Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Nghiên cứu đề xuất giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn ở huyện cao phong tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------

PHẠM HỮU HUY

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở HUYỆN CAO PHONG
TỈNH HỊA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Hà Nội, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------

PHẠM HỮU HUY

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở HUYỆN CAO PHONG
TỈNH HỊA BÌNH

Chun ngành: Kinh tế Nơng nghiệp
Mã số: 60 62 01 15



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐÌNH HỢI

Hà Nội, 2014


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Lao động và việc làm luôn luôn là vấn đề bức xúc khơng chỉ của riêng
mỗi quốc gia mà nó là vấn đề nóng bỏng mang tính chất tồn cầu, là mối quan
tâm lớn của nhân loại. Việt nam là quốc gia có quy mơ dân số lớn, tuy tốc độ
tăng dân số của nước ta trong thời gian qua đã được kiềm chế nhưng nguồn
lao động xã hội vẫn tăng nhanh. Phần lớn lao động lại làm việc ở khu vực
nơng nghiệp, nơng thơn. Hiện nay nước ta có có gần 70% dân số sống ở khu
vực nông thôn, trong đó lao động làm việc trong lĩnh vực nơng nghiệp chiếm
51%. Một bộ phận lớn lao động chưa có việc làm hoặc có việc làm mà khơng
thường xun. Trong những năm qua Chính Phủ đã có nhiều chương trình và
biện pháp tích cực nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, nhưng
nguồn cung lao động hàng năm vẫn tăng nhanh hơn cầu về lao động, đặc biệt
là ở khu vực nơng thơn. Tình trạng thiếu việc làm và khơng có việc làm
thường xuyên là một trong những nguyên nhân quan trọng của nhiều hiện
tượng tiêu cực về kinh tế xã hội. Vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao chất
lượng nguồn lao động và tăng thu nhập cho người lao động một đòi hỏi bức
xúc. Giải quyết hợp lý những vấn đề này có ý nghĩa lớn về kinh tế, xã hội,
chính trị.

- Huyện Cao Phong là huyện miền núi nằm ở phía tây bắc tỉnh Hịa Bình,
cách thành phố Hịa Bình gần 20km, Phía bắc giáp thành phố Hịa Bình và
huyện Đà Bắc, phía đơng giáp huyện Kim Bơi, phía tây và tây nam giáp
huyện Tân Lạc, phía đơng nam giáp huyện Lạc Sơn. Tổng diện tích tự nhiên
toàn huyện là 255 km2, gồm 12 xã và 1 thị trấn, dân số 40.949 người. Thu
nhập của người lao động cơ bản dựa vào sản xuất nông nghiệp, chất lượng lao
động thấp, lao động phổ thông là chủ yếu, chưa qua đào tạo [13]


2

- Coi trọng và phát huy nhân tố con người, chăm lo giải quyết các vấn đề
bức xúc về xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện và nâng cao đời sống nhân
dân là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để góp phần giữ vững
và ổn định kinh tế.
Vì vậy, “Nghiên cứu đề xuất giải pháp tạo việc làm cho lao động nông
thôn ở huyện Cao Phong, tỉnh Hịa Bình” nhằm đánh giá đúng đắn thực trạng,
tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý, có hiệu
quả nguồn lao động của huyện là một địi hỏi bức xúc có ý nghĩa thiết thực cả
về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết việc làm lao động
nông thôn ở huyện Cao Phong, tỉnh Hịa Bình.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về giải quyết việc
làm nói chung và giải quyết việc làm lao động nơng thơn nói riêng.
- Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở
huyện Cao Phong.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm lao động

nơng thơn ở huyện Cao Phong, tỉnh Hịa Bình trong những năm tới.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc làm cho
lao động nông thôn ở huyện Cao Phong.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Những vấn đề có liên quan đến giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn.


3

+ Phạm vi về không gian nghiên cứu (địa điểm): Huyện Cao Phong,
tỉnh Hịa Bình.
+ Phạm vi về thời gian : nghiên cứu từ năm 2010 đến năm 2012.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn.
- Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở huyện Cao
Phong.
- Đề xuất giải pháp tạo việc làm cho lao động nơng thơn ở huyện Cao
Phong, tỉnh Hịa Bình.


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
1.1.1. Nhận thức chung về việc làm cho lao động nông thôn.
1.1.1.1. Khái niệm về nông thôn

Nông thôn là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ của đất nước.
Đó là vùng sinh sống và làm việc chung của cộng đồng dân cư, hoạt động sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu.
- Xét về địa lý, nông thôn là vùng đất đai rộng lớn tạo thành vành đai bao
quanh các khu vực đô thị.
- Xét về mặt tổ chức xã hội, làng xã là tổ chức có vị trí rất quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Ở Việt Nam làng xã và quốc gia là hai
đối tượng quan trọng nhất đối với người Việt và được tổ chức chặt chẽ nhất.
Chính vì thế mà người Việt thường nói làng với nước đi đơi với nhau. Nếu coi
tổ chức nông thôn theo huyết thống là bước phát triển thứ nhất thì tổ chức
nơng thơn theo địa bàn cư trú là bước phát triển tiếp theo để hình thành
nên làng và xóm, đơn vị tổ chức quan trọng nhất của nông thôn Việt Nam.
- Về kinh tế, nơng thơn là địa bàn trên đó diễn ra chủ yếu các hoạt động
nông, lâm, thủy sản và các hoạt động tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ gắn kết
khá chặt chẽ với nông, lâm, thủy sản. So với thành thị, nông thôn là nơi mà cơ
sở hạ tầng thấp kém hơn cả về hạ tầng kinh tế và hạng tầng xã hội.
- Về dân số học, gia đình nông dân là bộ phận chủ yếu của cơ cấu dân cư và
có mật độ dân cư thấp.
- Về mặt văn hố, là nơi cịn lưu giữ được nhiều di sản văn hoá, phong tục
tập quán, và những di sản văn hoá phi vật thể của quốc gia, dân tộc.
- Về phương diện môi trường sinh thái, là nơi mà về cơ bản mơi trường thiên
nhiên vẫn cịn được giữ gìn tốt.


