Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ-NIN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.56 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
GVHD:
SVTH: 1.
2.
3.
4.

Mã lớp học: LLCT120405


Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng năm
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….


…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….

Điểm: …………………………

KÝ TÊN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.................................................................................1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:.......................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
CHƯƠNG 1:QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIAI
CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CƠNG
NHÂN................................................................................................................3
1.1.Khái niệm về giai cấp cơng nhân..............................................................3
1.2.Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...............5
1.3.Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.........................................................................................11
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VỚI VIỆT NAM.............................................................................................16
2.1. Q trình hình thành giai cấp cơng nhân Việt Nam và sự ra đời của Công hội
đỏ…………………………………………………………………………………….16

KẾT LUẬN........................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................21




MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử vơ cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc
hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giảiphóng toàn
nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình phát triển mới của
đất nước và thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới, trong bối cảnh tồn cầu
hóa và phát triển kinh tế tri thức, giai cấpcông nhân ngày nay ở các nước, nhất là các
nước đang phát triển, là một trong những lực lượng xã hội quan trọng nhất, đang tham
gia tích cực vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế -xã hội của quốc gia.Từ tình
hình trên, tác giả tiểu luậnnhận thấy việc nghiên cứu về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân ngày nay là hết sức bức giúp cho việc tìm hiểu thêm về giai cấp cơng nhân
ngày nay từ đó đưa ra các mục tiên và giải pháp cho sự phát triển của giai cấp công
nhân và cũng là sự phát triển của đất nước.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Giai cấp công nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình hình thành và phát triển của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, với nhịp độ
phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng
sản xuất cơ bản và tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất,
tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của
tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp tư duy biện chứng, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã nghiên cứu thực trạng xã hội tư bản phát triển những năm đầu thế kỷ
XVIII và đưa ra quan niệm khoa học chung nhất về một giai cấp mới xuất hiện trong
xã hội lúc đó- giai cấp cơng nhân “con đẻ của nền đại công nghiệp”; gồm những người
lao động khơng có tư liệu bán sức lao động cho giai cấp tư sản và theo đó phải chịu áp
bức, bóc lột giá trị thặng sản xuất. Họ khơng có con đường nào khác để kiếm sống
ngoài việc tự do dư để làm giàu cho giai cấp tư sản; Họ là lực lượng lao động trực tiếp
vận hành các công cụ sản xuất trong nền công nghiệp hiện đại _ đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến. Nhưng họ là giai cấp cách mạng nhất, có tinh thần quốc tế vơ

sản trong sáng, đồn kết với nhau trong q trình đấu tranh chống lại kẻ thù giai cấp
chung là giai cấp tư sản.

1


Trên cơ sở những quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về giai cấp công nhân, V. I.
Lênin đã phát triển khái niệm giai cấp công nhân trong thời đại mới quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, làm hồn chỉnh và phong phú thêm lý luận
về giai cấp công nhân trong điều kiện: đã giành được chính quyền và lãnh đạo chính
quyền xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực.
Theo quan niệm của V. I. Lênin, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền phải
tỏ ra có “khả năng tổ chức thực tiễn” với việc thông qua Đảng tiền phong của mình
lãnh đạo tồn xã hội cải tạo xã hội cũ, tổ chức xây dựng xã hội mới, tổ chức xây dựng
đất nước, tiến hành kiểm kê, kiểm soát, sử dụng chuyên gia tư sản, đẩy mạnh sản xuất
và tổ chức thi đua; họ đã là người làm chủ nhà nước, làm chủ tập thể đối với tư liệu
sản xuất do nhà nước sở hữu quản lý, là giai cấp giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân, giai cấp thống trị về chính trị.
Giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử vơ cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc hậu,
xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng tồn nhân
loại trên phạm vi tồn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình phát triển mới của đất
nước và thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới, trong bối cảnh tồn cầu hóa và
phát triển kinh tế tri thức, giai cấp công nhân ngày nay ở các nước, nhất là các nước
đang phát triển, là một trong những lực lượng xã hội quan trọng nhất, đang tham gia
tích cực vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Từ tình hình trên, nhận thấy việc nghiên cứu về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân ngày nay là hết sức giúp cho việc tìm hiểu thêm về giai cấp cơng nhân ngày nay
từ đó đưa ra các mục tiên và giải pháp cho sự phát triển của giai cấp công nhân và
cũng là sự phát triển của đất nước. Chính vì những lý do đó, đề tài: “ Quan niệm của

chủ nghĩa Mác- Lenin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử” đã được chọn làm đề
tài nghiên cứu.

