Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Một số giải pháp thúc đẩy cơ cấu lao động trên địa bàn huyện lương sơn tỉnh hòa bình giai đoạn 2010 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

PHÙNG THỊ LAN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HỒ BÌNH
GIAI ĐOẠN 2010 - 2015

Chun ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.31.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS.TRẦN VĂN DƯ

Hà Nội, 2011


1

MỞ ĐẦU

Trong bất cứ thời đại nào, xét về nguyên tắc sự tăng trưởng, phát triển
kinh tế bao giờ cũng được quyết định bởi nhân tố con người nói chung và lực
lượng lao động nói riêng, bởi tăng trưởng và phát triển kinh tế tuỳ thuộc trước
hết vào năng lực, trí tuệ và ngành nghề của người lao động. Khi chúng ta đi


vào sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố thì nhân tố con người lại càng có
vai trị then chốt, quan trọng hơn các nhân tố khác.
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, đó là một tiềm năng to lớn để phát
triển kinh tế - xã hội, đó là một thế mạnh. Tuy nhiên, nguồn lao động vẫn
chưa được sử dụng đầy đủ và có hiệu quả, cơ cấu lao động chưa hợp lý, chất
lượng nguồn lao động cũng như năng suất lao động xã hội còn thấp, tỷ lệ lao
động khơng có việc làm và thiếu việc làm còn khá cao.
Trong những năm gần đây lực lượng lao động huyện Lương Sơn tăng
nhanh, với mức cung về số lượng lao động lớn nhưng về cơ cấu lao động thì
lại khơng hợp lý và chất lượng lao động lại thấp, dẫn đến tình trạng vừa thừa
lại vừa thiếu lao động, thừa lao động phổ thông, nhưng thiếu lao động có trình
độ chun mơn kỹ thuật. Nhìn chung trình độ văn hố của lao động nước ta
tương đối cao nhưng đại bộ phận là không được qua đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ. Cơ cấu lao động bất hợp lý, vấn đề đặt ra trong thời kỳ hiện nay ở
Viêt Nam là phải chuyển dịch cơ cấu lao động giữa cả ba khu vực là: công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Chuyển dịch cơ cấu lao động tạo điều kiện, là tiền đề cho chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động phù hợp sẽ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, làm cho nền kinh tế đi lên, ngược lại cơ cấu kinh tế khơng hợp lý
sẽ kìm hãm sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Cơ cấu lao động được phân theo


2

nhiều loại: cơ cấu thành phần, cơ cấu lao động theo ngành nghề, cơ cấu theo
trình độ chun mơn, cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ....
Với mục tiêu quan trọng của việc chuyển dịch cơ cấu lao động nên em
đã chọn đề tài nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ: “Một số giải pháp thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình

giai đoạn 2010 - 2015” để góp phần đưa ra một cơ cấu lao động một cách hợp
lý hơn góp phần phát triển đất nước.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG

1.1. Một số khái niệm về chuyển dịch cơ cấu lao động
1.1.1. Cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động là phạm trù kinh tế xã hội, phản ánh hình thức cấu tạo
bên trong của tổng thể lao động, sự tương quan giữa các bộ phận và mối quan
hệ giữa các bộ phận đó. Đặc trưng của cơ cấu lao động là mối quan hệ tỷ lệ về
mặt số lượng và chất lượng lao động theo những tiêu chí nhất định.
Là một phạm trù kinh tế – xã hội, cơ cấu lao động có những thuộc tính
cơ bản, đó là tính khách quan, tính lịch sử và tính xã hội:
i) Tính khách quan: Cơ cấu lao động bắt nguồn từ dân số và cơ cấu kinh
tế, quá trình vận động của dân số và cơ cấu kinh tế có tính khách quan do đó
nó quy định tính khách quan của cơ cấu lao động.
ii) Tính lịch sử: Q trình phát triển của lồi người là q trình phát triển
của các phương thức sản xuất, mỗi phương thức sản xuất có một cơ cấu kinh
tế đặc trưng, nên cơ cấu kinh tế có tính lịch sử. Được bắt nguồn từ cơ cấu
kinh tế nên cơ cấu lao động cũng có tính lịch sử.
iii) Cơ cấu lao động mang tính xã hội sâu sắc: Cơ cấu lao động phản ánh
sự phân công lao động xã hội. Q trình phân cơng lao động xã hội thể hiện
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện quá trình phát triển của
con người. Mỗi hình thức phân công lao động sẽ tạo nên một cơ cấu lao động
mới. Xét trên phương diện sản xuất, cơ cấu lao động không những phản ánh
các giai tầng của xã hội trong nền sản xuất mà còn phản ánh các hoạt động

kinh tế của các giai tầng xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển.
Nghiên cứu cơ cấu lao động nghĩa là nghiên cứu sự phân chia lao động
thành các nhóm, các bộ phận khác nhau dựa theo những tiêu chí cụ thể tuỳ
thuộc vào mục đích nghiên cứu.


4

Thông thường, cơ cấu lao động được chia làm hai loại : cơ cấu cung về
lao động (theo khả năng) và cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
(theo cầu). Cơ cấu cung lao động là một trong các yếu tố phản ánh số lượng
và chất lượng của nguồn nhân lực, còn cơ cấu lao động đang làm việc phản
ánh sự phân bố của lao động theo các ngành, khu vực, và theo các tiêu chí
khác. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu lao động theo cung cầu được hình
thành từ quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động Tùy theo giác độ
nghiên cứu mà người ta chia ra các loại cơ cấu lao động khác nhau:
Xét theo khơng gian, hình thành cơ cấu lao động theo vùng, lãnh thổ;
cơ cấu lao động theo khu vực thành thị – nông thôn. Loại cơ cấu này dùng để
đánh giá tình trạng phân bố lao động xã hội theo khơng gian.
Xét theo tính chất các yếu tố tạo nguồn, hình thành cơ cấu lao động
theo độ tuổi; cơ cấu lao động theo trình độ… Loại cơ cấu này dùng để đánh
giá thực trạng về tình hợp lý trong sử dụng lao động.
Xét theo các ngành kinh tế, hình thành cơ cấu lao động theo ngành, đây
là cơ cấu lao động đang làm việc trên các vùng, lãnh thổ được chia theo
ngành hay nhóm ngành kinh tế. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá thực trạng
phân bố, chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế quốc dân.
Xét theo từng ngành kinh tế, hình thành cơ cấu lao động theo nội bộ
ngành. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá tình trạng phân bố lao động làm việc
trong nội bộ các ngành của nền kinh tế.
Ngồi ra, tùy thuộc mục đích nghiên cứu có thể chia cơ cấu lao động làm

nhiều loại khác nhau như cơ cấu lao động theo giới tính, theo nghề nghiệp …
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ
phận trong tổng thể lao động theo một khoảng thời gian nào đó. Cịn chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng như
xu hướng vận động về lao động của các ngành diễn ra trong một không gian,
thời gian và theo xu hướng nhất định .