5

- Về cơ sở hạ tầng, là nơi mà cơ sở hạ tầng thấp kém hơn đô thị, cả về hạ tầng
xã hội và hạ tầng vật chất - kỹ thuật.
1.1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của lao động nông thôn
Khái niệm về lao động mà đề tài nghiên cứu ở đây là nói về bản thân

người lao động (hay nguồn lao động) chứ khơng phải nói về hoạt động của
người lao động.
Nguồn lao động là một bộ phận của dân số trong độ tuổi quy định, thực
tế có tham gia lao động và những người khơng có việc làm, đang tích cực tìm
kiếm việc làm.
Theo Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2002) độ tuổi lao động được quy định đối với nữ là từ 15 đến 55 tuổi, đối với
nam là từ 15 đến 60 tuổi.
Trong thực tế, nguồn lao động còn bao gồm cả những người ngoài độ
tuổi quy định nhưng thực tế có tham gia lao động. Đối với những người dưới
độ tuổi quy định của luật pháp các cơ sở sản xuất, kinh doanh muốn huy động
phải tuân thủ các quy định của luật lao động (chỉ một số ngành nghề luật pháp
cho phép sử dụng lao động dưới độ tuổi quy định).
Vì vậy, trong thống kê ở Việt Nam hiện nay có khái niệm: lao động
trong độ tuổi và lao động ngoài độ tuổi.
Lao động trong độ tuổi là những người trong độ tuổi lao động theo quy
định của Luật lao động hiện hành có nghĩa vụ và quyền lợi đem sức lao động
của mình ra làm việc.
Lao động ngoài độ tuổi là những người chưa đến hoặc đã quá tuổi lao
động theo quy định của Luật lao động hiện hành nhưng thực tế vẫn tham gia
lao động.
Nguồn lao động không chỉ là số lượng người lao động mà còn cả yếu tố
chất lượng. Chất lượng của nguồn lao động được đánh giá thông qua các yếu


6

tố làm cho lao động có hiệu quả hơn. Ở từng người lao động cụ thể, chất
lượng lao động được thể hiện trên các khía cạnh: sức khỏe; trình độ học vấn;
kiến thức, trình độ kỹ thuật và kinh nghiệm tích lũy được; ý thức, thái độ, tác

phong của người lao động. Ở tổng thể nguồn lao động, chất lượng lao động
khơng chỉ xem xét dưới góc độ cá nhân từng người lao động, mà còn thể hiện
ở cơ cấu của nguồn lao động xét theo ngành nghề, theo vùng miền, cũng như
cơ cấu xét theo trình độ đào tạo, tính chất lành nghề của chất lượng chun
mơn và trình độ tổ chức của lao động.
Lao động nông thôn là một bộ phận của nguồn lao động xã hội hoạt
động trong hệ thống kinh tế nơng thơn. Đó là bộ phận dân số trong và ngoài
độ tuổi lao động, thuộc trong khu vực nơng thơn, có khả năng lao động và có
nhu cầu lao động.
Lao động nơng thơn có những đặc trưng cơ bản sau:
Khác với lao động hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ đô thị,
lao động nơng thơn có đặc trưng cơ bản sau:
- Trình độ văn hóa, chun mơn kỹ thuật và kĩ năng nghề nghiệp có nhiều hạn
chế và phần lớn hoạt động thuần nông, chưa qua đào tạo. chủ yếu cha truyền
con nối.
- Lao động nông thôn Việt Nam hiện nay phần lớn có độ tuổi trung bình cao
vì thanh niên phần lớn rời bỏ quê hương ra các thành phố và khu công nghiệp
để làm việc hay đi xuất khẩu lao động. Thực tế này đang diễn ra ở tất cả các
vùng nông thôn nước ta. Nhiều vùng nông thôn tương lai không xa sẽ rất
thiếu lao động. Vấn đề này đã và đang xẩy ra ở các nước phát triển trên thế
giới. Chẳng hạn ở Nhật Bản hiện nay tuổi bình quân của lao động nông
nghiệp là 66 tuổi. Đây là vấn đề địi hỏi phải có chiến lược và chính sách
đồng bộ mới giải quyết được, nhất là vấn đề việc làm có thu nhập ổn định và
khơng q chênh lệch so với lao động tại các khu công nghiệp đô thị..


