Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ha Thanh Van To Nguyet Dinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.53 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TƠ NGUYỆT ĐÌNH - NGỊI BÚT U NƯỚC CHỐN ĐƠ THÀNH SÀI </b>
<b>GỊN 1945 - 1954 </b>


<i><b>Hà Thanh Vân </b></i>


<b>Từ một ký giả có danh trong làng báo </b>


Tơ Nguyệt Đình có tên thật là Nguyễn Bảo Hóa. Ơng cịn có bút danh
khác là Tiêu Kim Thủy, tuy nhiên, trên văn đàn Sài Gịn trong giai đoạn 1945 –
1954 thì cái tên Tơ Nguyệt Đình vẫn được biết nhiều nhất.


Được độc giả miền Nam biết đến nhiều trong giai đoạn 1945 – 1954,
nhưng cuộc đời và văn nghiệp của Tơ Nguyệt Đình vẫn chưa được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, chưa được đề cập đến nhiều trong các cơng trình về lịch
sử văn học Nam Bộ. Một số cơng trình có nhắc đến tên tuổi của ơng, nhưng chỉ
dừng lại ở sơ lược một vài nét tiểu sử với tư cách là một nhà hoạt động văn hóa
nghệ thuật như Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900 – 1954) (1),
<i><b>Từ </b><b>điển tác gia Việt Nam (2), </b><b>Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu (3), Từ </b><b>điển Sài </b></i>
<i><b>Gịn – TPHCM (4)…Ngồi ra, Nguyễn Văn Y trong L</b>ời giới thiệu tác phẩm Bộ </i>
<i><b>áo cà sa nhuộm máu (5) cũng có nhắc đơi lời đến tiểu sử và nghệ thuật viết văn </b></i>
của ông.


Tô Nguyệt Đình sinh ngày 1-10-1920 tại làng Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa,
ngày nay thuộc tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu. Thuở nhỏ, ông từng học ở Bà Rịa, rồi
Sài Gòn. Sau khi đậu bằng Thành chung (tương đương với tốt nghiệp cấp II
ngày nay), vào khoảng năm 1940, ông mở một cửa hàng sách báo tại Bà Rịa và
<i>làm thơng tín viên cho các báo Tin điển, Tiểu thuyết thứ bảy… Năm 1941, ông </i>
được giải thưởng văn chương của hai tờ báo này. Như vậy, Tơ Nguyệt Đình đã
bước chân vào làng văn, làng báo khi tuổi đời còn khá trẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Dân tộc, Tiến, Vận hội mới, Tin sớm, Phổ thông, Tranh thủ, Tin mật, Thời đại </i>


<i>mới, Dân nguyện… </i>


Những bài viết của Tơ Nguyệt Đình trên báo chí cơng khai ở đơ thành Sài
Gịn trong giai đoạn 1945 - 1954 và ở cả giai đoạn 1954 - 1975 thường là những
bài mang tính chính luận, đề cập trực diện đến nhiều vấn đề của hiện thực đời
sống chính trị ngay trước mắt, vừa tố cáo mạnh mẽ và kịp thời những âm mưu,
chính sách thâm độc của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai,
vừa tuyên truyền cho cách mạng và đấu tranh cho tự do, dân chủ. Bài báo Nên
<i>bảo vệ và cứu trợ triệt để tù nhân chính trị! đăng trên báo Tin điển ngày </i>
13-10-1946 có thể được xem là một bài báo tiêu biểu cho ngòi bút chiến đấu của Tơ
Nguyệt Đình.


Hơn ba mươi năm trong nghề báo, cho đến khi gác bút, Tơ Nguyệt Đình
vẫn là một nhà báo dũng cảm, với tôn chỉ là viết đúng sự thật và viết để hướng
tới những lý tưởng xã hội tốt đẹp.


<b>Cho đến một nhà văn, nhà biên khảo lịch sử </b>


Bên cạnh công việc bận rộn của một ký giả, Tơ Nguyệt Đình vẫn dành
thời gian để viết tiểu thuyết và viết sách khảo cứu lịch sử. Dù là sáng tác hay
biên khảo thì những tác phẩm của Tơ Nguyệt Đình vẫn chỉ tập trung vào một
chủ đề duy nhất: khơi gợi lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc của người
dân đất Việt.


