Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.48 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM THOA

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG
TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM THOA

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG
TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ HẰNG

HÀ NỘI, 2021




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước đầu tiên khu vực Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê
chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thơng
qua ngày 20-11-1989. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là mối quan tâm lớn của
Đảng, Nhà nước, gia đình và xã hội. Sự quan tâm này đã được thể chế hóa trong
Hiến pháp, hệ thống pháp luật quốc gia và các chương trình quốc gia bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em,...
Tình trạng Lao động trẻ em (LĐTE) là vấn đề xã hội xuất hiện ở mọi châu
lục, mọi quốc gia, chỉ khác nhau về mức độ. Theo ILO, thời điểm 6/2016, có 168
triệu LĐTE trên thế giới, trong đó Tiểu vùng Sahara của Châu Phi có tỷ lệ LĐTE
cao nhất (với 28% trẻ em trong độ tuổi từ 5-14), sau đó đến các vùng Trung Đơng
và Bắc Phi; Đơng Á và Thái Bình Dương (mỗi vùng đều có tỷ lệ 10%), Mỹ La tinh
và Caribê (9%). Ở tất cả các vùng, tỷ lệ LĐTE là gái đều cao hơn nam. Khu vực
nông nghiệp vẫn là nơi có nhiều LĐTE nhất (chiếm trên 50%), sau đó là đến các
khu vực dịch vụ và khu vực công nghiệp.
Ở Việt Nam, cho đến nay LĐTE vẫn tồn tại ở những nơi khó can thiệp nhất
và tiềm ẩn nguy cơ cao tham gia vào các dây chuyền sản xuất các sản phẩm nông
nghiệp và công nghiệp như tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của các các
hộ gia đình, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, trực tiếp tạo ra hàng hóa, dịch
vụ. Cả nước có 1.031.944 LĐTE, có 58,8% tổng số trẻ em 5 – 17 tuổi tham gia hoạt
động kinh tế. Trong tổng số LĐTE, có 519.805 em, chiếm gần 50,4%, được xác
định là LĐTE làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm [15, tr 31 ].
LĐTE ảnh hưởng tiêu cực đến trao đổi hàng hóa của Việt Nam trong bơi
cảnh tồn cầu hóa với các tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt về sử dụng lao động trong
sản xuất, trong đó có LĐTE. Một số mặt hàng thế mạnh của Việt Nam đã gặp khó
khăn khi tiêu thụ trên thị trường quốc tế bởi có liên quan đến yếu tố LĐTE. LĐTE
có ảnh hưởng tiêu cực đến tiếp cận với giáo dục của trẻ em, sự phát triển bình
thường của trẻ em và chất lượng nguồn nhân lực tương lai. Trong tổng số 1.031.944
LĐTE, có 501.905 em, chiếm hơn 48,6% đã thơi học, khơng đi học, đặc biệt có

15.055 em, chiếm gần 1,5% tổng số LĐTE chưa bao giờ đi học [15, tr 33 ].

1


Trước tình hình đó Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực giải quyết vấn đề LĐTE,
từng bước hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về phịng ngừa, giảm thiểu LĐTE
hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng và triển khai chương trình phịng ngừa,
giảm thiểu LĐTE; phát triển hệ thống nhân lực bảo vệ trẻ em, phòng chống LĐTE
các cấp; tổ chức truyền thông, vận động xã hội về phịng ngừa và xóa bỏ LĐTE, huy
động sự vào cuộc của các cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan chức năng, doanh
nghiệp và toàn xã hội, đồng thời chủ động, tích cực thực hiện hợp tác quốc tế, tham
gia vào các sáng kiến, hoạt động của khu vực và thế giới nhằm phòng chống LĐTE.
Cũng giống như nhiều địa phương tại Việt Nam, tỉnh An Giang luôn quan
tâm đến cơng tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em, đặc biệt là những vấn đề liên
quan đến LĐTE. An Giang đã chỉ đạo và triển khai rất nhiều hoạt động liên quan
đến vấn đề bảo vệ trẻ em và phòng, chống LĐTE tại địa phương như: ban hành kế
hoạch phòng, chống lao động sớm cho trẻ em giai đoạn 2016-2020; triển khai các
hoạt động thì điểm về mơ hình hỗ trợ sinh kế cho hộ gia đình có trẻ em lao động
sớm và có nguy cơ lao động sớm; ban hành nhiều kế hoạch kiểm tra giám sát tình
trạng trẻ em tham gia lao động tại các doanh nghiệp; chỉ đạo phối hợp liên ngành để
triển khai thực hiện chính sách đối với LĐTE. Tuy nhiên, để các chính sách đối với
LĐTE được nhóm đối tượng thụ hưởng tiếp cận một cách tốt nhất và đầy đủ thì việc
thực thi chính sách là một khâu rất quan trọng, vì khơng tốt sẽ là một trong những
ngun nhân khiến chính sách ban hành khơng có hiệu quả, trẻ em sẽ không được
hưởng đầy đủ các quyền, đồng thời gặp phải những mối nguy hại trước nạn xâm
hại, bạo lực, mua bán, bắt cóc,… Theo thống kê tổng số trẻ dưới 16 tuổi trên địa bàn
tỉnh An Giang gần 435.484, trong đó có 227.873 trẻ em nam, trẻ em là người dân
tộc thiểu số có 26.540 người; 28.384 trẻ em thuộc hộ nghèo (theo tiêu chí mới),
4.250 trẻ em có hồn cảnh đặc biệt, 57.151 6 trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh

đặc biệt, 28.767 trẻ em sống trong gia đình có vấn đề xã hội (cha mẹ ly hơn, bạo lực
gia đình, ảnh hưởng bởi HIV/AIDS,.... Qua số liệu cho thấy trẻ em An Giang có
nguy cơ tham gia lao động sớm, [34, tr 33].
Với những lý do kể trên, học viên đã chọn đề tài “Thực hiện chính sách đối
với lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang” làm luận văn tốt nghiệp chuyên