7

- Trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cũng như trình độ tổ chức quản lý kinh
doanh và tiếp cận thị trường thấp. Vì vậy đối với lao động nông thôn khả

năng tự tạo việc làm rất hạn chế.
- Lao động nơng thơn nước ta cịn mang nặng tư tưởng và tâm lý tiểu nông,
sản xuất nhỏ, một bộ phận khơng nhỏ thiếu ý chí và nghị lực vươn lên tự tìm
kiếm việc làm và làm giàu ngay tại địa bàn nông thôn và thường ngại thay đổi
nên bảo thủ.
Những hạn chế trên cần được xem xét kỹ để có chiến lược và giải pháp
đồng bộ nhằm tạo việc làm cho lao động nông thôn hiện nay.
1.1.1.2. Khái niệm về việc làm.
Việc làm theo quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam là những hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập và không bị pháp luật cấm. Theo quy
định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Điều 13 quy định: Việc làm
là mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm. Giải quyết việc làm đảm bảo cho mọi người có
khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước và
toàn xã hội [1]
Ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu bao
cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận là
người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (Quốc doanh, tập
thể). Theo cơ chế đó, xã hội khơng thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh
tế khác và cũng khơng thừa nhận tình trạng thất nghiệp ...
Ngày nay các quan niệm về việc làm đã được hiểu rộng hơn, đúng đắn và
khoa học hơn. Điều 13, chương II Bộ luật Lao động quy định: “Mọi hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm [1]”. Theo quan niệm trên, việc làm được hiểu như sau:


8

+ Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương hoặc hiện vật cho
cơng việc đó.

+ Những cơng việc do người lao động tự làm để mang lại lợi ích cho
bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công
việc không được trả công.
Theo khái niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn
hai điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và các thành viên trong gia đình.
Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó khơng bị
pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Hai điều kiện này có quan hệ chặt với nhau, là điều kiện cần và đủ của
một hoạt động được thừa nhận là việc làm quan niệm đó đã góp phần mở rộng
quan niệm về việc làm, khi đa số lao động đương thời chỉ muốn chen chân
vào làm việc ở những doanh nghiệp có thu nhập cao hay các cơ quan nhà
nước.
Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam, bên
cạnh đại đa số người lao động có việc làm thì một bộ phận người lao động lại
khơng có việc làm. Đó là hiện tượng thất nghiệp.
Thất nghiệp là hiện tượng gồm những phần mất thu nhập, do không có
khả năng tìm được việc làm trong khi họ cịn trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao động
nhưng chưa được giải quyết.
Như vậy, những người thất nghiệp tất yếu họ phải thuộc lực lượng lao
động hay dân số hoạt động kinh tế. Một người thất nghiệp phải có 3 tiêu
chuẩn:
- Đang mong muốn và tìm việc làm.


9

- Có khả năng làm việc.

- Hiện đang chưa có việc làm.
Với cách hiểu như thế, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng
chưa làm việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu thức quan trọng để
xem xét một người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có
muốn đi làm hay khơng. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khoẻ, có nghề
nghiệp song khơng có nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào “nguồn dự
trữ” như kế thừa của bố mẹ, nguồn tài trợ.
Theo khái niệm của tổ chức lao động Quốc Tế (ILO), thất nghiệp (Theo
nghĩa chung nhất) là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động
muốn có việc làm nhưng khơng thể tìm được việc làm ở mức tiền cơng nhất
định. Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,
khơng có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm.
Ở Việt Nam, theo Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội: Người thất
nghiệp là những người thuộc lực lượng lao động có khả năng lao động trong
tuần lễ điều tra khơng có việc làm, có nhu cầu về việc làm nhưng khơng tìm
được việc làm.
1.1.1.3. Khái niệm về thiếu việc làm và tạo việc làm mới
* Khái niệm về thiếu việc làm.
Người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ có tổng số giờ
làm việc dưới 40 giờ hoặc có số giờ làm việc ít hơn giờ quy định đối với các
công việc theo quy định hiện hành của Nhà nước. Họ có nhu cầu làm thêm
giờ và sẵn sàng làm việc nhưng khơng có việc để làm, hoặc họ có nhu cầu
làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm.
Trong thực tế có 2 dạng thiếu việc làm:
- Thiếu việc làm hữu hình: Là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao động
làm việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ khơng đủ việc làm đang tìm kiếm
thêm việc làm và sẵn sàng để làm việc.


10


- Thiếu việc làm vơ hình: Là những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian
thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp, nguyên
nhân của tình trạng này là do tay nghề hoặc kỹ năng của người lao động thấp
không sử dụng hết khả năng hiện có hoặc do điều kiện lao động tồi, tổ chức
lao động kém. Thước đo khái niệm thiếu việc làm vơ hình là mức thu nhập
thấp, ngun nhân của tình trạng này là do tay nghề hoặc kỹ năng của người
lao động thấp không sử dụng hết khả năng hiện có hoặc do điều kiện lao động
tồi, tổ chức lao động kém. Thước đo khái niệm thiếu việc làm vơ hình là mức
thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu.
* Khái niệm tạo việc làm mới
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để
tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng
hóa và dịch vụ theo yêu cầu thị trường. Vấn đề tạo việc làm cho người lao
động là một vấn đề rất phức tạp nhưng rất cần thiết cho mỗi quốc gia, mỗi địa
phương phải luôn quan tâm. Việc tạo việc làm cho người lao động chịu ảnh
hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy khi xem xét để đưa chính sách
tạo việc làm cho người lao động cần phải quan tâm đến nhiều nhân tố.
Thị trường lao động chỉ có thể được hình thành khi người lao động và
người sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi đến nhất trí vấn đề sử dụng sức lao
động. Do vậy vấn đề tạo việc làm phải được nhìn nhận ở cả người lao động và
người sử dụng lao động đồng thời khơng thể khơng kể đến vai trị của Nhà
nước. Người sử dụng lao động là người chủ yếu tạo ra chỗ làm việc cho người
lao động, bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong và ngồi nước. Để
có quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động phải có
những điều kiện nhất định. Đó là người sử dụng lao động cần phải có vốn,
cơng nghệ, kinh nghiệm, thị trường tiêu thụ,… Cịn người lao động phải có
sức khỏe, trình độ, chun mơn, kinh nghiệp phù hợp với cơng việc của mình.