2




NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.
1.1. Khái niệm về giai cấp cơng nhân
Dù khái niệm giai cấp cơng nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa
thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
a. Về phương thức lao động, phương thức sản xuất:
Đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các cơng cụ sản xuất có
tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với
sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản phẩm của bản thân
nền đại công nghiệp”; “Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống
như máy móc vậy… Cơng nhân Anh là đứa con đầu lịng của nền cơng nghiệp hiện
đại”.
b. Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa :
Đó là những người lao động khơng có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà
tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên một
trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nên
C.Mác và Ph.Ăngghen cịn gọi giai cấp cơng nhân là giai cấp vô sản.
c. Tiền đề lý luận
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một hoàn cảnh
lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn phát triển với

những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.

3


Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vơ sản, mà
cịn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vơ sản hiện đại.
Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại ra đời gắn liền với sự
phát triển của đại cơng nghiệp, nó là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp và
lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại cơng nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp cơ bản,
chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết tư liệu
sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị thặng
dư. Họ là những người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động tùy theo
cung – cầu hàng hóa sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa
về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa
sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng
dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp vô sản
là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân,
nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”.
d. Tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng
lớp xã hội khác :
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động
trong nền sản xuất cơng nghiệp. Có thể họ là người lao động trực tiếp hay gián tiếp
vận hành các công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội
hóa cao. Đã là cơng nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại cơng nghiệp, bởi vì nó là
sản phẩm của nền đại cơng nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận
cơ bản của mọi tầng lớp công nhân.
- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta phải xem xét

trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản hiện đại,
không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và
bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà giai cấp công nhân tạo ra
bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà những người cơng nhân
dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền.
Nó khơng cịn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp thống trị,
lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ những tư liệu
sản xuất chủ yếu đã cơng hữu hóa. Như vậy họ khơng cịn là những người vơ sản như
trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của
xã hội xã hội chủ nghĩa.
4


Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp cơng nhân
như sau: Giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền đại cơng nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển
của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ
bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và
cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất
tiên tiến trong thời đại ngày nay.
1.2. Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
1.2.1. Quan điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Hiện nay, cách mạng vô sản trên thế giới chưa (chứ dùng "khơng" là chưa chính xác
theo các nhà cầm quyền và lý luận cánh tả-cộng sản) có điều kiện nổ ra, nhiều người
khơng vì thế mà nghi ngờ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, những
nhà kinh điểm Marx- Lenin vẫn cho rằng, chừng nào mà quan hệ bóc lột vẫn cịn thì
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo vẫn có cơ hội nổ ra,

nhằm thay thế nhà nước mà họ gọi là nhà nước tư sản và giai cấp tư sản bằng nhà nước
vô sản tại các nước phi cộng sản- cánh tả và xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Định nghĩa sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân tổ chức lãnh đạo nhân
dân đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng tồn xã hội khỏi mọi áp bức, bất cơng,
xố bỏ chủ nghĩa tư bản và các chế độ áp bức, bóc lột, bất cơng để xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Nội dung:
+ Về kinh tế giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản sản xuất ra của cải vật
chất cho xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
+ Về chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp cơng nhân giành chính
quyền, xây dựng nhà nước mới của nhân dân.
+ Về văn hóa – xã hội giai cấp công nhân xây dựng một xã hội cơng bằng, bình đẳng;
xây dựng nền văn hóa, con người mới với tư tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa…
1.2.3. Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ
chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn
thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu; xây dựng xã hội mới
thực sự tốt đẹp chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

5


Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất: giai cấp công nhân biến
thành giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền nhà nước vào tay giai cấp mình.
Bước thứ hai: giai cấp cơng nhân dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy
toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những cơng cụ sản xuất vào
trong tay nhà nước từ đó tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân không thực hiện được