2


ngành Chính sách cơng của mình làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
việc thực hiện chính sách đối với LĐTE; nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách
đối với LĐTE tại An Giang; từ đó tiến đến đề xuất một số giải pháp thực hiện tốt
chính sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Tình hình nghiên cứu của luận văn có thể tổng quan lại theo một số nhóm
vần đề sau đây:
Một là, nhóm những tài liệu nghiên cứu liên quan đến trẻ em, lao động trẻ em
Các tài liệu quốc tế về lao động trẻ em: Công ước 29 của ILO về Lao động

cưỡng bức thông qua năm 1930. Công ước số 138 của ILO về độ tuổi tối thiểu
thông qua năm 1973; Công ước số 182 nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ
các hình thức LĐTE tồi tệ nhất; Cơng ước Quốc tế về quyền trẻ em được thông qua
năm 1989.
Điều tra Quốc gia về Lao động trẻ em 2012 là báo cáo đầu tiên về vấn đề này
tại Việt Nam. Với sự hỗ trợ kỹ thuật từ ILO, Tổng cục Thống kê đã khảo sát 50.640
hộ gia đình có trẻ em ở độ tuổi 5 – 17 tuổi trên toàn quốc và số liệu đó đã được Viện
Khoa học Lao động và Xã hội sử dụng để hoàn thành báo cáo.
Tài liệu điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2018: Để cập nhật thơng tin,
diễn biến tình hình lao động trẻ em, cung cấp cơ sở khoa học và bằng chứng thực
tiễn cho cơng tác hoạch định chính sách và xây dựng các chương trình can thiệp phù

hợp và hiệu quả nhằm phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em, năm 2018, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội (MOLISA) phối hợp với Tổng cục Thống kê (GSO),
với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), tiến hành
cuộc Điều tra quốc gia về lao động trẻ em lần thứ hai ở Việt Nam.
Hội thảo Tư vấn xây dựng pháp luật về LĐTE do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội phối hợp cùng ILO tổ chức (3/2018) , khẳng định LĐTE là sự vi
phạm nghiêm trọng tới quyền trẻ em và nó sẽ làm giảm chất lượng, trình độ và năng
lực của nguồn lao động trong tương lai. Xóa bỏ LĐTE là một ưu tiên toàn cầu và
được cả thế thới đồng thuận. Những tài liệu tại Hội thảo xoay quanh nội dung thế
nào là LĐTE, hoàn thiện hệ thống pháp luật về LĐTE, xu hướng LĐTE của Việt
Nam.

3


ILO, (2015), “Dự án Hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực quốc gia Phòng
ngừa và Giảm thiểu LĐTE tại Việt Nam. Dự án sẽ đóng góp vào cơng cuộc phịng
chống và xố bỏ tình trạng LĐTE tại Việt Nam thơng qua hỗ trợ Chương trình Quốc
gia Phịng chống và Giảm thiểu LĐTE. Thời Gian dự án từ 01/01/2015 –
31/12/2019; Cơ quan chủ quản của dự án là Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
(MOLISA), Các Cơ quan đối tác: Bộ LĐTBXH; các tổ chức của người sử dụng lao
động, tổ chức của người lao động; các tổ chức quốc tế; NGO địa phương và quốc
gia; và các cơ quan nghiên cứu. Địa bàn triển khai chính: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh
và tỉnh An Giang. Mục tiêu tổng quát của Dự án ENHANCE là xây dựng và củng
cố nỗ lực tồn diện và có hiệu quả với sự tham gia của nhiều bên liên quan để
phòng ngừa và giảm thiểu LĐTE tại Việt Nam.
Một số nghiên cứu liên quan khác như: Luận Văn Thạc sĩ Luật học của
Nguyễn Thị Vân Anh về “Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và
xóa bỏ LĐTE. Nghiên các vấn đề liên quan đến pháp luật đối với LĐTE”; Luận Văn
Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Nhàn về “Lao động chưa thành niên theo pháp luật

lao động Việt Nam hiện nay”. Luận văn đề ra các vấn đề lao động chưa thành niên
tại Việt Nam mà pháp luật quy định; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lâm Thị
Phương Thanh về “Bảo vệ quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm
pháp luật”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Hồ Sỹ Trung về Bảo vệ quyền của người
chưa thanh niên theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tỉnh Quảng Trị”; - Bài viết
của Trần Nguyên Tú Phó về “Pháp luật và nguyên tắc quốc tế về quyền trẻ em”;
Hai là, nhóm những tài liệu nghiên cứu liên quan đến chính sách đối với lao
động trẻ em
Các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách lao động trẻ em: Nghị định
số 56/2017/NĐ-CP ngày 9 tháng 5 năm 2017 của Chính phủ, quy định một số điều
của Luật Trẻ em năm 2016; Quyết định số 1023/QĐ-TTg ngày 07/6/2016 về Quyết
định phê duyệt Chương trình Phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE giai đoạn 2016-2020;
Nghị định số 144/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ,
cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em, trong đó có những vi phạm về lạm dụng,
bóc lột sức lao động của trẻ em; Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy

4


định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó bao
gồm những vi phạm về LĐTE và lao động chưa thành niên; Thông tư số
11/2013/TT-BLĐTBXH, ban hành ngày 11/6/2013 quy định danh mục Công việc
nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc; thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH,
ban hành ngày 10 tháng 6 năm 2013 quy định danh mục các công việc và nơi làm
việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên; thông tư số 19/2014/TTBLĐTBXH ngày 15 tháng 8 năm 2014 về hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị
định số 27/ 2014/NĐ-CP ngày 07 tháng 4 năm 2014 của Bộ Luật Lao động về lao
động là người giúp việc gia đình.
Ba là, nhóm những tài liệu nghiên cứu liên quan đến thực hiện chính sách và
thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em

Học viên đã tham khảo các tài liệu như: Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và
quản lý của Nguyễn Thị Thu Hằng về “phòng ngừa và khắc phục tình trạng lạm
dụng LĐTE ở Việt Nam hiện nay”; luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Hồng Hạnh về
“Thực trạng LĐTE ở địa bàn phường Nghĩa Tân, Quận Cầu Giấy, Hà Nội”; bài viết
của Phó giáo sư tiến sĩ Đỗ Phú Hải về Tổng quan tài liệu về thực hiện chính sách
cơng của nhà sách sự thật xuất bản năm 2017; kế hoạch phòng, ngừa giảm thiểu lao
động trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2015-2020; báo cáo kết quả thực
hiện chương trình phịng, ngừa giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2015-2020;
báo cáo kết quả thực hiện công tác lao động-thương binh và Xã hội 2015-2020; báo
cáo Kết quả phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ qua và năm 2020; Định hướng phát
triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021-2025 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm
2021.
Bốn là một số nghiên cứu là các bài viết khác liên quan đến lao động trẻ em
như về công tác quản lý, đối đội chính sách đối với lao động trẻ em. Bài viết báo
Viện Khoa học Lao động và Xã hội của Nguyễn Bao Cường về Quản lý và ngăn
ngừa LĐTE ở Việt Nam; Bài viết báo người Lao động về “Đối thoại chính sách các
tiêu chuẩn lao động quốc tế về LĐTE”. Đề ra các chính sách đối với LĐTE; Bài viết