11

Để có việc làm, được trả cơng theo ý muốn của mình thì người lao
động phải học hỏi, trau dồi kiến thức cho mình để theo kịp sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật. Ngoài ra người lao động phải ln tự đi tìm việc làm phù
hợp với mình để đem lại thu nhập cho gia đình. Trong vấn đề này, Nhà nước
có vai trị quản lý quan hệ lao động bằng các chính sách khuyến khích động
viên nhằm đem lại lợi ích cho cả 2 bên. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho
cả người lao động và người sử dụng lao động để họ phát huy tối đa năng lực
của mình. Ngồi ra Nhà nước cũng đã ra các chiến lược đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, đảm bảo phân bổ nguồn nhân lực một cách hợp lý. Vì vậy,
khi nghiên cứu tạo việc làm cần chú ý đến vấn đề đầu tư của nhà nước cũng
như khu vực tư nhân để tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Hiện
nay, việc đầu tư của Nhà nước cũng như của tư nhân chủ yếu tập trung ở
thành thị và các khu cơng nghiệp vì ở những nơi này sản xuất tạo ra thu nhập
cao hơn. Từ đó xuất hiện xu hướng lao động nơng thơn di chuyển đến các
thành phố, khu đô thị mới để tìm kiếm việc làm. Mặt khác, do yêu cầu phát
triển kinh tế đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nên một bộ
phận nơng dân bị thu hồi đất dẫn đến tình trạng thiếu việc làm do khơng có
khả năng chuyển đổi sang các ngành nghề phi nơng nghiệp. Điều địi hỏi nhà
nước phải có chính sách tạo việc làm phù hợp cho cả người lao động ở thành
thị và nông thôn.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm lao động nông thôn
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố khác nhau [6].
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn là nhằm chủ động tạo các điều kiện tiền đề cần thiết cho
người lao động có cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp với trình độ, năng lực,
sở trường của mình nhằm bảo đảm cuộc sống cho bản thân và gia đình.



12

Ngược lại, nếu bất chấp tất cả các điều kiện mơi trường, hoặc khơng nhận
thức đầy đủ tính khách quan của các nhân tố ảnh hưởng, chúng ta sẽ có
những chủ trương áp đặt mang tính chủ quan, duy ý chí đối với q trình giải
quyết việc làm và khó tránh khỏi thất bại.
Để có cơ sở cho sự lựa chọn và thực hiện các giải pháp đồng bộ trong
giải quyết việc làm cho lao động nơng thơn có thể chia các nhân tố ảnh
hưởng thành các nhóm sau:
1.1.2.1. Các nhân tố tự nhiên
Thu nhập của lao động nông thôn một phần rất lớn là thu từ nơng
nghiệp, do đó các yếu tố về điều kiện tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất
nơng nghiệp, từ đó ảnh hưởng lớn đến thu nhập của lao động nông thôn.
Các yếu tố về điều kiện tự nhiên gồm:
+ Vị trí địa lý.
Những vùng thuận lợi là những vùng gần các trung tâm đơ thị, các
trung tâm kinh tế và văn hố sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các
thông tin khoa học kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cũng như
mua sắm các tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Ngược lại,
những vùng nông thôn sâu, cách xa các trung tâm kinh tế và văn hố sẽ rất
khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hố, sản xuất thuần nơng là
chính, trình độ sản xuất hạn chế dẫn tới thu nhập thấp.
+ Điều kiện về đất đai, địa hình.
Những vùng trung du và miền núi (đặc biệt là miền núi) có địa hình
hiểm trở bị chia cắt do đó rất khó khăn trong việc phát triển giao thơng và
thuỷ lợi. Việc áp dụng máy móc kỹ thuật cũng rất hạn chế do đất đai bị chia
cắt manh mún. Vì vậy, năng suất lao động thấp, hạn chế trong khả năng giao
lưu kinh tế và tiếp cận với thị trường, với các thơng tin về văn hố, khoa học
kỹ thuật do vậy cũng hạn chế quá trình sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến

thu nhập.


13

+ Điều kiện khí hậu, thuỷ văn. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là
những cơ thể sống mà cơ thể và môi trường là một thể thống nhất. Do vậy các
điều kiện về khí hậu và thuỷ văn có vai trị vơ cùng quan trọng trong phát
triển nơng nghiệp. Các vùng có khí hậu thuận lợi, điều kiện tưới tiêu thuận lợi
sẽ có năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp cao mang lại thu nhập
cao cho nông dân. Ngược lại những vùng có nhiều yếu tố bất lợi về thời tiết
khí hậu, khan hiếm nguồn nước sẽ khó khăn trong phát triển sản xuất và từ đó
ảnh hưởng tới thu nhập và đời sống của dân cư. ở nước ta, những vùng có
điều kiện khó khăn điển hình là vùng miền Trung, miền núi và trung du Bắc
Bộ. Các sự biến đổi thất thường của thời tiết như hạn hán, bão, lũ lụt, sương
muối...luôn gây những thiệt hại to lớn cho sản xuất và đời sống. Để hạn chế
thiệt hại của những hiện tượng này cần phải có hệ thống thơng tin dự báo hiện
đại để có phương án phịng chống có hiệu quả .
1.1.2.2. Các nhân tố kinh tế - xã hội
Nhóm các nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập
của lao động nông thôn bao gồm:
- Kết cấu hạ tầng nơng thơn bao gồm các cơng trình phục vụ trực tiếp
cho sản xuất, kinh doanh như hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thủy lợi,
hệ thống truyền tải và phân phối điện, bưu chính viễn thơng và hệ thống hạ
tầng xã hội.
Kết cấu hạ tầng có vai trò quan trọng trong việc khai thác tối đa các tiềm
năng phát triển kinh tế của từng vùng nông thôn và thu hút các nhà đầu tư đầu
tư vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Hệ thống kết cấu hạ tầng
phát triển sẽ thúc đẩy lưu thông hàng hóa, di chuyển lao động giữa các vùng,
các ngành, liên kết đầu tư, trao đổi thông tin, tạo thêm việc làm và tăng thu