bước thứ nhất thì cũng khơng thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ hai là quan
trọng nhất để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Một trong những điểm nhấn quan trong của Tun ngơn của Đảng cộng sản là
C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiến hành luận chứng cho sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của
giai cấp vô sản. Theo các ông, trong thời đại ngày nay, với tư cách là “sản phẩm của
bản thân nền đại công nghiệp”, giai cấp vô sản không chỉ trở thành “giai cấp đang nắm
tương lai trong tay”, mà còn là “giai cấp thực sự cách mạng” nhất và chính nền sản
xuất TBCN đã đưa họ lên địa vị đó, lên vũ đài lịch sử với tư cách lực lượng cách mạng
hùng hậu và khơng điều hịa với tồn bộ chế độ lao động làm thuê. Sự nghiệp giải
phóng giai cấp vơ sản phải do chính giai cấp vơ sản thực hiện. Song, giai cấp vô sản
tiến hành cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB khơng chỉ vì sự nghiệp giải
phóng mình, mà cịn thực hiện một sứ mệnh cao cả nữa, mang đậm tính nhân văn cộng
sản chủ nghĩa là giải phóng tồn thể nhân loại cần lao vĩnh viễn thoát khỏi mọi ách áp
bức, bóc lột.
*Thời gian qua, có ba xu hướng phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:

Thứ nhất, gần đây, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ (KHCN)
hiện đại, các học giả của thuyết kỹ trị cho rằng, sự xuất hiện ngày càng nhiều “robot
thơng minh”, “trí tuệ nhân tạo” khiến người máy đang dần thay thế con người. Điều đó
khiến người lao động vốn từ chỗ là chủ thể của quá trình sản xuất đang bị gạt ra bên lề
quá trình sản xuất ấy, trở thành nhân tố đóng vai trị thứ yếu. Biểu hiện của sự thay đổi
này là thay về cần đến nhiều nhân công để lao động, sản xuất thì ngày càng có nhiều
doanh nghiệp chỉ cần ít nhân cơng. Thay vì trả lương cho nhân cơng, các doanh nghiệp
đầu tư vào máy móc, cơng nghệ. Do đó, các nhà kỹ trị cho rằng đã đến lúc cần xem xét
lại quan điểm của C.Mác về vai trị, vị trí trung tâm, có ý nghĩa quyết định của người
lao động trong hoạt động sản xuất vật chất. Theo quan điểm của C.Mác, người lao
động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa khơng ai khác chính là giai cấp cơng nhân,
giai cấp vơ sản nên mục đích sâu xa của quan điểm này là nhằm phủ nhận vai trò của
giai cấp công nhân.


6


Thứ hai, có một số luận điệu cho rằng, giai cấp cơng nhân đã hồn thành sứ mệnh
của mình trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong điều kiện hịa
bình, hội nhập, thời kỳ của các cuộc cách mạng KHCN, vai trị đó phải thuộc về đội
ngũ trí thức, những nhà khoa học. Chỉ có những nhà khoa học, trí thức mới có thể làm
chủ được xã hội, đưa đất nước phát triển hiện đại, văn minh.
Thứ ba, có quan điểm cho rằng, trong xã hội tư bản hiện đại, đời sống của giai
cấp công nhân khơng cịn cơ cực như trước. Ở nhiều cơng ty, người cơng nhân đã có
cổ phần, cổ phiếu nên họ khơng cịn là giai cấp vơ sản nữa. Vì thế, mẫu thuẫn giữa giai
cấp công nhân với giai cấp vô sản cũng khơng cịn mang tính chất đối kháng như trước
đây. Vì thế, giai cấp cơng nhân cũng khơng cịn cần đến sứ mệnh lịch sử của mình là
“đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” như C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng khẳng định trong
Tun ngơn của Đảng cộng sản.
Có thể nhận thấy, cả ba xu hướng trên đều căn cứ vào sự phát triển của xã hội
hiện đại mà thời của C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có được để phủ nhận tính đúng đắn
trong quan điểm về vai trị quyết định của người lao động trong hoạt động sản xuất vật
chất cũng như sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Không thể phủ nhận được ngày
nay những thành tựu của KHCN hiện đại với sự ra đời của người máy đã thay thế
không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp, mà cịn có thể thay
thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Tuy nhiên, điều đó khơng
có nghĩa là người lao động trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngồi q trình sản
xuất. Về thực chất, KHCN trước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm
của sự phát triển trí tuệ của con người. Do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng
tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển của KHCN, đồng thời quyết định
việc sử dụng KHCN vào sản xuất theo mục đích của mình. Thực tế cho thấy, kỹ thuật,
công nghệ hiện đại dù năng động và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn
tay và khối óc của con người làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của con người. Do
đó, dù trí tuệ nhân tạo dẫu được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm

của con người, hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình mà con người đã
lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và người máy cơng nghiệp. Vì vậy, trong bất cứ
thời đại nào, kể cả thời đại của KHCN hiện đại, người lao động hay nói cụ thể hơn là
giai cấp cơng nhân vẫn đóng vai trị quyết định hoạt động sản xuất vật chất.