5

Thực chất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là quá
trình phân bố lại lực lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế theo những
xu hướng tiến bộ nhằm mục đích sử dụng lao động có hiệu quả hơn. Q trình
phân bố lại lực lượng lao động vừa diễn ra trên quy mơ tồn bộ nền kinh tế
vừa diễn ra theo phạm vi của từng nhóm ngành. Lao động của một ngành thay
đổi chỉ khi có sự thay đổi về số lượng lao động trong nội bộ ngành đó. Chẳng
hạn, nếu lao động của nhóm ngành nơng nghiệp giảm đi, thì rõ ràng việc giảm
này là do sự thay đổi lao động của 3 ngành nhỏ nơng nghiệp, lâm nghiệp và
ngư nghiệp. Có thể trong mỗi ngành nhỏ số lao động có thể tăng lên hay giảm
xuống nhưng xét trên cả 3 ngành thì số lao động giảm đi. Như vậy, ở đây đã
có sự thay đổi về lao động của từng ngành nhỏ so với tổng số lao động của
ngành nơng nghiệp, đây chính là sự thay đổi về cơ cấu lao động trong nội bộ
ngành nơng nghiệp.
Có thể khẳng định rằng có mối liên hệ mật thiết giữa việc chuyển dịch
cơ cấu lao động nội bộ ngành và sự thay đổi lao động của ngành, suy rộng ra
đó là mối liên hệ giữa việc chuyển dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành và cơ
cấu lao động theo ngành. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành gắn liền với sự thay đổi cấu trúc lao động trong nội bộ mỗi ngành.
Hơn nữa, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành còn làm thay đổi

chất lượng lao động trong từng ngành. Mỗi ngành đều có những đặc tính
riêng, do đó đặc điểm sử dụng lao động của các ngành khác nhau đặc biệt là
trình độ của lao động. Do vậy, quá trình chuyển dịch dẫn đến sự di chuyển về
lao động và sự di chuyển này kéo theo sự thay đổi về chất lượng lao động của
từng ngành.
1.1.3. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là hình thức cấu tạo bên trong của nền
kinh tế, là tổng thể các quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng tương đối
ổn định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản
xuất xã hội trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu của nền
kinh tế được nghiên cứu theo nhiều phương diện khác nhau, trong đó phổ biến


6

hơn cả là theo phương diện ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế được hiểu là sự tương quan giữa các ngành trong
tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về
số và chất lượng giữa các ngành. Các mối quan hệ này được hình thành trong
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, luôn vận động và hướng vào
những mục tiêu cụ thể.
Trong tổng thể nền kinh tế bao gồm nhiều ngành kinh tế khác nhau, số
lượng các ngành này không cố định. Sự phát triển của phân công lao động xã
hội sẽ làm thay đổi về mặt chất và lượng của các ngành kinh tế. Từ đầu thế kỷ
XIX, nhà Kinh tế học Collin Class căn cứ vào tính chất chun mơn hóa của
sản xuất đã chia thành 3 nhóm ngành: Khai thác tài nguyên thiên nhiên (nơng
nghiệp và khai thác khống sản); Cơng nghiệp chế biến; Sản xuất sản phẩm
vơ hình. Sau này, Liên hợp quốc căn cứ vào tính chất hoạt động sản xuất đã
chuyển hoạt động khai thác khống sản sang ngành cơng nghiệp và gọi sản
xuất sản phẩm vơ hình là dịch vụ. Thực ra, nguyên tắc phân ngành xuất phát

từ tính chất phân công lao động xã hội, Biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về
quy trình cơng nghệ của các ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và
dịch vụ. Với nguyên tắc đó, các ngành kinh tế được phân thành 3 khu vực hay
còn gọi là 3 nhóm ngành: Khu vực I bao gồm các ngành nông - lâm - ngư
nghiệp; Khu vực II gồm các ngành công nghiệp và xây dựng; Khu vực III bao
gồm các ngành dịch vụ .
Với sự phân ngành này, cơ cấu ngành được nghiên cứu chủ yếu dưới các
góc độ sau: góc độ thu nhập (nghiên cứu cơ cấu ngành theo GDP), góc độ đầu
tư (nghiên cứu cơ cấu ngành theo lượng vốn đầu tư), góc độ lao động (nghiên
cứu cơ cấu ngành theo lao động).
Nền kinh tế được chia thành 3 nhóm ngành lớn, mỗi nhóm ngành này là
sự kết hợp của các ngành nhỏ hơn có những đặc điểm tương đối giống nhau
và các ngành này đã tạo nên cơ cấu nội bộ ngành.
Nhóm ngành nơng nghiệp bao gồm các ngành: ngành sản xuất nông
nghiệp, ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản


7

Nhóm ngành cơng nghiệp xây dựng bao gồm các ngành: ngành công
nghiệp khai thác, ngành công nghiệp chế biến, các ngành sản xuất – phân phối
điện nước và khí đốt, ngành xây dựng
Nhóm ngành dịch vụ bao gồm các ngành: các ngành dịch vụ kinh doanh
có tính chất thị trường, dịch vụ sự nghiệp, dịch vụ hành chính cơng
Tương đối giống cơ cấu ngành về mặt bản chất, cơ cấu nội bộ ngành
chính là hình thức cấu trúc bên trong của ngành, là các mối quan hệ của các
ngành nhỏ về cả số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu cơ cấu ngành tức là nghiên cứu tổng thể cơ cấu ngành trong
mối quan hệ mật thiết với cơ cấu nội bộ từng nhóm ngành. Việc nghiên cứu
cơ cấu ngành có ý nghĩa rất quan trọng. Xét trên cả hai khía cạnh tăng trưởng

kinh tế và phát triển kinh tế thì cơ cấu ngành được xem là một trong những
yếu tố quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công nghệ,
lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và hợp tác hóa sản xuất. Trạng
thái của cơ cấu ngành phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế của mỗi quốc
gia, đó là tiêu chí để xác định xem nền kinh tế của quốc gia đó là nền kinh tế
nơng nghiệp, cơng nghiệp hay hậu cơng nghiệp.
1.2. Tính tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu lao động
1.2.1. Ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu lao động
Chuyển dịch
Theo Từ điển tiếng Việt thì chuyển dịch là thay đổi hoặc làm thay đổi
vị trí trong quãng ngắn. Chuyển dịch được hiểu ở hai khía cạnh: Thứ nhất, đó
là sự thay đổi từ vị trí này sang vị trí khác, thứ hai, chuyển dịch là quá trình
làm biến đổi các yếu tố trong cấu trúc và mối quan hệ giữa các yếu tố hợp
thành một tổng thể theo chủ đích và phương hướng xác định. Như vậy có thể
hiểu chuyển dịch là chuyển từng quãng ngắn hoặc làm thay đổi cơ cấu thành
phần.