nhập cho người dân. Vì vậy, ở những vùng có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội phát triển thì cơ hội việc làm cho lao động nông thôn càng lớn.


14

- Trình độ dân trí và mức sống dân cư.
Trình độ dân trí và mức sống dân cư cao sẽ làm cho sức mua của vùng
cao, từ đó sẽ tăng khả năng tiêu thụ các hàng hóa cơng nghiệp và dịch vụ. Mặt
khác, trình độ dân trí và sức mua cao sẽ có điều kiện hơn trong việc tích lũy
vốn của dân cư, cũng như trong việc cung cấp nguồn lao động chất lượng
hơn. Khi trình độ dân trí và mức sống dân cư tăng lên sẽ tạo cơ hội cho sự
phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, từ đó có điều kiện để chuyển dịch
mạnh mẽ cơ cấu lao động nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông
nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ.
- Trình độ văn hố, khoa học kỹ thuật của người lao động.
Đây là yếu tố có ý nghĩa rất quyết định giúp người lao động có khả
năng chuyển đổi nghề nghiệp từ nghề nông sang các ngành nghề phi nông
nghiệp ngay tại địa bàn nông thôn. Hiện nay do trình độ văn hóa, khoa học kỹ
thuật của người lao động nơng thơn cịn thấp nên nhiều khu cơng nghiệp, đơ
thị mới có nhu cầu tuyển dụng lao động nhưng phần đông lao động nông thôn
không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Từ thực tế đó muốn giải
quyết tốt việc làm cho lao động nông thôn đòi hòi phải quan tâm đầu tư cho
đào tạo nghề phù hợp vơi nhu cầu việc làm ở từng vùng nông thôn.
- Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất là yếu tố quan trọng.
Để có điều kiện chuyển sang một ngành nghề mới hay mở rộng quy mô
sản xuất của những ngành đã có địi hỏi phải có vốn đầu tư. Tuy nhiên, ở các
vùng nông thôn hiện nay, hầu hết các hộ nông dân đều thiếu vốn sản xuất. Do
vậy, để tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nơng thơn thì cần phải
giúp đỡ người nơng dân có khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay một cách

thuận lợi, đồng thời tạo điều kiện cho họ huy động mọi nguồn vốn vào sản
xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
- Truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của từng địa phương, từng
dân tộc.


15

Mỗi địa phương có những phong tục tập quán riêng, có truyền thống
văn hố riêng. Mỗi dân tộc cũng có những truyền thống, những phong tục tập
quán riêng. Có những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp có ảnh hưởng
tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội và ngược lại cũng có những phong
tục tập quán, lạc hậu trở thành vật cản cho sự tiến bộ xã hội. Ở nhiều vùng
nông thôn Việt Nam từ lâu đã hình thành nhiều ngành nghề truyền thống (các
làng nghề), sản phẩm sản xuất ra không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước mà còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Mỗi làng quê khác nhau có
những sản phẩm làng nghề khác nhau, nên nếu trong quá trình phát triển biết
khai thác và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc sẽ là cơ hội cho vấn đề giải quyết
việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn.
Ngược lại ở những vùng thuần nơng, khơng có những ngành nghề
truyền thống thường xảy ra tình trạng thiếu việc làm vào những lúc nông
nhàn, hoặc khi một bộ phận nông dân bị thu hồi đất thì khả năng chuyển sang
việc làm mới gặp rất nhiều khó khăn.
Vì vậy, các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn cần
xem xét kỹ đến các yếu tố về phong tục tập quán của mỗi vùng, mỗi địa
phương, mỗi dân tộc, từ đó mỗi giải pháp mới có tính khả thi và hiệu quả [6].
- Sự phát triển của công nghiệp và đô thị trong vùng.
Sự phát triển của công nghiệp và đơ thị trong vùng sẽ có tác động thúc
đấy nhanh q trình chuyển lao động nơng nghiệp sang phát triển các ngành
nghề phi nông nghiệp, như các ngành cung cấp nguyên liệu sơ chế, các cơ sở

gia công, các đơn vị vệ tinh, các đại lý cho công nghiệp trong vùng và phát
triển các ngành dịch vụ theo nhu cầu của các khu công nghiệp, đô thị.
Công nghiệp và đô thị phát triển sẽ thúc đẩy sự ra đời các vùng nông
nghiệp, các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung với cơng nghệ hiện đại, từ đó
tạo ra nhiều việc làm mới cho lao động nông thôn.