5


đăng trên trang Website Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội viết về phòng, chống
LĐTE trong chiến lược bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em;
Thơng qua việc nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài “thực hiện chính
sách đối với lao động trẻ em tại An Giang”, học viên nhận thấy đây là những tài
liệu đã đề cập đến các vấn đề chung về trẻ em, lao động trẻ em, các chính sách đối
với lao động trẻ em, thực trạng quản lý đối với lao động trẻ em, nhưng chưa có
nghiên cứu nào liên quan đến việc thực hiện các chính sách đối với LĐTE trên địa
bàn tỉnh An Giang. Do đó, học viên đã lựa chọn nghiên cứu nội dung theo chủ đề
thực tế này để làm luận văn tốt nghiệp của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
(1) Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối với lao
động trẻ em trong giai đoạn 2016-2020 và giải pháp thực hiện chính sách phịng,
ngừa đối với lao động trẻ em trong thời gian tới.
(2) Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách cơ
bản về thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em.
- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách lao động đối với LĐTE tại An
Giang.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách lao động đối với LĐTE tại An
Giang.
- Đề xuất một số kiến nghị hồn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách lao động đối với LĐTE tại An Giang trên địa bàn tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Chính sách về LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang.
- Các giải pháp thực hiện chính sách đối với LĐTE.
Trong luận văn này, tác giả không nghiên cứu về việc thực hiện xử lý các
trường hợp LĐTE trái pháp luật. Vì lý do giới hạn nội dung của một luận văn thạc sĩ
và vấn đề xử lý các trường hợp LĐTE trái pháp luật cũng khá rộng.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Không gian nghiên cứu: thực hiện địa bàn tỉnh An Giang.
4.2.2. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2016-2020
Giai đoạn đoạn 2016-2020 là giai đoạn Việt Nam ban hành các chính sách thực
hiện phịng, ngừa LĐTE. Do vậy, tại địa phương cũng đã triển khai các giải pháp để
thực hiện chính sách này. Nếu chúng ta nghiên cứu giai đoạn này sẽ nắm được thực

trạng thực hiện chính sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang một cách tốt nhất.
Từ đó, giúp cho việc đề xuất giải pháp cho giai đoạn mới được tốt hơn.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được tiếp cận nghiên cứu trên cơ sở kế thừa các cơng trình nghiên
cứu trước đây cùng cơ sở lý luận, chính sách pháp luật quốc tế và Việt Nam về
LĐTE. Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về pháp luật và xây dựng
pháp luật liên quan đến LĐTE.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận văn sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung của luận án như: Phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,…
Luận văn được tiếp cận nghiên cứu trên cơ sở kế thừa các cơng trình nghiên
cứu trước đây cùng cơ sở lý luâṇ và chính sách quốc tế và của Việt Nam về LĐTE
nói chung và thực hiện chính sách đối với LĐTE nói riêng tại An Giang. Luận văn
được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,
đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về pháp luật và xây dựng pháp luật.
Trong Chương 1, để làm sáng tỏ vấn đề lý luận về LĐTE, luận văn sử dụng
phương pháp hê tḥống, phân tích, so sánh để làm rõ khái niệm “Trẻ em”, “Lao động
trẻ em”,…Phương pháp phân tích cũng được vận dụng để đề cập tới nguyên nhân,
tác động tiêu cực, mục đích và ý nghĩa,… thực hiện chính sách đối với LĐTE.

7


Tại Chương 2 của luận văn, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là

thống kê, so sánh, phân tích để làm rõ thực trạng LĐTE tại An Giang và đánh giá
việc thực hiện chính sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang, tìm ra hậu quả,
nguyên nhân.
Với Chương 3, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử duṇg để
nghiên cứu tính cấp thiết của việc hồn thiện việc thực hiện chính sách đối với
LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang và đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện chính
sách đối với LĐTE trên địa bàn tỉnh An Giang đạt hiệu quả cao nhất.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu chun sâu, có tính hệ thống và tồn diện về chính sách
đối với LĐTE hiện nay. Luận văn có những đóng góp mới như: Hệ thống hóa, làm
sáng tỏ cơ sở lý luận chính sách đối với LĐTE, các khái niệm, nội dung, hình thức,
các điều kiện bảo đảm chính sách đối với LĐTE.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ quan
quản lý nhà nước trong q trình hoạch định chính sách, xây dựng và hồn thiện
thực hiện chính sách đối với LĐTE tại An Giang hiện nay.
Với những ý nghĩa như trên, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về công tác xã hội về trẻ em, nâng
cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác trẻ em tại địa phương.
7. Kết cấu của Luận văn
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về thực hiện chính
sách đối với lao động trẻ em.
- Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em trên địa
bàn tỉnh An Giang.
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách đối với lao động trẻ
em trên địa bàn tỉnh An Giang.

8



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CƠ BẢN
VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG TRẺ EM
1.1. Lý luận về chính sách đối với lao động trẻ em
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Trẻ em , Quyền trẻ em
Khái niệm trẻ em:
Trong pháp luật quốc tế, trẻ em được định nghĩa là người dưới 18 tuổi. Đây
là quy định được nêu trong Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em,
1989 và Điều 2 Công ước số 182 của ILO về lao động trẻ em.
Theo pháp luật Việt Nam: trẻ em là người dưới 16 tuổi. (Điều 1, Luật Trẻ em,
2016)
Bên cạnh khái niệm trẻ em, pháp luật Việt Nam còn có khái niệm “người chưa
thành niên”. Tùy theo ngành luật (dân sự, hành chính, hình sự, hơn nhân gia đình,
lao động…), khái niệm “người chưa thành niên” được sử dụng ít nhiều khác nhau,
song đều có một dấu hiệu chung đó là người dưới 18 tuổi.
Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. (Khoản 1, Điều 21,
Bộ luật Dân sự, 2015).
Khái niệm quyền trẻ em: Theo pháp luật Việt Nam Quyền trẻ em là tất cả
những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn.
Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng
nhân từ của người lớn, mà các em là những thành viên Tham gia tích cực vào q
trình phát triển của chính mình.
Quyền trẻ em là một bộ phận không thể thiếu của quyền con người.
Theo Quốc tế: Công ước Quốc tế về quyền trẻ em là Luật quốc tế để bảo vệ
quyền trẻ em, bao gồm 54 điều khoản. Công ước đề ra các quyền cơ bản của con
người mà trẻ em trên toàn thế giới đều được hưởng, và được Liên hợp quốc thông
qua năm 1989. Hầu hết tất cả các các nước trên thế giới đồng tình và phê chuẩn
Cơng ước Quốc tế về quyền trẻ em. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước


9


thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào
ngày 20 tháng 2 năm 1990. Và đối với Việt Nam, những người có độ tuổi dưới 16
tuổi được coi là trẻ em [45, tr 1].
1.1.1.2. Lao động trẻ em
Khái niệm lao động được xác định như sau: Lao động là hoạt động diễn ra
giữa người với giới tự nhên. Trong khi lao động con người vận dụng thể lực và trí
tuệ tiềm tàng trong thân thể mình sử dụng cơng cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên để tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho bản thân người lao động
và cho xã hội. Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động, sức
lao động là năng lực con người, bao gồm thể lực và trí lực của người lao động. Mỗi
con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định, mỗi vị trí mà
người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã hội với tư cách là một sự kết
hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được gọi là chỗ làm hay việc làm.
Trong luật pháp quốc tế, LĐTE là thuật ngữ thường dùng để chỉ tình trạng
một người dưới 18 tuổi phải làm các cơng việc có hại đến tinh thần, thể chất, trí tuệ,
đạo đức và nhân cách của các em; hoặc phải làm việc từ độ tuổi nhỏ khiến cho các
em mất đi cơ hội học tập và phát triển.
LĐTE là công việc khiến trẻ em mất đi tuổi thơ, tiềm năng và nhân cách, và
có ảnh hưởng xấu tới sự phát triển về thể chất và tinh thần của trẻ, bao gồm cả việc
cản trở khả năng đến trường. Nó bao gồm những cơng việc: nguy hiểm và gây hại
cho trẻ em về mặt tinh thần, thể chất, xã hội hay đạo đức; và ản trở việc học tập của
trẻ em do: lấy đi của các em cơ hội học tập, buộc các em phải nghỉ học sớm, hay
buộc các em phải kết hợp việc học với làm việc nặng nhọc và trong nhiều giờ.
LĐTE được nhận diện thơng qua các tiêu chí về độ tuổi, thời gian làm việc,
loại công việc và nơi làm việc được xem là nguy hại cho người dưới 18 tuổi. Những
quy định theo các tiêu chí này được thể hiện rõ trong hai công ước của ILO là Công

ước số 138 năm 1973 về tuổi lao động tối thiểu và Công ước số 182 năm 1999 về
nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất. Cụ thể,
nó bao gồm những hình thức LĐTE tồi tệ nhất, những công việc nguy hại và công
việc không được phép thực hiện bởi trẻ em dưới tuổi lao động tối thiểu theo luật
từng nước (Bảng 1.1).

10


Bảng 1.1. Mức tuổi lao động tối thiểu xác lập theo quy định
của Công ước số 138
Mức tuổi lao động

Tuổi tối thiểu áp
dụng chung cho mọi

Tuổi tối thiểu ngoại lệ, áp
dụng cho các quốc gia

quốc gia

đang phát triển

Tuổi tối thiểu cơ bản (Điều
2)

Không dưới 15 tuổi

Không dưới 14 tuổi


Tuổi tối thiểu áp dụng với
các công việc nguy hiểm

Không dưới 18 tuổi

Khơng dưới 16 tuổi Nhưng
an tồn và phẩm hạnh phải

(Điều 3)
Tuổi tối thiểu áp dụng với
các công việc nhẹ (Điều 7)

được đảm bảo
13 - 15 tuổi

12-14 tuổi

Nguồn: Theo tài liệu Hướng dẫn phòng ngừa và giảm thiều lao động trẻ em
của tổ chức ILO. [40, tr 7-11]
Theo pháp luật Việt Nam:
Bộ luật Lao động 2019 là văn bản pháp lý tồn diện nhất quy định các vấn đề
có liên quan đến trẻ em tham gia lao động và người lao động chưa thành niên. Bộ
luật Lao động quy định: “người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên” (Điều 3) và
“người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi " (Điều 143, Bộ
Luật lao động 2019) và nghiêm cấm việc sử dụng lao động chưa thành niên trái
pháp luật, cưỡng bức lao động và các hành vi lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, tập
nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề, người
tập nghề vào hoạt động trái pháp luật.
Thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động-Thương binh và Xã
hội, ban hành ngày 10 tháng 6 năm 2013 quy định danh mục các công việc và nơi

làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên. Phạm vi áp dụng đối với
tất cả các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có th
mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động. Danh mục quy định 91 công việc
và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên.

11


Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động-Thương binh và Xã
hội, ban hành ngày 11/6/2013 quy định danh mục Công việc nhẹ được sử dụng
người dưới 15 tuổi làm việc. Bao gồm: (i) Danh mục công việc được sử dụng người
dưới 13 tuổi làm việc và (ii) Danh mục công việc được sử dụng người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 15 tuổi được làm việc.
1.1.1.3. Chính sách lao động trẻ em
Chính sách LĐTE là tập hợp những quyết định, quy định của nhà nước được
cụ thể hóa trong các chương trình, dự án cùng với nguồn lực, quy trình hay cơ chế
thực hiện nhằm tác động vào các đối tượng LĐTE.
Đối với thế giới:
Các tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan đến LĐTE: Công ước về Quyền trẻ
em. Điều 32 quy định trẻ em phải được bảo vệ trước sự “bóc lột kinh tế” và “tính
đến những điều khoản thích hợp của những văn kiện quốc tế khác”. Ví dụ như các
Công ước của ILO thể hiện nguyên tắc cơ bản trong lao động. Tuyên bố về các
quyền và Nguyên tắc cơ bản tại nơi làm việc và theo dõi việc áp dụng được thông
qua tại Hội nghị Lao động Quốc tế lần thứ 86 họp tại Geneva vào tháng 6/1998,
trong đó quy định rằng xóa bỏ hiệu quả LĐTE là một trong bốn nguyên tắc cơ bản
mà các quốc gia thành viên của Công ước về quyền trẻ em (Công ước về quyền trẻ
em được viết tắt là CRC) cần tuân thủ hoặc các văn kiện quốc tế khác như các công
ước của ILO thể hiện nguyên tắc cơ bản trong lao động.
Tuy nhiên, không đơn giản để xác định được thế nào là “bóc lột kinh tế” hay
“LĐTE” nào cần phải xóa bỏ, trong khi trẻ em tham gia lao động dưới nhiều hình