Tô Nguyệt Đình viết hai thể tài tiểu thuyết chủ yếu là tiểu thuyết trinh
thám và tiểu thuyết lịch sử. Với hai thể tài này, ông dễ dàng dùng nội dung cốt
truyện để lồng vào đó những lời kêu gọi người dân đứng lên chống Pháp. Nếu
trong tác phẩm của ơng có kể về tình u nam nữ, tình cảm gia đình (Chàng đi
<i><b>theo nước) thì đấy cũng chỉ là cái cớ để nói lên lòng yêu nước, thương nòi vượt </b></i>
lên trên cả những tình cảm sâu nặng nhất của con người đối với con người.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b>Bộ áo cà sa nhuộm máu </b></i>được đánh giá là tác phẩm tiểu thuyết thành
công nhất của Tô Nguyệt Đình, “một phần có lẽ do nhan đề tác phẩm gây sự
chú ý cho người đọc, một phần chính vì truyện viết rất hấp dẫn, lơi cuốn từ đầu
chí cuối, nên lúc vừa chào đời, tác phẩm này đã được độc giả miền Nam tiếp
đón nồng nhiệt” (7). Với nội dung ly kỳ, tình tiết bất ngờ, Bộ áo cà sa nhuộm
<i><b>máu trước hết thu hút độc giả ở cốt truyện mang màu sắc trinh thám với đầy đủ </b></i>
các yếu tố hấp dẫn. Một vụ án mạng giết người cướp của bình thường, qua ngòi
bút của nhà văn trở nên phức tạp và bí ẩn. Có sự ngụy tạo thủ phạm giả, có kẻ
làm nội ứng, có cơ gái xinh đẹp tình nguyện lấy bản thân mình để đền đáp cho
ai tìm ra kẻ giết mẹ, có sự can dự của một nhà báo, và trên hết là hành động tài
tình của Đảng Sao Đen để đưa thủ phạm thật sự ra trước pháp luật.


Nhà văn Tơ Nguyệt Đình cũng rất chú trọng việc xây dựng hình ảnh
những nhân vật mang tinh thần yêu nước, những chàng trai cô gái tài năng và
xinh đẹp, giỏi võ nghệ, thơng minh và sẵn sàng xả thân vì lý tưởng. Tuy nhiên,
cũng vì quá chú trọng đến việc tô điểm cho những phẩm chất của nhân vật nên
ngòi bút nhà văn nhiều khi miêu tả diễn biến tâm lý cịn khá vụng về, khơng thật
thuyết phục người đọc. Nữ đảng viên Điệp Trà My đường đột đến làm quen với
Tuyết Nga rồi cũng rất nhanh chóng thuyết phục được nàng gia nhập Đảng Sao
Đen. Sự giác ngộ của tướng cướp Độc Long Xanh cũng diễn ra rất nhanh và
khơng hề trải qua những dày vị, trăn trở. Và Đảng Sao Đen, cho dù mang danh
là một đảng cách mạng, thì chân dung của họ vẫn mang dáng vẻ của những anh
hùng nghĩa hiệp kiểu như Lương Sơn Bạc chứ không phải là những chiến sĩ
cách mạng trong đời thường. Tên gọi của họ phần nào phản ánh tính chất ấy
(Lương Huyết Hùng, Hoa Tuyết Trinh, Điệp Trà My, Vĩnh Ninh, Nam Sơn…).
Xuất thân của họ từ chốn phong lưu, giàu sang, có học thức. Cách hành động
của Đảng Sao Đen cũng là cách hành động của những anh hùng quả cảm nhưng
đơn lẻ, được sự ngưỡng mộ của quần chúng, nhưng xa lạ, khơng gần gũi, gắn bó
với số đông quần chúng lao động.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

phẩm đã ra đời cách đây hơn nửa thế kỷ, chúng ta khơng thể địi hỏi phải đáp
ứng được những tiêu chí như tiểu thuyết trong thời hiện tại.