16

Công nghiệp và đô thị trong vùng phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từ đó thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nơng sang phát triển kinh tế nơng thơn
tồn diện cả về kinh tế và văn hóa, xã hội.
- Trình độ phát triển của sản xuất hàng hóa, nhất là sự phát triển của hệ
thống thị trường ( Bao gồm hệ thống thị trường các yếu tố đầu vào và thị
trường tiêu thụ sản phẩm )
Sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trực trực tiếp và rất lớn vào thị
trường các yếu tố đầu vào, như: thị trường vốn, vật tư, thiết bị, lao động,
khoa học và công nghệ. Thị trường đầu vào phát triển sẽ đảm bảo cung ứng
kịp thời, đầy đủ với chất lượng tốt, giá cả hợp lý các yếu tố cần thiết của quá
trình sản xuất, kinh doanh. Việc thay đổi quy mô sản xuất, cơ cấu mặt hàng
trong từng ngành, từng doanh nghiệp phụ thuộc trực tiếp ở việc đảm bảo các
yếu tố đầu vào.
Vì vậy, khi xây dựng các dự án giải quyết việc làm cần xem xét khả
năng các yếu tố đầu vào trên thị trường. Cần phân tích, đánh giá khách quan,
có căn cứ các nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào có liên quan đến thực hiện
dự án [9].
Mặt khác, qua phân tích, đánh giá các nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào
phải chỉ ra được những khó khăn, hạn chế của thị trường các yếu tố đầu vào
để chủ động đối phó và có giải pháp thích hợp.

Thị trường các yếu tố đầu vào có vai trị quan trọng trong việc đáp ứng
các yếu tố cần thiết để thúc đẩy sự phát triển các ngành mới hay mở rộng quy
mơ sản xuất từ đó tạo ra nhiều việc làm mới.
Thị trường tiêu thụ mở rộng và ổn định sẽ là cơ sở để địa phương, các cơ
sở sản xuất có chiến lược đầu tư dài hạn cho những sản phẩm mà thị trường
có nhu cầu, từ đó có điều kiện để đầu tư mở rộng sản xuất và phát triển bền


17

vững.Thị trường tiêu thụ sản phẩm hiện nay (cả thị trường trong nước và thế
giới) đang có nhiều thách thức với các sản phẩm sản xuất ra từ kinh tế nơng
thơn. Vấn đề này khơng chỉ địi hỏi các cơ sở sản xuất cũng như các ngành,
các địa phương quan tâm nghiên cứu nhu cầu thị trường, mà còn phải tìm
cách sản xuất ra những sản phẩm có tính khác biệt mà thị trường có nhu cầu
để khơng đối mặt với các sản phẩm của công nghiệp hiện đại.
Mặt khác, nghiên cứu nhân tố thị trường tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các
ngành kinh tế, các địa phương, cũng như Nhà nước cần có chiến lược đầu tư
dài hạn cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường,
để đối phó với xu hướng tự do hóa thương mại theo cam kết với WTO.
1.1.2.3. Các nhân tố thuộc về cơ chế chính sách
Thực tiễn phát triển kinh tế đất nước hàng chục năm qua cho thấy, q
trình phát triển kinh tế đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
chịu ảnh hưởng rất lớn ở việc xác định mục tiêu phát triển kinh tế và ở việc
xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển từng ngành kinh tế, từng vùng lãnh
thổ. Nhiều ngành kinh tế, nhiều vùng lãnh thổ phát triển chậm hiệu quả thấp
và thiếu tính bền vững là do xác định mục tiêu phát triển kinh tế không phù
hợp, do công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch thiếu cơ sở khoa học và
thực tiễn, nhiều khi mang tính hình thức và áp đặt theo ý muốn chủ quan.
Hệ thống chính sách kinh tế và hệ thống luật pháp cũng có ảnh

hưởng rất lớn và trực tiếp đến quá trình giải quyết việc làm cho lao động nơng
thơn [2].
Chính sách của Nhà nước tác động đến khả năng thu hút các nguồn lực
đầu tư cho phát triển các ngành, các vùng cần ưu tiên trong chiến lược và quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kì. Chẳng hạn, các chính
sách ưu đãi về thuế, về tiền thuê đất, hay chính sách hỗ trợ của Nhà nước về
đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho các vùng quy hoạch, các vùng


18

trọng điểm sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư đầu tư theo yêu cầu của Nhà
nước.
Các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp được xây dựng đồng
bộ, có cơ sở khoa học và thực tiễn sẽ có tác dụng định hướng phát triển cho
các ngành, các doanh nghiệp, tạo môi trường cho các nhà đầu tư phát triển
theo hướng bền vững. Đồng thời chính sách và luật pháp cịn có tác dụng điều
tiết sản xuất và giúp các ngành, các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn
do cơ chế thị trường gây ra.
Ngược lại, nếu chính sách và luật pháp xây dựng chưa đồng bộ, không
phù hợp với thực tiễn phát triển của kinh tế thị trường sẽ có tác động tiêu cực
đến quá trình phát triển, có thể gây thiệt hại cho cả Nhà nước và người dân.
Vai trò của Nhà nước đối với giải quyết việc làm cho lao động nơng
thơn cịn được thể hiện trên các mặt, như: Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, đầu tư nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ khoa
học và công nghệ, đào tạo nghề phục vụ chương trình giải quyết việc làm.
Ngồi ra, vai trị của Nhà nước đối với vấn đề giải quyết việc làm cho
lao động nơng thơn cịn được thể hiện ở việc thực hiện các chính sách và
chương trình tài trợ cho phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn
1.1.2.4. Tác động của hội nhập quốc tế.

