nhiên thì
các tác động của con người phải phù hợp với các quy luật vận động của tự nhiên.
2.5.1.2. Quan điểm sinh thái nhân văn
Đề tài đã vận dụng lý thuyết sinh thái nhân văn, sinh thái văn hóa vào phân
tích các tác động tích cực và bất lợi của người dân tới TNR. Điều này được thể hiện
ở chỗ: Mỗi cộng đồng sinh sống và phát triển đều có các hoạt động KT – XH, sinh
thái, văn hóa đặc trưng. Những yếu tố này ảnh hưởng lớn tới nhận thức và hành
động của mỗi người trong cộng đồng. Các tác động của người dân tới TNR chịu sự
chi phối của các yếu tố KT- XH, sinh thái, văn hóa đó. Tuy nhiên các yếu tố này tác



22

động tới các hoạt động trong cộng đồng ở các giai đoạn khác nhau thì khơng giống
nhau. Có những yếu tố giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng vào thời điểm này
nhưng lại không phải quan trọng vào thời điểm khác.
Để giải thích tác động tích cực và bất lợi của người dân địa phương đến
TNR, đề tài sử dụng tháp sinh thái - nhân văn của Park (1936) đã được Teherani
Kroenner (1992) và Nguyễn Bá Ngãi (2001) mô phỏng.

Hình 2.1. Tháp sinh thái nhân văn trong nghiên cứu sự tác động của người dân địa
phương đến tài nguyên rừng [30]

Mơ hình sinh thái - nhân văn được Park thiết kế theo hình tháp dựa trên các
hoạt động xã hội của cộng đồng chịu sự chi phối của 4 bậc của các nhóm nhân tố
theo trình tự: Bậc sinh thái, bậc kinh tế, bậc thể chế chính sách và bậc đạo đức. Mơ
hình này đề cập đến quan hệ giữa sắp xếp thứ bậc các nhóm nhân tố với các hoạt
động của cá nhân và sự bền vững.
Dựa trên hình tháp này có thể giải thích: Quan hệ giữa tác động tích cực của
người dân địa phương đến TNR có tỷ lệ thuận với phát triển KT-XH của địa
phương và bảo tồn TNR. Ngược lại tác động bất lợi của cộng đồng người dân đến
TNR và phát triển KT-XH địa phương, bảo tồn TNR là quan hệ có xu hướng


23

nghịch. Điều này có nghĩa là khi KT-XH địa phương càng phát triển, điều kiện sống
về vật chất, tinh thần được đảm bảo và công tác bảo tồn TNR được thực hiện tốt thì
các tác động tích cực sẽ tăng lên và các tác động bất lợi tới TNR sẽ càng giảm. Các
tác động tích cực và bất lợi của người dân địa phương vào TNR đều có cơ sở sinh

thái và chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố KT-XH.
Cơ sở sinh thái được được giải thích bằng các yếu tố vật lý, sinh học, được
chia làm 2 loại: Những yếu tố khơng thể kiểm sốt được như khí hậu, thuỷ văn, địa
hình... và những yếu tố có thể kiểm sốt được hoặc hạn chế được như xói mịn, lũ
lụt, sâu bệnh, lửa rừng, hạn hán.... Những yếu tố kiểm soát hoặc hạn chế được cần
được nghiên cứu bằng các giải pháp khoa học công nghệ.
Các yếu tố kinh tế như sinh kế, mức sống của người dân địa phương, nhu
cầu thị trường..., những nhân tố này rất có ý nghĩa đối với sự tác động của người
dân địa phương tới TNR .
Bậc thể chế được giải thích là các yếu tố về thể chế, chính sách, tổ chức
cộng đồng... ảnh hưởng gián tiếp tới những tác động của người dân địa phương đến
TNR.
Bậc đạo đức được hiểu là tập quán, sự nhận thức hay ở mức cao hơn nữa là
văn hoá của các cộng đồng. Mọi tác động của các yếu tố khác đều có thể làm thay
đổi thái độ và nhận thức của cộng đồng.
Theo tháp sinh thái - nhân văn thì bất kỳ một giải pháp nào nhằm phát huy
các tác động tích cực và giảm thiểu những tác động bất lợi tới TNR, bảo tồn và phát
triển bền vững TNR đều phải dựa trên cơ sở sinh thái và đảm bảo được các yếu tố
về KT-XH của cộng đồng người dân địa phương.
2.5.1.3. Quan điểm bảo tồn – phát triển
Theo quan niệm trước đây, các KBTTN thường được xem như một khu vực
tách biệt với thế giới loài người. Quan niệm này đã dẫn đến những sai lầm trong
việc quản lý các KBTTN. Kết quả là thiên nhiên vẫn liên tục bị con người tác động
theo hướng tiêu cực: tàn phá mà nguyên nhân là do những áp lực xã hội và sinh
thái cả trong và ngồi KBT[40]. Theo Chương trình Con người và Sinh quyển (Man