thức khác nhau và điều kiện lao động khác nhau và không phải tất cả những cơng
việc trẻ em tham gia đều là “có hại" đối với trẻ em. Vì vậy, cần có các tiêu chuẩn
quốc tế đối với các quy định của quốc gia về vấn đề trẻ em tham gia lao động.
Công ước số 138 của ILO về độ tuổi tối thiểu (được bổ sung bởi Khuyến nghị
số 146) yêu cầu độ tuổi lao động tối thiểu chung phải được ấn định bởi mỗi quốc gia
và khơng được dưới tuổi hồn thành giáo dục bắt buộc và về nguyên tắc, không
dưới 15 tuổi. Tuy nhiên, trẻ em 13-14 tuổi có thể được phép làm công việc nhẹ
Công ước số 138 của ILO về độ tuổi tối thiểu (được bổ sung bởi Khuyến nghị số

12


146) yêu cầu độ tuổi lao động tối thiểu chung phải được ấn định bởi mỗi quốc gia
và không được dưới tuổi hoàn thành giáo dục bắt buộc. Đối với những công việc
nguy hiểm phải nghiêm cấm đối với trẻ em dưới 18 tuổi. Nội dung chính xác của
cơng việc nguy hiểm phải được xác định bởi mỗi quốc gia sau khi tham khảo ý kiến
ba bên (chính phủ, cơng đồn và đại diện của người sử dụng lao động).
Cơng ước 182 của ILO về các hình thức LĐTE tồi tệ nhất (được bổ sung bởi
Khuyến nghị số 190) yêu cầu nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình
thức LĐTE tồi tệ nhất là mối ưu tiên chính của hành động quốc gia và quốc tế, đã
được Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế nhất trí thơng qua trong phiên
họp lần thứ 87 tại Giơ-ne-vơ và được tuyên bố ngày 17 tháng 6 năm 1999. Phạm vi
áp dụng công ước bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, khơng có ngoại lệ.
Công ước yêu cầu các quốc gia phê chuẩn khơng chỉ cấm các hình thức
LĐTE tồi tệ nhất trong pháp luật mà còn phải thiết kế và thực hiện các chương trình
hành động nhằm xóa bỏ các hình thức này như là một ưu tiên, và phải thiết lập hoặc
chỉ định các cơ chế thích hợp để theo dõi việc thực hiện Công ước. Các quốc gia
phê chuẩn cũng phải áp dụng các biện pháp phịng ngừa có hiệu quả và có khung
thời gian cụ thể; có sự trợ giúp cho việc đưa trẻ em ra khỏi các hình thức LĐTE tồi
tệ nhất và phục hồi chức năng cho các em; đảm bảo tiếp cận với giáo dục cơ bản

không phải trả tiền hoặc hướng nghiệp dạy nghề cho tất cả trẻ em đã được đưa ra
khỏi các hình thức LĐTE tồi tệ nhất; xác định trẻ em có nguy cơ đặc biệt; và có tính
đến hồn cảnh đặc biệt của trẻ em gái.
Công ước 29 của ILO về Lao động cưỡng bức thông qua năm 1930. Năm
2007, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này. Khoản 1, Điều 2 Công ước nêu rõ “lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc" là chỉ mọi công việc hoặc dịch vụ là một người bị
ép buộc phải làm dưới sự đe dọa của một hình phạt nào đó và bản thân người đó
khơng tự nguyện làm. Như vậy, lao động cưỡng bức có thể tồn tại dưới bất cứ hình
thức lao động nào, có thể được áp đặt lên cả người lớn và trẻ em, ở cả khu vực nhà
nước, khu vực tư nhân, các cá nhân.
Nghị quyết của ILO về thống kê LĐTE lần thứ 18, 2008). Nghị quyết liên
quan đến thống kê LĐTE đã được thông qua tại Hội nghị thống kê lao động quốc tế

13


lần thứ 18 do ILO tổ chức tại Geneva vào tháng 12/2008 thiết lập các hướng dẫn
được chấp nhận trên toàn cầu về tiêu chuẩn đo lường thống kê LĐTE. Đây là một
sự phát triển quan trọng trong phân tích LĐTE, bất kỳ số liệu thống kê nào cũng
phải được đo lường, phải có một định nghĩa hoạt động và duy nhất.
Nghị quyết đã làm rõ trẻ em tham gia lao động (hay trẻ em đang làm việc) đề
cập đến trẻ em tham gia bất kỳ hoạt động nào nằm trong giới hạn sản xuất nói
chung trong hệ thống tài khoản quốc gia với ít nhất 01 giờ trong giai đoạn tham
chiếu. Trong đó chỉ có một tập hợp con là LĐTE cần loại bỏ.
Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực Châu Á và là nước thứ hai trên thế
giới phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) ngày
20/2/1990, Việt Nam cũng đã phê chuẩn hai Công ước cơ bản của ILO liên quan
đến LĐTE: Công ước về độ tuổi tối thiểu (Công ước 138, 1973) và Cơng ước về các
hình thức LĐTE tồi tệ nhất (Công ước 182, 1999). Việt Nam đã chủ động nội luật
hóa các quy định của pháp luật quốc tế; đến nay về cơ bản, hệ thống pháp luật quốc

gia về bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã tương đối đầy đủ, đảm bảo tính thống nhất, đồng
bộ, hài hoà với pháp luật quốc tế, tạo hành lang pháp lý toàn diện để giải quyết các
vấn đề của trẻ em, trong đó có vấn đề bóc lột sức LĐTE.
Các chính sách liên quan LĐTE tại Việt Nam: Giảm nghèo ở nông thôn và cải
thiện sinh kế nông thôn và việc làm cho thanh thiếu niên.; dụng pháp luật về LĐTE;
cải thiện tiếp cận giáo dục có chất lượng và phù hợp với nhu cầu của trẻ em gái và
trẻ em trai nông thôn; giảm thiểu mức độ tổn thương của các hộ gia đình và người
lao động; lồng ghép vấn đề LĐTE vào các chính sách, chương trình và nghiên cứu
nông nghiệp và nông thôn; thúc đẩy đối thoại xã hội; ngày 07/6/2016, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1023/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Phịng
ngừa, giảm thiểu LĐTE giai đoạn 2016-2020 với mục tiêu chung “Thực hiện có
hiệu quả cơng tác phịng ngừa, giảm thiểu LĐTE; trẻ em có nguy cơ và trẻ em lao
động trái với quy định của pháp luật được phát hiện, can thiệp, hỗ trợ kịp thời để
hòa nhập cộng đồng và có cơ hội phát triển”. Chương trình nhằm thực hiện cam kết
của Việt Nam về xóa bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất và giảm thiểu LĐTE. Cùng
với Quyết định 1023/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