Hội nhập quốc tế có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của Quốc gia nói
chung, có ảnh hưởng trực tiếp đến từng ngành và từng vùng cụ thể khác nhau
nói riêng. Nhờ tác động của hội nhập quốc tế mà có điều kiện phát triển mạnh
về công nghiệp và dịch vụ trong nông thơn và từ đó sẽ chuyển dịch nhanh lao
động nơng nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ...
Những cơ hội mà hội nhập kinh tế khu vực và thế giới mang lại cho Việt
Nam trong quá trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đó
chính là khả năng tiếp cận và thu hút các nguồn vốn cho phát triển, tiếp cận


19

các tiến bộ công nghệ hiện đại, các kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm, phát triển các hình thức hợp tác kinh doanh, liên kết
trong sản xuất, kinh doanh... Đố với khu vực nông thôn, việc tham gia các
quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn tiêu thụ các sản
phẩm từ kinh tế nơng thơn, từ đó tạo điều kiện kích thích và phát triển các
vùng nơng nghiệp sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh. Mặt khác, hội
nhập quốc tế cịn giúp cho khu vực nơng nghiệp, nơng thơn tranh thủ được
các nguồn lực bên ngồi, phát triển các công nghiệp, dịch vụ và các ngành
nghề tiểu thủ cơng truyền thống. Điều đó sẽ tạo nhiều cơ hội trong việc giải
quyết việc làm cho lao động nơng thơn.
Ngồi ra, tác động của hội nhập kinh tế quốc tế cịn tạo cơ hội cho
lao động nơng tham gia vào thị trường lao động dưới hình thức xuất khẩu lao
động. Hiện nay ở nhiều vùng nông thôn nước ta xuất khẩu lao động đang tạo
ra khả năng giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động và gia
đình họ[8].
1.2. Tình hình nghiên cứu, giải quyết vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước về giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn

Qua nghiên cứu kinh nghiệm một số nước và vùng lãnh thổ trong
khu vực Châu á, như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Malaysia,
Philipin… về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nơng thơn, có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung, nói riêng trên các mặt
chủ yếu sau: [14]
a, Để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, các nước rất coi trọng
đầu tư phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn.


20

Nhìn chung để giải quyết việc làm cho lao động nơng thơn, các nước
quan tâm là đa dạng hóa sản xuất trong phát triển kinh tế nông thôn, như phát
triển công nghiệp nông thôn và các ngành nghề phi nông nghiệp khác.
Cụ thể:
- Đối với Trung Quốc, ngay từ năm 1978 (sau cải cách và mở cửa kinh
tế) đã thực hiện phương châm “li nông bất li hương, nhập xưởng bất nhập
thành”. Chính phủ Trung Quốc đã có chủ trương và có chính sách khuyến
khích phát triển mạnh mẽ cơng nghiệp hương trấn. Xí nghiệp Hương trấn là
loại hình xí nghiệp kinh tế do nông dân tự nguyện thành lập ngay trên quê
hương mình trên cơ sở những lợi thế về nguồn tài nguyên, lao động và các
nguồn lực kinh tế khác dưới sự quản lý của chính quyền các cấp, sự lãnh đạo
của Đảng và quan tâm giúp đỡ của nhà nước. Hệ thống xí nghiệp Hương trấn
chủ yếu sản xuất các hàng hoá tiêu dùng nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế nông
thôn, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho nơng dân. Việc phát triển
xí nghiệp hương trấn có ý nghĩa rất to lớn. Xí nghiệp Hương trấn đã thu hút
120 triệu lao động (chiếm 26,9% lực lượng lao động cả nước) với mức thu
nhập 2.500 NDT/lao động/ tháng. Đây là thành quả to lớn mà xí nghiệp
Hương trấn mang lại, vì vậy cần nghiên cứu để có thể áp dụng một cách phù
hợp với điều kiện nước ta.

Chính phủ Trung Quốc ln tạo điều kiện thuận lợi cho công nghiệp nông
thôn phát triển, như thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước ở giai
đoạn đầu của q trình cơng nghiệp hố nơng thôn, hạn chế ưu đãi đối với
doanh nghiệp nhà nước để tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nông
thôn. Để huy động vốn và lao động cho công nghiệp nơng thơn, Chính phủ đã
quan tâm thiết lập một hệ thống cung cấp tài chính có hiệu quả, giảm chi phí
giao dịch để huy động vốn và lao động cho các doanh nghiệp nông thôn.
Thông qua liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp nông thôn và doanh nghiệp


21

nhà nước để giúp doanh nghiệp nông thôn giải quyết những khó khăn trong
tiếp nhận thơng tin, trong tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị và những khó khăn về
cơng nghệ, về nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Đối với Đài Loan, ngay từ năm 1953 đã thực hiện phương châm công
nghiệp bồi dưỡng và hỗ trợ nông nghiệp phát triển. Chính phủ Đài Loan đã
giành nhiều ưu tiên về vốn đầu tư của Nhà nước, về các chính sách ưu đãi cho
nơng nghiệp, nơng thơn, khuyến khích thành lập các khu công nghiệp chuyên
ngành, xây dựng các nhà máy ở nơng thơn. Chính phủ cịn chú trọng phát
triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, lấy công nghệ sử dụng nhiều vốn là chính
chứ khơng phải cơng nghệ sử dụng nhiều lao động. Công nghiệp nông thôn
phát triển theo hướng phân tán, phi tập trung nhưng có liên kết với nhau và
liên kết với các cơ sở công nghiệp (các công ty) lớn ở đô thị. Để thúc đẩy
công nghiệp nông thơn phát triển, Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu
tư xây dựng các nhà máy ở nông thôn, chú ý phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn
nhân lực ở nông thôn.
-