Bỏ qua những khiếm khuyết về mặt nghệ thuật, Bộ áo cà sa nhuộm máu
vẫn là một trong số ít những tác phẩm văn học được xuất bản công khai ở chốn
đơ thành bị tạm chiếm có sức thu hút lớn đối với người đọc thời bấy giờ. Ngoài
lý do hấp dẫn về mặt nội dung, Bộ áo cà sa nhuộm máu đã đáp ứng được tâm
tư nguyện vọng của đại bộ phận nhân dân đang sống ở vùng tạm chiếm mà tấm
lòng vẫn hướng về chiến khu cách mạng, về những con người đang cầm súng
kháng chiến chống Pháp. Cách mạng có thể có những tổn thất, có những hy
sinh, nhưng mơ ước về một ngày mai tươi sáng hơn, "mơ thấy mình băng qua
dãy núi rừng hoang rậm tiến về thành thị giữa những rừng người và cờ xí tung
bay phất phới, biểu dương một ngày mai huy hoàng tươi sáng của đất nước Việt
Nam" vẫn là mơ ước cháy bỏng trong tim bao người dân đất Việt.


Sau giai đoạn 1945 - 1954, có lẽ tác phẩm tiểu thuyết được nhiều người
biết đến nhất của Tơ Nguyệt Đình là tác phẩm Mía sâu có đốt, viết chung với
<i><b>Thâm Giao. Mía sâu có đốt vẫn nằm trong mạch văn khơi gợi lòng yêu nước, tự </b></i>
hào dân tộc, dù nội dung có khác nếu so với những tiểu thuyết trước đây của Tô
Nguyệt Đình vốn nhuốm màu sắc trinh thám ly kỳ, hay viết theo hướng dã sử.
<i><b>Mía sâu có </b><b>đốt kể về cuộc đời </b></i>đầy tủi nhục của một cô gái chốn thơn q, bị
bóc lột, hãm hiếp đến mang thai, nhưng với sự giúp đỡ của những con người có
tấm lịng chính nghĩa, u q hương, cuộc sống của cơ đã đổi thay, cơ đã tìm
lại được hạnh phúc, cùng với hạnh phúc chung của cả dân tộc, "xung quanh
nguồn sống đang dào dạt dâng lên. Cảnh vật đã đổi thay, sau một mùa cách
mạng" (8).


Cũng giống như nhiều nhà văn yêu nước sống ở đô thành miền Nam
trong thời kỳ này, tác giả Tô Nguyệt Đình khi sáng tác tiểu thuyết có lẽ chỉ xem


mục đích phụng sự nghệ thuật là thứ yếu. Mục đích chủ yếu của ông vẫn là
dùng ngịi bút đóng góp cho mặt trận văn báo thời kỳ này, vừa kêu gọi lòng yêu
nước, tinh thần tự hào dân tộc, vừa lên án mạnh mẽ chính sách của chính quyền
thực dân Pháp, lên án những con người đã quay lưng lại quê hương để chạy theo
thế lực ngoại bang. Cùng với mục đích ấy, Tơ Nguyệt Đình đã viết một loạt
sách biên khảo lịch sử có nội dung khảo cứu về lịch sử nước nhà. Nhà văn cũng
không ngần ngại khi bày tỏ chính kiến của mình: "Nghệ sĩ Việt Nam phải lấy tư
cách nghệ sĩ, có nhiệm vụ phải làm trong cuộc giải phóng dân tộc… giúp quần
chúng kiến thiết đời sống mới hay làm lợi khí chống xâm lăng" (9) hay khẳng
định: "Trong 83 năm lệ thuộc Pháp, dân tộc Việt Nam luôn luôn vùng lên tranh
đấu quyết tâm giành lại chủ quyền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Sống dưới sự cai trị hết sức khắc nghiệt, mọi người Việt Nam mất cả
quyền tự do, bị ngược đãi tàn tệ nên không ai là không căm thù thực dân Pháp.
Các phần tử ái quốc đã lần lượt đứng lên quyết đem xương máu đổi tự do" (10).


Tô Nguyệt Đình viết tổng cộng 4 tác phẩm biên khảo lịch sử trong suốt
quãng đời cầm bút của mình. Nam Bộ chiến sử viết về cuộc chiến đấu trường
kỳ, dai dẳng của người dân Nam Bộ chống lại quân Pháp xâm lược. Phạm
<i><b>Hồng Thái viết về cuộc </b></i>đời của liệt sĩ cách mạng Phạm Hồng Thái từ những
ngày còn ở tuổi niên thiếu cho đến khi có hành động quyết tử ném bom nhằm
ám sát Toàn quyền Martial Merlin tại Sa Diện (Quảng Châu - Trung Quốc).
<i><b>Tàn phá Cổ Am viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng. </b></i>
Theo như lời tựa thì tác phẩm này được hồn thành vào năm 1949, nhưng mãi
đến năm 1958 mới xuất bản. Việt Nam 25 năm máu lửa xuất bản năm 1971
nhưng bị cấm vì có nội dung u nước, chống thực dân, đế quốc. Tuy là biên
khảo lịch sử nhưng cách viết của ông gần gũi với thể tài truyện ký danh nhân,
chứa đựng nhiều tình tiết, nội dung hấp dẫn, dù chỉ là miêu tả chuyện có thật
trong lịch sử. Tác phẩm cũng khơng mang nặng tính học thuật, do vậy, gần gũi
với độc giả và có tính phổ cập cao.