8

Cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động là quan hệ tỷ lệ lao động được phân chia theo một tiêu
thức kinh tế nào đó. Tuy nhiên, ở đây cơ cấu lao động được xem xét dưới hai
góc độ khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhất là liên quan
đến chuyển dịch cơ cấu lao động:
Thứ nhất, cơ cấu lao động xét về mặt nguồn, tức là mặt “cung lao
động”. Cơ cấu cung lao động được xác định bằng chỉ tiêu phản ánh cơ cấu (tỷ
lệ) số lượng và chất lượng nguồn lao động: Dân số trong độ tuổi lao động
không hoạt động kinh tế thường xuyên (khơng có nhu cầu làm việc) và hoạt
động kinh tế thường xuyên (lực lượng lao động); Cơ cấu chất lượng lực lượng

lao động (theo trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật).
Thứ hai, cơ cấu lao động xét về mặt phân công lao động xã hội, tức là
mặt cầu lao động. ở đây, cơ cấu cầu lao động phản ánh tình trạng việc làm
hay sử dụng lao động. Cơ cấu này được biểu thị bằng tỷ lệ lao động phân chia
theo ngành, theo vùng, theo khu vực, theo thành phần kinh tế, theo trạng thái
việc làm.
Cơ cấu lao động xét về mặt cầu sẽ gắn liền và phụ thuộc vào cơ cấu
kinh tế. Tất nhiên, giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động khơng có cùng tỷ lệ
và cũng không chuyển dịch với một tốc độ như nhau, thông thường tốc độ
chuyển dịch cơ cấu cầu lao động chậm hơn tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Điều đó có nghĩa là, tuỳ thuộc vào phạm vi và mục đích nghiên cứu, có thể
phân tích cơ cấu cầu lao động tương ứng với các tiêu thức phân chia cơ cấu
kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu lao động
Vì cơ cấu lao động xét về mặt cầu sẽ gắn liền và phụ thuộc vào cơ cấu
kinh tế vì vậy trước hết chúng tôi đưa ra khái niệm về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm biến đổi cơ cấu kinh tế sao cho phù
hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và xu hướng phát triển chung của
kinh tế thế giới cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là quá trình làm biến đổi các yếu tố của cấu trúc và mối quan hệ


9

giữa các yếu tố đó hợp thành nền kinh tế theo chủ đích và phương hướng xác
định .
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi cấu trúc nền kinh tế dựa trên
sự biến đổi cơ cấu của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Sự biến
đổi này được quy định bởi sự thúc đẩy của lực lượng sản xuất làm cho tốc độ
tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế không đồng đều.

Xét về tổng thể nguồn nhân lực trong xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao
động được xem xét sự biến đổi cấu trúc lực lượng lao động. Vì vậy, có thể
định nghĩa: Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn là q trình biến đổi,
chuyển hố khách quan từ cơ cấu lao động cũ sang cơ cấu lao động mới tiến
bộ hơn, phù hợp quá trình và trình độ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
Xét về lao động nông thôn chuyển dịch cơ cấu lao động được xem xét
trên khía cạnh hẹp hơn. Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình biến đổi cơ
cấu cả chất và lượng lao động nhằm giải quyết nhu cầu việc làm và nâng cao
thu nhập cho hộ.
Để có sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường, người lao động phải có
sức cạnh tranh trên 3 mặt là: nâng cao trình độ (cơ động dọc), chuyển nghề
(cơ động ngang) và chuyển nơi làm việc (cơ động lãnh thổ). Do vậy, sự
chuyển dịch đối với từng người lao động nông thôn được xem xét các mặt
chuyển dịch về trình độ văn hố, trình độ chun mơn kỹ thuật, chuyển dịch
về hình thức làm việc, ngành nghề làm việc, khu vực làm việc và nơi làm
việc.
Từ khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động ở trên có thể định nghĩa
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế như sau: Chuyển dịch cơ cấu
lao động theo ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự
thu hút lao động khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi cấu trúc lao động
theo ngành và mối quan hệ tương quan giữa chúng so với thời điểm trước đó.
Cơ cấu lao động theo ngành của một địa phương chia theo 3 nhóm:
nhóm ngành cơng nghiệp – xây dựng (cơng nghiệp), nhóm ngành nơng, lâm
nghiệp và thuỷ sản (nơng nghiệp), nhóm ngành thương mại và dịch vụ (dịch


10

vụ). Trong từng nhóm ngành có thể cịn được chia thành các ngành và ngành
hẹp theo sự phân cấp trong hệ thống ngành kinh tế quốc dân. Chẳng hạn,

trong nhóm ngành nông- lâm- ngư nghiệp được chia thành: nông nghiệp, lâm
nghiệp, thuỷ sản; trong nông nghiệp lại được chia thành: trồng trọt, chăn nuôi.
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng là sự thay đổi phân công lao
động xã hội về mặt không gian địa lý. Không gian địa lý nơi lao động trong
hộ đang làm việc xác định trong đề tài bao gồm: làm việc tại địa bàn xã đang
sinh sống, khác xã nhưng cùng huyện, khác huyện cùng thành phố và di
chuyển ra ngoài tỉnh.
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế là sự thay đổi tỷ
lệ lao động tham gia vào các thành phần kinh tế tồn tại trong nền kinh tế quốc
dân. Theo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX nền kinh tế nước ta bao gồm các
thành phần: Kinh tế Nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tế cá thể- tiểu chủ, Kinh
tế tư nhân bản tư nhân, Kinh tế tư bản Nhà nước và Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi.
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong hộ theo hình thức làm việc là thay
đổi tỷ lệ lao động trong hộ theo hình thức làm việc, bao gồm các hình thức:
làm công ăn lương, tự làm và kinh tế hộ gia đình.
1.2.2. Mối liên hệ giữa chuyển dịch cơ cấu cung lao động và chuyển dịch
cơ cấu cầu lao động
Dịch chuyển cơ cấu lao động là quá trình biến đổi, chuyển hóa khách
quan từ cơ cấu lao động cũ sang cơ cấu lao động mới tiến bộ hơn, phù hợp
với quá trình và trình độ phát triển kinh tế xã hội, tức là một quá trình nhằm
làm thay đổi cấu trúc và mối liên hệ về lao động theo một mục tiêu nhất định.
Hay nói cách khác, “chuyển dich cơ cấu lao động là q trình phân phối, bố
trí lao động theo những quy luật, những xu hướng tiến bộ, nhằm mục đích sử
dụng đầy đủ và có hiệu quả cao các nguồn nhân lực để tăng trưởng và phát
triển”