Đối với Nhật Bản là nước tiến hành CNH sớm nhất châu Á. Để đẩy


nhanh quá trình giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, Nhật Bản đã chủ
trương duy trì và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống
và ngành nghề mới ở nơng thơn. Theo thống kê, ở Nhật Bản có 867 nghề thủ
công truyền thống khác nhau, các nghề này không những khơng bị mai một
trong q trình CNH, mà trái lại cịn được giữ vững và phát triển. Chính phủ
Nhật Bản còn chú trọng phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa để thu hút lao
động nơng nghiệp.
Các loại hình dịch vụ phi nơng nghiệp ở nơng thơn như: Tín dụng, bảo
hiểm, cung ứng vật tư kỹ thuật cũng được quan tâm phát triển. Chính các cơ
sở dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn đã tạo điều kiện cho nơng nghiệp
nâng cao năng suất lao động, giải phóng lao động, mặt khác tạo khả năng để


22

thu hút lao động, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn (theo số liệu
thống kê 1994 riêng dịch vụ buôn bán máy nông nghiệp đã thu hút được
45.700 lao động làm việc). Vì vậy, chỉ sau 4 thập kỷ tỷ trọng lao động nông
nghiệp của Nhật Bản đã giảm được 39,8% (từ 45,2% năm 1950 xuống còn
6,3% năm 1990). Điều đáng quan tâm là chuyển dịch cơ cấu lao động nông
thôn ở Nhật Bản chủ yếu diễn ra theo xu hướng” li nông bất li hương” nên
không xảy ra tình trạng lao động nơng thơn ồ ạt chạy ra thành thị.
- Kinh nghiệm nổi bật của Hàn Quốc là thực hiện các chương trình đồng
bộ để CNH, HĐH nơng thơn, như: Chương trình phát triển ngành nghề ngồi
nơng nghiệp của các hộ nơng dân, chương trình phát triển các ngành nghề thủ
cơng truyền thống, chương trình phát triển các xí nghiệp, phong trào cộng
đồng mới ( xí nghiệp Sameul) ở nông thôn.
- Đối với Thái Lan, là quốc gia có đặc điểm giống Việt Nam, đã có nhiều
thành công trong giải quyết việc làm cho lao động nông thơn. Trong vịng 30

năm (1960 - 1990) tỷ trọng lao động nông nghiệp đã giảm được 27,4%. Để
chuyển lao động nông nghiệp sang phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp
theo hướng giảm tỷ trọng lao động nơng nghiệp, Chính phủ Thái Lan đã chủ
trương mở mang các ngành nghề tiểu thủ cơng nghiệp, trong đó chú ý bảo tồn
và phát triển các ngành nghề truyền thống như: nghề kim hồn, đá q, gốm
sứ… Mặt khác, Chính phủ quan tâm đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch
vụ phi nông nghiệp ở nông thôn như phát triển mạng lưới các xí nghiệp.
b, Quan tâm đào tạo và đào tạo lại đội ngũ người lao động phù hợp với yêu
cầu giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
- Ở Đài Loan trong q trình CNH - HĐH nơng nghiệp, nơng thơn, Chính
phủ rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực. Hệ thống giáo dục cơ sở được
phát triển cả ở các vùng nông thôn và ngày càng quan tâm hơn đến giáo dục
trung học và đào tạo chun mơn thích nghi với những yêu cầu mới.


23

- Đối với Philipin, là nước có tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao nên
Chính phủ rất quan tâm tới hệ thống thông tin nguồn nhân lực, khuyến khích
tự tạo việc làm thơng qua các chương trình giáo dục và đào tạo định hướng
phát triển nông thôn, giáo dục kỹ năng nghề nghiệp và các kỹ năng cung cấp
những hiểu biết về kinh doanh và quản lý trong giáo dục cao đẳng và giáo dục
phổ thông trung học.
c, Sử dụng nhiều chính sách hỗ trợ phát triển nơng nghiệp và kinh tế nơng
thơn như: chính sách tín dụng, thuế, đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng nơng thơn.
Để tạo điều kiện và khuyến khích nơng nghiệp cũng như các ngành
công nghiệp và dịch vụ nông thôn phát triển, Chính phủ các nước đã có nhiều
chính sách khác nhau như: chính sách hỗ trợ giá nơng sản, trợ cấp xuất khẩu,
cho vay ưu đãi, miễn giảm thuế, hỗ trợ đầu tư vào xây dựng hệ thống kết cấu

hạ tầng nông thôn (giao thông, thuỷ lợi…), hỗ trợ ứng dụng các tiến bộ khoa
học và công nghệ vào sản xuất.
Để thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm cho lao động nơng thơn,
ngồi các chính sách hỗ trợ nông nghiệp (trợ giá, trợ cấp cho nông dân, trợ
cấp xuất khẩu…), Chính phủ các nước cịn thực hiện các chính sách tạo điều
kiện và khuyến khích phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn.
- Chẳng hạn, ở Nhật Bản từ năm 1995, các chính sách hỗ trợ nơng nghiệp
đã có nhiều thay đổi, các hình thức trợ cấp sản xuất và lưu thông được chuyển
sang trợ cấp thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp và phát triển
kinh tế nông thôn, như: xây dựng hệ thống tưới tiêu, hệ thống giao thông
nông thôn, chi cho hoạt động nghiên cứu, phổ biến kỹ thuật (khoảng 20 tỷ
USD vào năm 1997). Các chính sách hỗ trợ đã tạo điều kiện cho các ngành
công nghiệp, dịch vụ phát triển, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy
sản, các ngành dịch vụ nông nghiệp và kinh tế nông thôn.


×