24

and Biosphere Program; viết tắt là: MAB thuộc UNESCO) cho thấy các KBT vẫn

cần có một số khu vực khơng có hoặc chịu rất ít tác động của con người với những
quy định kiểm soát chặt chẽ, được gọi là “vùng lõi”. Bên cạnh đó cần thúc đẩy phát
triển kinh tế thân thiện với môi trường, phát triển giáo dục và bảo tồn các giá trị văn
hóa truyền thống ở các vùng xung quanh được gọi là các “vùng đệm” và chuyển
tiếp trong đó, người dân địa phương đóng vai trị chủ chốt. Có như vậy cơng tác bảo
tồn mới đạt được hiệu quả lâu dài và bền vững ( Theo Khu dự trữ sinh quyển Việt
Nam- Bách khoa toàn thư Wikipedia).
Ngày nay, Con người đã dần nhận thức được vai trò quan trọng của việc liên
kết giữa bảo tồn và phát triển. Trong q trình bảo tồn có các yếu tố phát triển và
trong phát triển vẫn đảm bảo được các yêu cầu của bảo tồn. Theo Gilmour D.A và
Nguyễn Văn Sản (1999) đã đưa ra quan điểm bảo tồn và phát triển là để liên kết
việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển địa phương, bao gồm 3 thành
phần chính (cách tiếp cận) sau:
- Thứ nhất là nếu nhu cầu phát triển cộng đồng tại địa phương đó có thể được
đáp ứng bởi các nguồn thay thế khác thì ảnh hưởng của nó lên tài nguyên sẽ được giảm
bớt và tài nguyên được bảo tồn: “Cách tiếp cận các giải pháp thay thế sinh kế”.
- Thứ hai là nếu cộng đồng rất khó khăn về mặt kinh tế, không thể nào quan tâm
đến việc bảo tồn được vì những nhu cầu thiết yếu của cộng sống vẫn cịn chưa được
đáp ứng thì trước hết cần phải nỗ lực cải thiện nền KT-XH của họ đủ tốt để họ có thể
quan tâm hơn đến việc bảo tồn tài nguyên: “Cách tiếp cận phát triển kinh tế”.
- Thứ ba là CĐĐP đó cũng đồng ý với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
nếu như họ có thể được tham gia một cách tích cực vào việc quy hoạch và quản lý
sử dụng tài nguyên và được chia sẻ lợi nhuận từ tài nguyên đó. Theo cách này, tài
nguyên có thể được bảo tồn trong khi một số nhu cầu cơ bản của người dân địa
phương được đáp ứng thông qua việc sử dụng và khai thác tài nguyên một cách hợp
lý và bền vững: “Cách tiếp cận tham gia quy hoạch”.
Trong 3 cách tiếp cận trên, không thể nói cách tiếp cận nào có hiệu quả hơn
mà tùy thuộc vào điều kiện địa phương nhất định chúng ta nên vận dụng cách tiếp
cận nào cho phù hợp. Trong khuôn khổ của đề tài, tác giả đã vận dụng cả 3 cách



×