11


Ở Việt Nam chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra trên cơ sở quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế, nhằm mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội,
nâng cao năng suất lao động, tạo nhiều việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân. Do đó có thể coi chuyển dịch cơ cấu lao động là cách mạng trong phân
công lại lao động với mục tiêu và xu hướng là tăng tỷ lệ lao động kỹ thuật, có
trình độ tay nghề, lao động làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ
và giảm tỷ lệ lao động giản đơn, thiếu chuyên môn, lao đơng làm việc trong
ngành nơng, lâm, ngư nghiệp.
Theo đó chuyển dịch cơ cấu lao động được biều hiện thông qua sự dịch
chuyển trong cơ cấu cung lao động (là sự dịch chuyển theo hướng thay đổi cơ
cấu phân chia theo các chỉ tiêu số lượng và chất lượng lao động đáp ứng yêu
cầu của sản xuất và thị trường lao động) và cơ cấu cầu lao động (là sự dịch
chuyển cơ cấu lao động đang làm việc phân chia theo các ngành/khu vực kinh
tế, vùng lãnh thổ, thành phần kinh tế, dạng việc làm).
Giữa chuyển dịch cơ cấu cung và cơ cấu cầu lao động có mối quan hệ
qua lại tác động lẫn nhau và kết quả là sự dịch chuyển cơ cấu lao động. Một
mặt muốn chuyển dịch cơ cấu cầu lao động thì cung lao động (cả về số lượng
và chất lượng) phải phát triển đến một trình độ cần thiết phù hợp với yêu cầu
khách quan của nền kinh tế (thể hiện vai trò quyết định của cung lao động tới
cầu lao động). Mặt khác, sự chuyển dịch khách quan có tính quy luật của cơ
cấu cầu lao động, phản ánh q trình xã hội hóa và sự phân công lao động
ngày càng hợp lý, tiến bộ là một trong những các yếu tố giúp cho nền kinh tế
tăng trưởng. Đến lượt mình, nền kinh tế tăng trưởng đời sống nhân dân được
cải thiện, giáo dục, y tế phát triển là điều kiện để cung lao động phát triển cả
về số lượng và chất lượng, tạo ra một sự dịch chuyển trong cơ cấu cung lao
động.Vì vậy dịch chuyển cơ cấu lao động hợp lý còn là quá trình biến đổi để
cung lao động phù hợp với cầu lao động.



12

1.2.3. Tính tất yếu của chuyển dịch cơ cấu lao động
Đề cập đến tính tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu lao động
nông thôn khi chuyển sang nền kinh tế thị trường tức là nói đến sự cần thiết
khách quan, nhu cầu tất yếu chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn trên cơ sở
đánh giá, tổng kết thực tiễn. Nhu cầu thực tiễn khách quan đó sẽ là động cơ và
tạo ra động lực hành động chủ quan của con người tác động vào quá trình
chuyển dịch đó một cách tự giác, hợp quy luật.
Năm 1935, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”,
Fisher đã giới thiệu khái niệm về việc làm ở khu vực thứ nhất, thứ hai và thứ
ba. Fisher quan sát thấy rằng các nước có thể phân loại theo tỷ lệ phân phối
tổng số lao động của từng nước vào 3 khu vực. Khu vực thứ nhất bao gồm sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Khu vực thứ hai bao gồm công nghiệp và xây
dựng. Khu vực thứ ba gồm có vận tải, thơng tin, thương nghiệp, dịch vụ nhà
nước, dịch vụ tư nhân. Theo Fisher tiến bộ kỹ thuật đã có tác động đến sự
thay đổi phân bố lao động vào 3 khu vực này. Trong quá trình phát triển, việc
tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều
kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để đảm bảo lượng
lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì khơng cần đến lượng lao động
như cũ và do vậy, tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm. Dựa
vào các số liệu thống kê thu thập được, Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể
từ 80% đối với các nước chậm phát triển xuống 11-12% ở các nước công
nghiệp phát triển và trong điều kiện đặc biệt có thể xuống tới 5%. Ngược lại,
tỷ lệ lao động được thu hút vào khu vực thứ hai và thứ ba ngày càng tăng do
tính co dãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực này và khả năng hạn chế
hơn của việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là đối với khu vực thứ ba.
ở nước ta trong nền kinh tế kế hoạch hố, tập trung trước đây q trình
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn diễn ra xuất phát từ ý chí chủ quan
của người quản lý, lãnh đạo. Song trong nền kinh tế thị trường q trình

chuyển dịch đó xuất phát từ nhu cầu thực tiễn khách quan trong quá trình phát
triển của nền kinh tế nói chung, của khu vực nơng thơn nói riêng và u cầu


13

phải giải quyết các vấn đề bức xúc về lao động, việc làm, thu nhập và đời
sống người lao động nông thôn.
Hiện nay, nước ta về cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, phần lớn lao
động ở nông thôn và làm nông nghiệp, nên là nước được các tổ chức quốc tế
xếp hạng nền kinh tế có năng lực cạnh tranh thấp. Lao động nông nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn và năng suất thấp là một trong những trở lực chủ yếu hạn
chế tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế.
Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 phát triển kinh tế - xã hội đặt ra nhiệm
vụ trọng tâm và có tính đột phá là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm
phát huy lợi thế, tăng sức cạnh tranh, tính hiệu quả của từng ngành, từng
vùng, từng sản phẩm và trong toàn bộ nền kinh tế; khai thác tối đa các nguồn
lực của đất nước để phát triển nhanh và bền vững; tạo nhiều việc làm cho
người lao động, nâng cao mức sống của các tầng lớp dân cư; chủ động trong
lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới; cơ cấu ngành kinh tế trong GDP
đến năm 2010 dự kiến phải đạt được: tỷ trọng khu vực nông nghiệp khoảng
15-16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 43-44%; dịch vụ 40-41%. Tỷ lệ lao
động nông nghiệp năm 2010 chiếm dưới 50%. Điều này địi hỏi phải có cuộc
cách mạng về phân cơng lại lao động trong tồn bộ nền kinh tế, đặc biệt là
trong nông nghiệp, nông thôn, đẩy nhanh q trình chuyển dịch kinh tế và lao
động nơng nghiệp, nông thôn. Đây là một thách thức cực kỳ to lớn đối với
nước ta trên con đường CNH-HĐH và hội nhập. Nếu chúng ta khơng có giải
pháp khả thi để mỗi năm giảm trên 1% lao động nơng nghiệp thì không thể
thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế mà chúng ta đó đề ra trong chiến
lược. Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nụng nghiệp, nông

thôn trên cơ sở CNH-HĐH, nông thôn là một trong những giải pháp cơ bản
của chiến lược phát triển “rút ngắn” ở Việt Nam.
Chuyển dịch cơ cấu lao động nơng thơn khơng chỉ xuất phátt từ sự địi
hỏi phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, mà cũng là sự đòi hỏi phát
triển của nội tại khu vực nông thôn. Đối với Việt Nam, nông thôn luôn là địa
bàn chiến lược của cả nước. Kinh tế nông thơn tăng trưởng cao, chính trị nơng
thơn ổn định, xã hội nông thôn phát triển theo hướng tiến bộ và công bằng là