14


Chương trình phịng ngừa, giảm thiểu LĐTE giai đoạn 2016-2020, Chính phủ ban
hành nhiều quyết định trong giai đoạn này liên quan đến lĩnh vực bảo vệ trẻ em, góp
phần thúc đẩy, hỗ trợ và tăng cường nguồn lực thực hiện các nội dung, mục tiêu của
Chương trình phịng ngừa, giảm thiểu LĐTE:
(i). Các Chương trình với các biện pháp và nguồn lực bổ sung, hỗ trợ thực
hiện phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE, gồm: (i) Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn
2016-2020 và Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn
2016-2020. Các dự án của chương trình này góp phần tăng cường năng lực và điều
kiện thực hiện chương trình phịng ngừa, giảm thiểu LĐTE (phát triển cơ sở cung
cấp dịch vụ xã hội có nhiệm vụ bảo vệ trẻ em, phát triển nghề cơng tác xã hội góp

phần nâng cao năng lực trợ giúp trẻ em …); (iii) Chương trình quốc gia phòng,
chống mua bán người với mục tiêu tổng quát “Giảm nguy cơ mua bán người; giảm
tội phạm mua bán người; thực hiện hiệu quả công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ
nạn nhân bị mua bán trở về”.
(ii). Các Chương trình, đề án, tiêu chuẩn, tháng hành động… góp phần nâng
cao nhận thức, trang bị kiến thức, năng lực bảo vệ trẻ em cho gia đình, cộng đồng,
nhà trường và bản thân trẻ em, tạo môi trường sống an tồn, khơng để trẻ em phải
lao động kiếm sống, gồm: (i) Chương trình giáo dục đời sống gia đình; (ii) Tháng
hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình; (iii) Đề án đưa nội dung
quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; (iv)
Đề án Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018-2025; (v) Bộ tiêu
chí quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020; (vi) Tiêu chuẩn, trình tự
đánh giá và cơng nhận xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em; (vii) Đề án chăm
sóc vì sự phát triển tồn diện trẻ em trong những năm đầu đời tại gia đình và cộng
đồng giai đoạn 2018-2025; (viii) Đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em tại cộng đồng giai đoạn 2018-2025; (ix) Đề án
“Hỗ trợ nhóm trẻ độc lập, tư thục tại khu công nghiệp, khu chế xuất” (Đề án 404),
tạo điều kiện cho các bậc cha, mẹ là công nhân lao động có con dưới 36 tháng tuổi
có nơi gửi trẻ an tồn, góp phần giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị xâm hại; (x) Đề án
“Tuyền truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội

15


liên quan đến phụ nữ trong tình hình mới” (Đề án 938), theo đó nội dung trọng tâm
2019-2020 là “Giáo dục cha, mẹ trong chăm sóc và phát triển trẻ em”.
(iii). Các Chương trình với các giải pháp nhằm huy động nguồn lực và sự
phối hợp liên ngành tham gia bảo vệ trẻ em, trong đó có phịng ngừa, giảm thiểu
LĐTE: (i) Ban hành quy chế phối hợp liên ngành về phịng, chống bạo lực gia đình;
(ii) Đề án vận động nguồn lực xã hội hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn vùng

dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2019-2025; (iii) Ban hành danh mục dịch vụ
sự nghiệp công sử dụng nhân sách nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể
thao và du lịch.
1.1.1.4. Thực hiện chính sách lao động trẻ em
Tổ chức thực hiện chính sách LĐTE là q trình biến các chính sách LĐTE
thành những kết quả trong đời sống xã hội; thơng qua các hoạt động có tổ chức về
LĐTE trong bộ máy nhà nước, nhằm thực hiện hoá các mục tiêu chính sách LĐTE
đã đặt ra.
Tùy thuộc vào chế độ chính trị, những quy định của hiến pháp, nguyên tác
thực thi quyền lực nhà nước, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, mức độ dân chủ,
công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước, trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở
mỗi quốc gia mà số lượng và loại chủ thể tham gia vào quá trình thực thi chính sách
lao động trẻ em ở các nước khác nhau là khác nhau.
Như vậy, có rất nhiều chủ thể tham gia vào q trình thực thi chính sách LĐTE
và các chủ thể này có mối quan hệ tương tác với nhau trong q trình thực hiện
chính sách; số lượng chủ thể và vai trò của từng chủ thề tham gia tùy thuộc vào từng
chính sách cụ thể và bối cảnh của từng nước. Tuy nhiên, có thể nhóm các chủ thể
tham gia vào thực thi chính sách LĐTE thành các nhóm sau: (1) Chủ thể thực thi là
các cơ quan nhà nước và nhân sự của các cơ quan đó - đây là chủ thể chịu trách
nhiệm thực thi chính sách LĐTE; (2) Chủ thể tham gia là các đối tác phi nhà nước
(các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước); (3) Chủ thể tham gia
với tư cách là đối tượng thụ hưởng chính sách (các cộng đồng dân cư, các nhóm dân
số, thậm chí mọi người dân).

16


Qua nghiên cứu và tham khảo một số khái niệm của quốc tế và Việt Nam về
nội dung liên quan đến LĐTE. Tác giả sẽ sử dụng các khái niệm nêu trên phù hợp
nhất để phục vụ cho việc nghiên cứu của luận văn. Các khái niệm này có ảnh hưởng