Dõi theo những hoạt động trong cả hai lĩnh vực văn và báo của Tơ
Nguyệt Đình, cho dù sự nghiệp cầm bút của ông trải dài trong quãng thời gian
gần 40 năm, nhưng những tác phẩm báo chí, văn chương hay biên khảo của ông
chủ yếu tập trung vào quãng thời gian 1945 – 1954 và vài năm sau đó. Những
đóng góp của ơng vào lịch sử văn chương Nam Bộ cũng chủ yếu là trong giai
đoạn này. Có thể nói, cùng với những ngịi bút sống cùng thời, tham gia những
hoạt động sôi nổi cùng với ông như Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Triệu
Công Minh, Thành Nguyên, Nam Quốc Cang, Ái Lan v.v… Tơ Nguyệt Đình đã
có những thành tựu văn chương và báo chí đáng được ghi nhận. Sự nghiệp cầm
bút của ơng đã hịa cùng vào một dịng chảy chung của văn học cơng khai u
nước ở các đô thị Nam Bộ, với mục tiêu “đề cao lòng yêu nước bất khuất của
nhân dân thành thị, theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ trực diện đấu tranh với
thực dân Pháp và tay sai, bảo vệ nền văn hóa dân tộc, kiên quyết đấu tranh
chống xâm lược, giành độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc, góp sức cùng tồn
dân cả nước đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng” (11).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN CỦA TÔ NGUYỆT ĐÌNH: </b>


1. <i><b>Ải Chi Lăng. 1947. Truyện lịch sử. Sài Gịn, Việt Bút xuất bản. </b></i>
2. <i><b>Bóng giai nhơn. 1948. Truyện. Sài Gịn, Đồn Kết xuất bản. </b></i>


3. <i><b>Nam Bộ chiến sử. 1949. Biên khảo lịch sử. Sài Gòn, Lửa Sống xuất bản. </b></i>
4. <i><b>Mỵ Lan Hương. 1950. Tiểu thuyết. Sài Gòn, Tấn Phát xuất bản. </b></i>


5. <i><b>Bộ áo cà sa nhuộm máu. 1952. Tiểu thuyết trinh thám. Sài Gòn, Tấn </b></i>
Phát xuất bản.


6. <i><b>Bức </b><b>địa </b><b>đồ máu. 1952. Tiểu thuyết phóng tác. Sài Gịn, Tấn Phát xuất </b></i>
bản.



7. <i><b>Chàng </b><b>đi theo nước. 1953. Tiểu thuyết lịch sử. Sài Gòn, Tấn Phát xuất </b></i>
bản.


8. <i><b>Phạm Hồng Thái. 1957. Biên khảo lịch sử. Sài Gòn, Sống Mới xuất bản. </b></i>
9. <i><b>Tiếp bội. 1957. Tiểu thuyết. Sài Gịn, Lá Dâu xuất bản. </b></i>


10. <i><b>Mía sâu có đốt. 1957. Tiểu thuyết. Viết chung với Thâm Giao. Sài Gòn, </b></i>
Lá Dâu xuất bản.


11. <i><b>Tàn phá cổ am. 1958. Biên khảo lịch sử. Sài Gòn, Tấn Phát xuất bản. </b></i>
12. <i><b>Việt Nam 25 năm máu lửa. 1971. Biên khảo lịch sử. Sài Gịn, Khai Trí </b></i>


xuất bản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>CHÚ THÍCH: </b>


(1) Hồi Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp. 1988. Nxb. TPHCM.
(2) Nguyễn Q. Thắng. 1999. Hà Nội, Nxb. Văn hóa thơng tin.


(3) Thạch Phương, Nguyễn Trọng Minh (chủ biên). 2005. Hà Nội, Nxb. Khoa
học xã hội.