14

yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị và phát triển xã hội
của cả nước. Tuy nhiên, nông thôn nước ta vẫn là khu vực chậm phát triển, lợi
thế và tiềm năng nông thôn, nhất là tiềm năng lao động, đất đai, các sản phẩm
nông nghiệp có ưu thế cạnh tranh, chưa được phát huy; sự chênh lệch về trình
độ phát triển giữa nơng thơn và thành thị, về thu nhập giữa lao động nông
nghiệp và công nghiệp, dịch vụ ngày càng giãn cách.
Thực trạng yếu kém của nông nghiệp và kinh tế nông thôn về trình độ
phát triển, hiệu quả và chất lượng là nguyên nhân cơ bản của sự bất cập về
kinh tế và lao động nông thôn hiện nay và ngược lại. Sự bất cập đó thể hiện
rất rõ ở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn diễn ra rất chậm,
đặc biệt là so với yêu cầu của tiến trình đổi mới và CNH-HĐH nơng nghiệp;
tiến bộ đạt được về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn chưa
tạo ra bước đột phá về chất lượng và hiệu quả của phát triển. Bài toán đặt ra ở
đây cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung, cho các vùng nơng thơn
có lợi thế và vùng cịn nhiều khó khăn là phải có các giải pháp đột phá đẩy
nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng sử dụng có hiệu
quả nguồn lao động, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, năng suất lao
động nơng nghiệp, giảm chi phí trung gian để nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm nông nghiệp và kinh tế nông thôn trên thị trường trong nước, khu vực

và quốc tế
Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thơn cịn xuất phát từ địi hỏi khách
quan giải quyết các vấn đề bức xúc về lao động, việc làm, thu nhập và đời
sống của dân cư nông thôn. Xét ở tầm quốc gia, khu vực nông thôn chịu sức
ép rất lớn về lao động, việc làm. Hiện nay, tốc độ tăng nguồn lao động trên
phạm vi cả nước cũng như khu vực nông thôn vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng
dân số và việc làm. Bởi vậy, trên tổng thể khu vực nông thôn luôn luôn dư
thừa lao động. Theo nhận định của tác giả Nguyễn Hữu Dũng (2003) khu vực
nơng thơn chỉ có trên 9,3 triệu ha đất nơng nghiệp, trên 11,5 triệu ha đất lâm
nghiệp có rừng và do đó tạo việc làm trong nơng nghiệp tối đa chỉ sử dụng hết
khoảng 19 triệu lao động, nếu không chuyển dịch được lao động sang làm các
ngành nghề phi nơng nghiệp thì sẽ dư thừa rất lớn lao động nông thôn. Việc


15

làm trong nông nghiệp tạo ra giá trị rất thấp, do năng suất lao động thấp. Nếu
làm nông nghiệp thuần (thuần nơng), nhìn chung cùng lắm cũng chỉ giải quyết
được vấn đề đói và thốt được nghèo, khơng thể vươn lên làm giàu. Thực tế,
bức tranh nông thôn hiện nay cho thấy, nạn thiếu việc làm và việc làm với giá
trị thấp rất nghiêm trọng, 90% người nghèo vẫn thuộc khu vực nơng thơn. Bởi
vậy, bài tốn đặt ra là một mặt phải nâng cao hiệu quả việc làm trong nông
nghiệp, mặt khác phải tạo nhiều việc làm và việc làm có giá trị kinh tế cao
thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động
nơng thơn. Chỉ có như vậy mới mở ra lối thốt cho lao động nơng thơn.
1.3. Vai trị của lao động trong quá trình phát triển kinh tế
1.3.1. Lao động tác động tới tổng cung
Cơ cấu cung lao động được xét trên hai chỉ tiêu chính là cơ cấu số
lượng và chất lượng lao động. Chất lượng lao động thể hiện ở hai tiêu chí đó
là thể lực và trí lực của người lao động. Trong đề tài này chúng tơi chỉ đề cập

đến mặt trí lực của người lao động và trên hai tiêu chí chủ yếu là trình độ học
vấn và trình độ chun mơn kỹ thuật của người lao động. Số lượng lao động
phản ánh tỷ lệ nhân khẩu trong độ tuổi lao động trong hộ tham gia lực lượng
lao động.
Số lượng cung lao động sẽ bao gồm số người sẵn sàng và thời gian mà
họ có thể tham gia làm việc trên thị trường lao động. Cung lao động được
biểu thị thông qua sự biến đổi của các chỉ tiêu sau:
Sự chuyển dịch cơ cấu số lượng cung lao động được biểu thị thông qua
tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Bao gồm:
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao
động thô

Dân số hoạt động kinh tế
=

x 100
Tổng dân số


16

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao
động chung

Dân số hoạt động kinh tế
=

x 100
Tổng dân số từ 15 tuổi trở lên
Dân số nam (nữ) tuổi x tham gia


Tỷ lệ tham gia lực lượng lao
động đặc trưng theo giới và

hoạt động kinh tế
=

tuổi

x 100
Dân số tuổi x

Tổng dân số: toàn bộ dân số sinh sống trên một quốc gia, vùng hoặc tại
thời điểm nhất định và là giới hạn cận trên của tổng cung lao động.
Dân số dưới 15 tuổi: theo quy định của pháp luật Việt Nam đó là nhóm
dân số khơng được tính là thành phần của lực lượng lao động mặc dù trên
thực tế có tham gia lao động.
Dân số từ đủ 15 tuổi trở lên: đây là giới hạn quy định cận dưới của
nguồn lao động tại một thời điểm nhất định.
Dân số hoạt động kinh tế thường xuyên: là những người từ đủ 15 tuổi
trở lên đang làm việc hoặc khơng làm việc nhưng có nhu cầu tìm việc làm tại
một thời điểm nhất định.
Dân số không hoạt động kinh tế thường xuyên: bao gồm những người
từ đủ 15 tuổi trở lên, không làm việc, do đang đi học, làm nội trợ, ốm đau, tàn
tật, già cả hoặc khơng có nhu cầu làm việc.
Dân số từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên: là tổng số người
đang làm việc trong trong một khoảng thời gian theo quy định.
Thất nghiệp: bao gồm những người thuộc lực lượng lao động, khơng
làm việc nhưng đang có nhu cầu tìm việc làm.
1.3.2. Lao động tác động đến tổng cầu

Trong mối tương quan với sản xuất của nền kinh tế, khi năng lực sản
xuất được mở rộng, những nhu cầu lao động được mở rộng theo hướng làm