rất lớn đến q trình thực hiện chính sách đối với LĐTE. Nếu một khái niệm rỏ
ràng, cụ thể sẽ giúp cho chúng ta xác định đúng số liệu liên quan đến từng nhóm đối
tượng thủ hưởng chính sách, từ đó giúp cho việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính
sách sẽ phù hợp với thực tế hơn. Cịn ngược lại thì việc thực hiện chính sách sẽ gặp
nhiều vấn đề khó khăn. Vì vậy, tác giả sẽ áp dụng các khái niệm nêu trên vào từng
trường hợp cụ thể tại địa phương cho phù hợp nhất.
1.1.2. Mục tiêu, nội dung của chính sách đối với lao động trẻ em
1.1.2.1. Mục tiêu của chính sách lao động đối với trẻ em
Mục tiêu tổng quát:
Bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em, phát triển toàn diện trẻ em nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cho phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế; tạo lập mơi trường an tồn, lành mạnh và thân thiện, góp phần
hồn thành các mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững;
thực hiện có hiệu quả cơng tác phịng ngừa, giảm thiểu LĐTE; trẻ em có nguy cơ và
trẻ em lao động trái với quy định của pháp luật được phát hiện, can thiệp, hỗ trợ kịp
thời để hòa nhập cộng đồng và có cơ hội phát triển.
Mục tiêu cụ thể:
Nâng cao nhận thức, năng lực và trách nhiệm của chính quyền các cấp, các
ngành, các tổ chức có liên quan, người sử dụng lao động, cộng đồng, cha mẹ và trẻ
em về LĐTE; nâng cao nhận thức xã hội về phòng ngừa và giảm thiểu LĐTE; Tăng
cường phòng ngừa, phát hiện, hỗ trợ, can thiệp LĐTE và trẻ em có nguy cơ;
100% trẻ em lao động trái quy định của pháp luật khi có thơng báo, phát hiện
được hỗ trợ, can thiệp kịp thời;
Phấn đấu giảm tỷ lệ LĐTE và người chưa thành niên từ 5 đến 17 tuổi xuống
4,9% vào năm 2025 và xuống 4,5% vào năm 2030.

17


1.1.2.2. Nội dung thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em

Thứ nhất: Hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả về mặt pháp luật,
chính sách về phòng ngừa và giảm thiểu LĐTE. Quy định cụ thể quyền hạn, trách
nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc phòng ngừa, phát hiện, can thiệp, hỗ
trợ LĐTE.
Thứ hai: Lồng ghép việc thực hiện nội dung của Chương trình trong hoạt động
của hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Thứ ba: Triển khai có hiệu quả chính sách trợ giúp xã hội, giảm nghèo; cải
thiện điều kiện, môi trường lao động phù hợp tại các làng nghề truyền thống, cơ sở
sản xuất, kinh doanh và khu vực kinh tế phi chính thức; giáo dục nghề nghiệp và
giới thiệu việc làm nhằm hỗ trợ trẻ em và gia đình cải thiện cuộc sống.
Thứ tư: Tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp
sử dụng trẻ em lao động trái quy định của pháp luật.
Thứ năm: Tăng cường hoạt động truyền thông, giáo dục, vận động xã hội
nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm về phịng ngừa, giảm thiểu tình trạng trẻ em
tham gia lao động, trẻ em có nguy cơ và trẻ em lao động trái quy định của pháp luật
cho chính quyền các cấp, các ngành, các tổ chức, người sử dụng lao động, xã hội,
cha mẹ và trẻ em. Tổ chức các chiến dịch truyền thông nhằm tạo mối quan tâm, thúc
đẩy sự thay đổi nhận thức và vận động sự tham gia của xã hội đối với cơng tác
phịng ngừa, giảm thiểu tình trạng trẻ em tham gia lao động, trẻ em có nguy cơ và
trẻ em lao động trái quy định của pháp luật; nghiên cứu xây dựng và phát triển các
chương trình, tài liệu, sản phẩm truyền thơng về phịng ngừa, can thiệp, hỗ trợ giảm
thiểu tình trạng trẻ em tham gia lao động, trẻ em có nguy cơ và trẻ em lao động trái
quy định của pháp luật; triển khai các hình thức truyền thống phù hợp với từng
nhóm đối tượng của Chương trình; tổ chức các hoạt động giáo dục, tư vấn, truyền
thông trực tiếp cho cộng đồng, trường học, người sử dụng lao động, đặc biệt tại các
làng nghề truyền thống, cơ sở sản xuất, kinh doanh và khu vực kinh tế phi chính
thức về phịng ngừa, can thiệp, hỗ trợ giảm thiểu tình trạng trẻ em tham gia lao
động, trẻ em có nguy cơ và trẻ em lao động trái quy định của pháp luật.

18



Thứ sáu: Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm vận động nguồn lực, trao đổi kinh
nghiệm với các nước, các tổ chức quốc tế trong việc thực hiện Chương trình.
Thứ bảy: Nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục trẻ em các cấp, người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã, cộng tác viên
làm cơng tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, ưu tiên đội ngũ thanh tra viên về phịng ngừa,
phát hiện, can thiệp, hỗ trợ giảm thiểu tình trạng trẻ em tham gia lao động, trẻ em có
nguy cơ và trẻ em lao động trái quy định của pháp luật.
Thứ tám: Thí điểm mơ hình hỗ trợ, can thiệp để giảm thiểu LĐTE
1.2. Q trình thực hiện chính sách đối với lao động trẻ em
1.2.1. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về lao động trẻ em
Thực hiện Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là chính sách nhất quán của Việt
Nam từ khi thành lập nước năm 1945. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp đầu
tiên của Việt Nam năm 1946 đã quy định: “Trẻ con được săn sóc về mặt giáo
dưỡng” (Điều 14). Quy định này được tái khẳng định và cụ thể hoá trong tất cả các
bản Hiến pháp về sau (1959, 1980, 1992, 2013).
Năm 1991, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới
phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Sau khi ký kết Công ước
quốc tế về Quyền trẻ em, Việt Nam tiếp tục ký kết hai Nghị định thư bổ sung về
Cấm sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang và Cấm buôn bán, mại dâm trẻ em và
sản xuất văn hóa phẩm khiêu dâm có trẻ em.
Đặc biệt, lần đầu tiên Hiến pháp 2013 (Điều 37) nêu rõ: “Nghiêm cấm xâm
hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi
khác vi phạm quyền trẻ em”. chính sách hiện nay của Nhà nước Việt Nam về phòng
ngừa, giảm thiểu LĐTE được cụ thể hoá trong nhiều văn bản pháp luật chuyên
ngành, trong đó nổi bật là các văn bản sau đây:
Một là: Bộ Luật Lao động 2012 có một chương riêng quy định về Lao động
chưa thành niên (Điều 161-165) trong đó quy định độ tuổi được xem là lao động
chưa thành niên, các nguyên tắc và nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi tuyển

dụng, sử dụng người lao động chưa thành niên, các công việc và nơi làm việc cấm
sử dụng lao động chưa thành niên. Một số quy định này được cụ thể hoá trong