(4) Thạch Phương, Lê Trung Hoa (chủ biên). 2008. TPHCM, Nxb. Trẻ,
TPHCM.


<i>(5) Lời giới thiệu của Nguyễn Văn Y in ở lần tái bản năm 2002 của Nxb. Văn </i>
nghệ TPHCM.


(6) Những đoạn trong ngoặc kép được trích từ tác phẩm Bộ áo cà sa nhuộm


<i><b>máu, 1952. Sài Gòn, Tấn Phát xuất bản. </b></i>


<i>(7) Lời giới thiệu của Nguyễn Văn Y in ở lần tái bản năm 2002 của Nxb. Văn </i>
nghệ TPHCM.


<i>(8) Mía sâu có đốt. 1957. Tiểu thuyết. Sài Gòn, Lá Dâu xuất bản, trang 156. </i>
(9) Lời tựa của Nam B<i>ộ chiến sử</i>. 1949. Sài Gòn, Lửa Sống xuất bản.


(10) Lời tựa của Ph<i>ạm Hồng Thái. 1957, Sài Gòn, Sống Mới xuất bản. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO: </b>


1. Hoài Anh,Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp. Văn học Nam bộ từ đầu đến giữa
<i><b>thế kỷ XX (1900-1954). 1988. Nxb. TPHCM. </b></i>


2. <i><b>Phan Xuân Biên. Miền Đông Nam bộ con người và văn hóa. 2004. Nxb. </b></i>
Đại học Quốc gia TPHCM.


3. Trần Quỳnh Cư, Nguyễn Hữu Đạo, Đỗ Thị Nguyệt Quang, Nguyễn Tố
Uyên, Lưu Thị Tuyết Vân. Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945
<i><b>-1954). 2004. Hà Nội, Nxb. Giáo dục. </b></i>


4. Hồng Chương. 120 năm báo chí Việt Nam. 1985. Nxb. TPHCM.


5. Hồ Sơn Diệp. Trí thức Nam bộ trong kháng chiến chống Pháp
<i><b>1945-1954. 2003. Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. </b></i>


6. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên). Địa chí Văn hóa Thành phố
<i><b>Hồ Chí Minh (tập II). 1998. Nxb. TPHCM. </b></i>



7. Lưu Quí Kỳ. Qua thực tiễn văn học kháng chiến Nam bộ. 1958. Hà Nội,
Nxb. Văn hóa.


8. <i><b>Nguyên Hùng. Nam Bộ, những nhân vật một thời vang bóng. 2003. </b></i>
TPHCM, Nxb. Công an nhân dân.


9. <i><b>Mã Giang Lân. Văn học Việt Nam (1945 - 1954). 2003. Hà Nội, Nxb. </b></i>
Giáo dục.


10. Phong Lê (chủ biên). Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1945
<i><b>– 1954). 1986. Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội. </b></i>


11. <i><b>Phong Lê. Cách mạng kháng chiến và </b><b>đời sống văn học 1945-1954. </b></i>
1995. Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội.


12. Nhiều tác giả. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
<i><b>1945-1954. 1985. Hà Nội, Nxb. Quân đội nhân dân. </b></i>


13. Thế Phong. Văn học miền Nam (1945 -1950). 1957. Sài Gòn, Đại Nam
Văn Hiến xuất bản.


14. Thạch Phương, Nguyễn Trọng Minh (chủ biên). <i><b>Địa chí Bà Rịa – Vũng </b></i>
<i><b>Tàu. 2005. Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội. </b></i>


15. Thạch Phương, Lê Trung Hoa (chủ biên). Từ điển Sài Gòn - Thành phố
<i><b>Hồ Chí Minh. 2008. TPHCM, Nxb. Trẻ. </b></i>


16. Tơ Huy Rứa (chủ biên). Thư tịch báo chí Việt Nam. 1998. Hà Nội, Nxb.
Chính trị Quốc gia.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

18. Nguyễn Văn Sâm. Văn chương Nam bộ và cuộc kháng Pháp. 1972. Sài
Gòn, Lửa Thiêng xuất bản.


19. Nguyễn Viết Tá (chủ biên). Miền <i><b>Đông Nam bộ kháng chiến </b></i>
<i><b>(1945-1975). 1990. Hà Nội, Nxb. Quân đội nhân dân. </b></i>


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×