17

dịch chuyển đường cầu từ D1 sang D2 thay vì thay đổi tiền lương, tiền công
đối với điều chỉnh tạm thời trên thị trường lao động.
Đào tạo là yếu tố cơ bản chủ yếu làm tăng cung lao động. Tuy nhiên
đào tạo là yếu tố cung mang tính dài hạn, khơng phản ứng tức thì trên thị
trường lao động mà phải có q trình và thời gian để đào tạo, thời gian để
người lao động trau dồi kỹ năng, thời gian để chuyển đổi nghề nghiệp, công
việc và đào tạo lại v.v.....
Trong dài hạn khi đào tạo tăng nhanh mức cung lao động ra thị trường
sẽ làm dịch chuyển đường cung từ S1 sang S2. Khi cân đối cung cầu đảm bảo
và đào tạo đáp ứng tốt nhu cầu nền sản xuất thì về cơ bản tiền lương, tiền
cơng (thực tế) khơng có sự thay đổi lớn.
Về cơ bản có thể phân tích mối quan hệ đào tạo, việc làm trên thị
trường lao động thơng qua phân tích quan hệ cung cầu lao động. Xem xét vai
trò chủ động của hệ thống đào tạo nghề trong cung ứng lao động, một số nhân
tố chủ yếu tác động đến cung lao động qua đào tạo như: Đầu vào là học sinh
với trình độ khác nhau (Chất lượng dân số, kết quả giáo dục và phân luồng
đào tạo); và Năng lực cung đào tạo của hệ thống đào tạo nghề.
Cung lao động qua đào tạo nghề quá nhiều tạo sức ép lớn về giải quyết
việc làm cho người lao động. Các nền kinh tế này sẽ buộc phải cải cách
thông qua các chính sách kinh tế vĩ mơ và cải cách thị trường lao động để gia
tăng sức hút, tạo việc trong khu vực tư nhân nhằm điều chỉnh cơ cấu lao động.
Sau đó đa dạng hóa chương trình đào tạo, giúp người lao động thay đổi kỹ
năng cho phù hợp.
Khi nền kinh tế có tốc độ tăng lực lượng lao động lớn hơn nhiều so với

tốc độ gia tăng việc làm, áp lực tạo việc làm gia tăng, áp lực cạnh tranh tìm
kiếm việc làm cũng tăng, dẫn tới xu hướng gia tăng thất nghiệp. Một số quốc
gia đã phải điều chỉnh thơng qua chính sách giáo dục, đào tạo bằng cách
tăng thời gian học tập THCS, THPT, tăng lượng học sinh học nghề thay vì đi
làm ngay bằng cách giảm chi phí giáo dục, và tránh cho học sinh bỏ học. Thời
gian đi học kéo dài hơn đối với toàn bộ lực lượng lao động sẽ giảm bớt số


18

lượng học sinh bỏ học, nghỉ học và tham gia lao động sớm, làm giảm áp lực
việc làm.
Tăng thời lượng đào tạo, kéo dài thời gian học tập để giảm áp lực cung
lao động và cung lao động có trình độ thấp là chính sách mà nhiều quốc gia
đã áp dụng (Hy Lạp, Malaysia). Một số quốc gia điều chỉnh cơ cấu cung bằng
cách tạo điều kiện tăng cung lao động qua đào tạo nghề mà giảm cung lao
động có trình độ đại học (Hy lạp) bằng cách tăng chi phí đào tạo đại học để
nắn dịng chảy học sinh vào học nghề. Cách thức chính phủ mở rộng đào tạo
nghề thơng qua chính sách tài chính khơng phải là mở rộng tín dụng cho đào
tạo nghề, học nghề mà thắt chặt tín dụng đối với đào tạo đại học. Có quốc gia
lại sử dụng chính sách tạo cơ hội tốt hơn và tăng kỳ vọng việc làm của người
lao động qua đào tạo nghề. Kết quả là tăng số người đi học nghề và giảm bớt
áp lực việc làm đối với lao động trẻ.
1.4. Cơ sở lý luận và thực tiễn kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu lao động
1.4.1. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu lao động trên thế giới
1.4.1.1 Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Trung Quốc
Trung Quốc thực hiện chuyển đổi nền kinh tế trước nước ta hàng chục
năm. Do vậy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của nước ta
hiện nay gần tương tự như giai đoạn hai thập kỷ cuối của thế kỷ trước của
Trung Quốc.

Trung Quốc là một quốc gia có diện tích lớn và đông dân nhất trên thế
giới, dân số năm 2002 khoảng 1,3 tỷ người, chiếm 20,7% dân số toàn cầu, gấp
hơn 15 lần dân số Việt Nam. Tỷ lệ dân số thành thị là 36%, tỷ lệ lao động
nông nghiệp năm 2000 của Trung quốc là 50,0% (dẫn theo). Trung Quốc là
nước phát triển kinh tế với tốc độ cao nhất thế giới và tương đối ổn định trong
nhưng năm qua. Trung Quốc thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố khá
thành công trong hai thập kỷ qua. Dân số Trung Quốc với trên 1,2 tỷ người
(năm 2001) và hàng năm có khoảng 11 triệu lao động bước vào tuổi lao động
trong đó nơng thơn có khoảng 6 - 7 triệu người. Q trình cơng nghiệp hố,
đơ thị hố diễn ra nhanh chóng tại nhiều vùng nơng thơn, diện tích canh tác


19

ngày càng bị thu hẹp đã dẫn đến có khoảng 100-120 triệu lao động nơng thơn
khơng có việc làm và thiếu việc làm ở mức nghiêm trọng. Giải pháp chuyển
dịch cơ cấu lao động nông thôn trở nên cấp bách. Trước tình hình đó chính
phủ Trung Quốc đã có chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
ngay tại địa phương. Phát triển các doanh nghiệp hương trấn và đào tạo nguồn
nhân lực phụ vụ cho các doanh nghiệp này đồng thời giải quyết được lao động
dư thừa tại địa phương.
Công cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc đã tác động tích cực đến
lao động-việc làm và đặc biệt là có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu lao
động. Xuất phát điểm của cải cách lao động Trung Quốc giống như lao động
Việt Nam trước đổi mới với dân số vào lao động tập trung ở khu vực nông
thôn và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nơng nghiệp, với loại hình kinh tế
phổ biến là hợp tác xã kiểu cũ. Sau 20 năm cải cách kinh tế lực lượng lao
động khu vực nông thôn giảm mạnh về cơ cấu. Lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp đã giảm chỉ còn chiếm 50%, lao động trong các thành phần kinh tế
Nhà nước và tập thể giảm mạnh; nếu xét năm 1978 ở khu vực thành thị hầu