19


Thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH ban hành Danh mục các công việc và nơi làm
việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên và Thông tư số 11/2013/TTBLĐTBXH ban hành Danh mục công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi
làm việc.
Hai là: Luật trẻ em 2016 quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi (Theo điều 1,
Luật Trẻ em năm 2016, tại Thư viện pháp luật, địa chỉ />xác định rõ: “TE có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để khơng bị bóc lột sức
lao động; không phải lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; khơng bị bố trí cơng việc
hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ
em (Theo Điều 26, Luật trẻ em năm 2016, tại Thư viện pháp luật, địa chỉ
Luật cũng nghiêm cấm một loạt hành vi trong đó có
những hành vi gắn liền với vấn đề LĐTE, bao gồm: Bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt
cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; Xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ
em; Tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hơn; Sử dụng, rủ rê, xúi giục, kích
động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật...; Cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình; Khơng cung cấp hoặc
che giấu, ngăn cản việc cung cấp thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy
cơ bị bóc lột, bị bạo lực cho gia đình, cơ sở giáo dục, cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền; Lợi dụng việc nhận chăm sóc thay thế trẻ em để xâm hại trẻ em; lợi dụng
chế độ, chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ, giúp đỡ của tổ chức, cá nhân dành
cho trẻ em để trục lợi; Từ chối, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ,
không kịp thời việc hỗ trợ, can thiệp, điều trị trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong
tình trạng nguy hiểm, bị tổn hại thân thể, danh dự, nhân phẩm…(Điều 6, Luật Trẻ
em năm 2016, tại Thư viện pháp luật, địa chỉ />Ba là: Luật Trẻ em quy định tại điều 10 có quy định 14 nhóm trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt, trong đó có bổ sung các nhóm mới như: trẻ em bị tổn hại nghiêm

trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực; trẻ em bị bóc lột; trẻ em bị mua bán; trẻ
em mắc bệnh; trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc
khơng có người chăm sóc. Đây là những nhóm trẻ em thuộc về hoặc có nguy cơ cao

20


rơi vào hoàn cảnh LĐTE. Luật cũng quy định 25 nhóm quyền của trẻ em, trong đó
có những quyền có tác dụng trực tiếp với việc bảo vệ trẻ em khỏi bị rơi vào hoàn
cảnh LĐTE như quyền được sống chung với cha, mẹ; quyền được chăm sóc thay
thế và nhận làm con nuôi; quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục, khơng
bị bóc lột sức lao động, không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc, không bị mua, bán, bắt
cóc, đánh tráo, chiếm đoạn; quyền được đảm bảo ASXH; quyền của trẻ em không
quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn…Đặc biệt, Luật trẻ em 2016 quy định cụ thể các
nội dung về các cấp độ bảo vệ trẻ em (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp) và trách nhiệm
thực hiện; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp
bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hịa
nhập cộng đồng. Những quy định này cũng có ý nghĩa quan trọng với việc phòng
ngừa, can thiệp, hỗ trợ trẻ em lao động.
Bốn là: Bộ luật Hình sự: Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có
một điều quy định trực tiếp về tội vi phạm quy định về sử dụng LĐTE (Điều 228),
theo đó hành vi sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc
tiếp xúc với các chất độc hại gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành
chính về hành vi này mà cịn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm
mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến
cao nhất là bảy năm. Ngoài ra, Bộ luật còn quy định về tội danh mua bán, đánh tráo
hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120); các tội danh liên quan đến mại dâm trẻ em, xâm
hại tình dục trẻ em và khiêu dâm trẻ em (Điều 112, 114, 115 và 116). Quy định tại
Điều 228 nêu trên được đổi thành “Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động
dưới 16 tuổi” (Điều 296) của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, có

hiệu lực từ 1-1-2018, trong tài liệu này viết tắt là Bộ luật Hình sự 2015) với chế tài
nghiêm khắc hơn. Cụ thể, theo Điều 296 Bộ luật Hình sự 2015, người nào sử dụng
người dưới 16 tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với
các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định thì bị phạt tiền từ 30 triệu
đến 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 10 năm. Các tội danh khác liên quan đến LĐTE cũng được tái khẳng định
trong Bộ luật Hình sự năm 2015 với chế tài nghiêm khắc hơn.

21


Năm là: Việc bảo vệ trẻ em khỏi bị rơi vào trường hợp LĐTE được đề cập cả
trực tiếp và gián tiếp trong một số luật và pháp lệnh khác của Việt Nam như: Luật
phổ cập giáo dục tiểu học 1991 và Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
(hai luật này quy định chi tiết về quyền học tập của trẻ em, gồm quyền được học
tiểu học miễn phí), Luật Hơn nhân và gia đình 2014 (nhấn mạnh việc đổi xử bình
đẳng với con trai và con gái, trẻ em được sinh ra trong và ngoài giá thú); Luật Nghĩa
vụ quân sự 2016 (qui định độ tuổi nhập ngũ là 18 tuổi và đưa ra các biện pháp nhằm
đảm bảo khơng tuyển trẻ em ít hơn 18 tuổi); Luật Phòng, Chống Mua Bán người
2011 (Nghiêm cấm các hành vi mua bán người và quy định các biện pháp phòng
ngừa, giải cứu, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán); Pháp lệnh Phòng, Chống
Mại dâm 2003 (Quy định trách nhiệm của các cơ sở kinh doanh dịch vụ phải ký hợp
đồng lao động bằng văn bản với người lao động; đăng ký lao động với cơ quan quản
lý lao động địa phương và không sử dụng người lao động dưới 18 tuổi làm những
công việc ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể lực, trí lực và nhân cách của họ);
Luật An toàn, Vệ sinh Lao động 2015 (Quy định việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao
động; chính sách, chế độ đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trách
nhiệm và quyền hạn của các tổ chức, cá nhân liên quan đến cơng tác an tồn, vệ
sinh lao động và quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động – những quy định
này cũng được áp dụng với lao động chưa thành niên).

Để hướng dẫn thực hiện những quy định về lao động chưa thành niên và LĐTE
trong một số luật nêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số Nghị định trong
đó quan trọng nhất là: (1) Nghị định số 56/NĐ-CP ngày 9/5/2017 quy định chi tiết một
số điều về Luật trẻ em, trong đó bao gồm các quy định về các nhóm trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt và chính sách hỗ trợ; hỗ trợ, can thiệp đối với trường hợp trẻ em bị xâm
hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hồn cảnh đặc biệt; việc
chăm sóc thay thế cho trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia
đình, cá nhân trong việc bảo đảm để trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em; (2)
Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngồi theo hợp đồng, trong đó bao

22


×