hết (99,8%) lao động trong các xí nghiệp Nhà nước hoặc hợp tác xã thì năm
2001 chỉ cịn có 37,3% lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác
xã. Lao động làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân Hương trấn đã tăng lên
đáng kể cả về số lượng lẫn cơ cấu. Đến năm 2000 trong 128,195 triệu lao
động tăng lên ở hương trấn thì chỉ có 30% lao động hoạt động ở thành phần
kinh tế Nhà nước, còn 70% lao động hoạt động ở thành thần kinh tế tư nhân
và cá thể. Chỉ trong vòng 4 năm từ năm 1998 đến năm 2001 có trên 25,5 triệu
lao động phải chuyển đổi từ các doanh nghiệp Nhà nước do sự sắp xếp lại lao
động ở khu vực này, cũng thời gian đó có khoảng 150 triệu lao động nơng
thơn di chuyển ra thành thị hoạt động ở khu vực phi kết cấu .
Do nhận biết được các thách thức và chịu sự cạnh tranh quyết liệt khi
hội nhập, Trung Quốc luôn coi trọng chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp
ứng cho phát triển ổn định và bền vững. Để nâng cao trình độ văn hố và kỹ
thuật, Trung Quốc đã cho phép và khuyến khích tất cả các lại hình đào tạo
thơng qua nhiều kênh khác nhau với mục tiêu xây dựng một hệ thống giáo


20

dục nghề nghiệp và kỹ thuật, đào tạo toàn diện và nhiều cấp độ, xã hội hố
cơng tác đào tạo, có các tổ chức đào tạo nghề do cộng đồng đảm nhiệm, đào
tạo tại chỗ tại doanh nghiệp.
Trung Quốc tập trung mạnh vào điều chỉnh cơ cấu việc làm thông qua
việc tăng cường đầu tư, định hướng phát triển ngành, khuyến khích áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Theo Sở Thống kê tỉnh Thiểm Tây , thu nhập ròng của lao động trong hộ
nông dân của tỉnh đạt 2.052 Nhân dân tệ trong năm 2005, tăng 9,9% so với
năm 2004. Tỉnh Thiểm Tây còn xúc tiến tăng thu nhập cho lao động trong hộ
nông dân thông qua các biện pháp như khuyến khích thành lập các doanh
nghiệp nhỏ, phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và xuất khẩu lao

động để thu hút lao động trong hộ nông thôn chuyển dịch nghề nâng cao thu
nhập. Theo đó, có 4.049 triệu người làm việc tại các doanh nghiệp hương
trấn, chuyển dịch 120 nghìn lao động nơng thơn trong năm 2005, tổng mức
lương chi trả cho lao động trong hộ nông thôn lên tới 19,18 tỷ Nhân dân tệ.
Kinh nghiệm của Trung Quốc về chuyển dịch cơ cấu lao động nông
thôn ở chỗ: khuyến khích lao động nơng thơn tạo và tìm việc làm tại địa
phương; điều chỉnh mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp-nông thôn, phát triển
các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn, quan tâm xây dựng các thành phố
nhỏ, thị trấn; tăng cường giáo dục tiểu học và đào tạo nghề cho vùng nông
thôn. Hướng dẫn cho người lao động nơng thơn tìm việc làm ở vùng khác
bằng cách tăng cường mạng thông tin, xây dựng các tổ chức dịch vụ việc làm,
đào tạo cho người lao động trước khi chuyển đổi nghề nông.
1.4.1.2 Chuyển dịch cơ cấu lao động ở một số nước Đông Nam Á
Giai đoạn phát triển hiện nay của Việt Nam tương đồng với thời kỳ đầu
chuyển đổi, phát triển kinh tế của một số quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan và
Inđônêxia thập kỷ 70 và 80 thế kỷ trước. Nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động ở những nước đó có ích cho Việt Nam trong việc đánh giá quá trình
dịch chuyển cơ cấu lao động và rút ra những bài học để thúc đẩy quá trình này
nhằm phát triển kinh tế Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực.


21

Thái Lan và Inđônêxia là hai nước lớn, dân số khá đông ở vùng Đông
Nam á. Nền kinh tế Thái Lan và Inđônêxia đều xuất phát từ nền kinh tế nônglâm-ngư nghiệp, nghèo nàn lạc hậu. Vào những năm đầu thập kỷ 60 thế kỷ
20, kinh tế hai nước đều thấp kém, chủ yếu nhập khẩu và phụ thuộc nhiều vào
nước ngoài. Tuy nhiên, từ giữa thấp kỷ 60 này hai nước cải cách phát triển
kinh tế. Thu hút đầu tư nước ngoài, nền kinh tế hướng tới xuất khẩu và tăng
cường lĩnh vực dịch vụ. Kinh tế Thái Lan và Inđơnêxia có những bước phát
triển nhanh trong thời gian này, cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch tiến bộ kéo

theo cơ cấu lao động chuyển dịch nhanh và chất lượng lao động cao hơn.
Đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
hai nước đó là sự sụt giảm mạnh tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong cơ
cấu GDP. Xu hướng chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp-dịch vụ-nông
nghiệp. Ngành dịch vụ có tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng ở các nước này.
Bảng 2.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động của Thái Lan và Inđơnêxia
Đơn vị tính: %
Inđơnêxia

Thái Lan
Năm

Nơng
nghiệp

Cơng
nghiệp

Dịch

Cơng
nghiệp

Dịch

vụ

Nơng
nghiệp


1977

73,48

6,79

19,73

61,13

9,12

29,75

1980

70,78

8,11

21,11

55,93

9,83

34,24

1985


68,37

8,26

23,37

54,66

9,95

35,39

1990

63,95

10,34

25,71

52,87

10,84

36,29

vụ

Nguồn: Jose L.Tongzon (1998) The Economies of Southeast Asia-The Growth and
Devolopment of ASEAN Economies


Trong khoảng hai thập kỷ các nước này đã thốt khỏi kinh tế nơng
nghiệp, tỷ trọng ngành nơng nghiệp trong GDP thấp. Cùng với sự chuyển dịch


22

mạnh mẽ cơ cấu kinh tế thì cơ cấu lao động ở các nước này cũng có sự
chuyển dịch theo xu hướng phi nông nghiệp. Tỷ trọng lao động hoạt động
trong ngành nông-lâm-ngư giảm dần qua các năm, trong khi đó tỷ trọng lao
động làm việc ở các ngành cơng nghiệp và đặc biệt là ngành dịch vụ tăng lên
rõ rệt. Lao động trong ngành nông nghiệp từ chỗ chiếm 61% lực lượng lao
động ở Inđơnêxia vào năm 1977 thì đến năm 1990 còn 55,87%. Tương tự ở
Thái Lan giảm từ 73,48% năm 1977 xuống 63,95% năm 1990 .
Tỷ trọng lao động làm việc ở ngành công nghiệp chế biến có xu hướng
tăng lên, và lao động dịch chuyển theo xu hướng của chuyển dịch cơ cấu kinh
tế: công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp.
Bên cạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Thái Lan và Inđônêxia rất quan
tâm đến đào tạo nguồn nhân lực. Về trình độ học vấn của các nước này tương
ứng với Việt Nam nhưng về chất lượng kỹ thuật của lao động thì hơn hẳn.
Thái Lan và Inđơnêxia đều là nước có thị trường giáo dục-đào tạo mở, nhất là
hệ dạy nghề và cao đẳng đại học. Xu hướng khuyến khích cơng dân đi du học
ở những nước tiến tiến sau đó quay về phục vụ đất nước.
Những kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu lao động ở Thái Lan và
Inđơnêxia, đó là: Mở của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài, thúc
đẩy nội lực phát triển. Kinh tế hướng xuất khẩu, phục vụ nhu cầu quốc tế nhất
là đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực du lịch: du lịch biển, du lịch sinh thái, du
lịch văn hoá, v.v.. Phát triển các ngành dịch vụ cao và cho phép các tổ chức
lớn của quốc tế cũng như các ngân hàng, tài chính lớn kinh doanh thuận tiện,
biến đất nước họ thành nơi phục vụ các hội nghị, cuộc họp, khoá học của thế

giới-nơi tiêu tiền của nhiều người trên thế giới. Cởi bỏ mọi rào cản phát triển
kinh tế cũng như sự tự do của người dân, dân cư có di chuyển dễ dàng, cơ hội
tìm kiếm việc làm thuận lợi, sự chuyển đổi nghề, ngành làm việc dễ dàng.
Bên cạnh đó các nước này rất chú trọng đào tạo nghề cho người lao động, chú
trọng đào tạo tác phong lao động công nghiệp, ý thức lao động.


23

1.4.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở Hàn Quốc
Hàn Quốc là con rồng Châu Á đã đạt được những thành tựu huyền diệu
trong CNH- HĐH và ĐTH. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động diễn ra nhanh chóng. Trong những năm đầu của quá trình CNHHĐH và ĐTH chính phủ Hàn Quốc phát triển hệ thống đào tạo, thu hút lao
động nông thôn vào đào tạo các ngành nghề hàm lượng lao động cao như
ngành dệt may, giầy da, công nghiệp chế biến (cuối những năm 1960). Thời
kỳ sau, công nghiệp phát triển mạnh mẽ, lao động nông thôn được đào tạo với
quy mô lớn trong các lĩnh vực sắt thép, hố chất, đóng tàu, xây dựng, điện tử
viễn thông. Sự phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp xuất khẩu, dịch vụ
đã giải quyết được việc làm cho lao động nông thôn mất việc làm trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động; trong lực lượng lao động,
lao động nông nghiệp đã giảm từ 74,1% năm 1950 xuống còn 38,6% năm
1980. Đời sống của dân cư và người lao động nông thôn không ngừng được
nâng cao nhờ tăng nhanh lao động kỹ năng và việc làm có năng suất lao động
cao hơn nhiều so với hoạt động thuần nông.
Ở Hàn Quốc, nông trại nhỏ chiếm ưu thế và việc dư thừa lao động
trong nông nghiệp được giải quyết bằng cách phát triển ngành nghề phi nông
nghiệp hoặc chỉ làm nơng nghiệp một phần (part-time farmer). Năm 1985
bình qn mỗi nơng trại có 3,3 lao động, trong đó 1,3 người làm việc đều
trong một năm, 0,16 người làm nghề nơng là chính, 0,23 người làm nghề khác
là chính có tham gia nghề nông và 1,43 người làm nghề khác, thu nhập phi

nông nghiệp chiếm 35%.
1.4.2. Mối quan hệ giữa q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa và đơ thị
hóa với chuyển dịch cơ cấu lao động nơng thơn ở nước ta
Cơng nghiệp hố - hiện đại hố (CNH- HĐH) và đơ thị hố (ĐTH) là
một tất yếu khách quan của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Việt Nam.
Ngày nay, do tác động của toàn cầu hố và cách mạng khoa học cơng nghệ
q trình này càng diễn ra nhanh hơn. CNH- HĐH và ĐTH diễn ra đã tác


24

động mạnh mẽ tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế-cơ cấu lao động và những biến
đổi xã hội khác của các quốc gia theo cả nghĩa tích cực và tiêu cực.
CNH- HĐH là quá trình chuyển đổi về quy trình công nghệ - kỹ thuật,
cơ chế vận hành trong mọi lĩnh vực sản xuất và dịch vụ xã hội theo hướng cơ
khí hố, điện tử hố, tự động hố với phương pháp sản xuất dây chuyền, sản
xuất lớn và hàng loạt, theo các tiêu chuẩn kỹ thuật chính xác cùng với việc
phát triển quan hệ lao động mới, tác phong lao động công nghiệp. Đồng thời,
tăng cường áp dụng, vận dụng và sáng tạo các thành tựu khoa học, công nghệ
mới, tiên tiến, hiện đại vào các quá trình sản xuất hàng hố. Q trình ĐTH
ln có mối liên hệ, gắn kết với CNH- HĐH, do đó ĐTH phải tính đến các
mục tiêu, yêu cầu của CNH- HĐH, điều này thể hiện trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của Đảng ta. Đây là chiến lược đẩy mạnh
CNH- HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp.
Q trình ĐTH gắn với CNH- HĐH nhằm giải quyết các mối quan hệ
hài hồ, tạo mơi trường thuận lợi cho thúc đẩy lẫn nhau phát triển. ĐTH là
môi trường thuận lợi cho phát triển nhanh các ngành dịch vụ chất lượng và
trình độ cao ở nước ta các năm vừa qua và các năm sắp tới. Quá trình ĐTH
với sự phát triển của dân số đô thị, phát triển các khu công nghiệp, khu chế

xuất có tác động rất lớn đối với sự hình thành và phát triển hệ thống dịch vụ
chất lượng và trình độ cao, hệ thống các trung tâm thương mại, dịch vụ vận
tải, dịch vụ thông tin viễn thơng, khách sạn nhà hàng, tài chính - tiền tệ. Tại
những nơi có tốc độ ĐTH cao, mở cửa tồn diện với các nền kinh tế thị
trường phát triển thì hình thành và phát triển của các trung tâm dịch vụ tài
chính tầm cỡ quốc tế có vai trị lớn trong tạo việc làm dịch vụ chất lượng và
trình độ cao cho lao động đô thị và lao động các vùng phụ cận. Quá trình
ĐTH thúc đẩy phát triển dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời
sống tại các vùng đô thị mới, vùng ven các thành phố lớn, vùng đơ thị hố,
các khu cơng nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu dịch vụ du lịch, giải trí. Các
dịch vụ này đảm bảo sự duy trì hoạt động và phát triển ổn định của các tổ
chức, cơ quan, doanh nghiệp, hộ gia đình.


×