7


Ngồi ra, ngày nay, mặc dù tầng lớp trí thức đang gia tăng nhanh chóng về số
lượng, ngay cả bản thân giai cấp công nhân cũng diễn ra xu hướng trí thức hóa ngày
càng mạnh mẽ nhưng điều đó khơng có nghĩa là tầng lớp trí thức thay thế sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. C.Mác, Ph.Ăngghen và cả V.I.Lênin sau này cũng nhận
thấy vai trò to lớn của tầng lớp trí thức trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân nhưng do phương thức lao động quy định và vai trò trong hệ thống sản xuất xã
hội, tầng lớp trí thức khơng có hệ tư tưởng nên khơng thể giữ vai trị lãnh đạo xã hội.
V.I.Lênin cho rằng: “So với giai cấp cơng nhân thì giới trí thức bao giờ cũng có nhiều
tính chất cá nhân chủ nghĩa hơn, ấy là do những điều kiện cơ bản của đời sống và công
tác của họ không cho phép họ thống nhất lực lượng một cách trực tiếp và rộng rãi,
không cho họ được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ chức”

Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư gần đây mới được nhận thức rõ dấu hiệu và
những đặc điểm của nó. Giáo sư K. Sô-áp (K. Schwab), Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế
giới (WEF), là người đưa ra thuật ngữ này. Cách mạng công nghiệp 4.0, theo ông, là
một thuật ngữ phản ánh những đổi mới các cơng nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi
dữ liệu, năng lượng, vật liệu và chế tạo trong sản xuất và dịch vụ. Đó là “một cụm
thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với
các hệ thống vật lý trong không gian ảo, in-tơ-nét của vạn vật và in-tơ-nét của các dịch
vụ. Nó “là sự thay đổi cơ bản trong cách thức chúng ta tạo ra, tiêu thụ sản phẩm và liên
đới lẫn nhau, được dẫn dắt bởi sự hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và con người
chúng ta”(1).

Cách mạng công nghiệp 4.0 có đặc điểm là “Tốc độ vận động ngày càng nhanh
chứ không đều đặn”, với quy mô là “thúc đẩy những chuyển đổi mơ hình chưa từng có
trên các khía cạnh kinh tế, kinh doanh, xã hội và cá nhân”, có những tác động “dẫn
đến sự chuyển đổi của toàn bộ các hệ thống giữa các (và trong mỗi) quốc gia, doanh
nghiệp ngành cơng nghiệp và tồn xã hội”(2). Theo đó, chúng ta có thể phân tích nội
dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân từ lơ-gíc chung của các cuộc cách mạng
cơng nghiệp đã diễn ra và từ những nhận thức ban đầu về Cách mạng công nghiệp 4.0
hiện nay, cũng như những dự báo.
Sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp cơng nhân do C. Mác (1818 - 1883)
phát hiện và luận chứng từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, đến nay đã trải qua
ba lần tiến hóa. Những nội hàm cơ bản của lý luận này đã thể hiện và tiếp tục được bổ
sung từ thực tiễn các cuộc công nghiệp và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng
công nghiệp 4.0, về đại thể, sẽ vẫn tiếp tục lơ-gíc của C. Mác, tiếp nối nội dung sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay.

8


Cho đến nay, quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân qua “Tuyên ngơn của Đảng Cộng sản” vẫn cịn vẹn ngun giá trị. Nó
khơng chỉ là vũ khí lý luận sắc bén cho giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống
lại giai cấp tư sản để giải phóng giai cấp mình và tồn xã hội, mà hiện nay, nó cịn là
cơ sở lý luận quan trọng để chúng ta đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhìn lại những quan điểm của các nhà
kinh điển để chúng ta càng thêm vững tin vào con đường đã chọn, vững tin vào giá trị
bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin - cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng
của Đảng ta.
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, trong giai đoạn đầu
của cách mạng vơ sản, phần lớn những người trí thức đứng về phía giai cấp tư sản, bảo
vệ những quan điểm, lập trường tư sản, phản ánh những lợi ích của giai cấp tư sản.

Cùng với thực tiễn đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, tầng lớp trí thức
ngày càng nhận rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân và tìm thấy lợi
ích của mình trong cuộc đấu tranh chung đó. Vì thế, ngày càng nhiều trí thức đi theo
giai cấp cơng nhân, ủng hộ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Tuy nhiên, trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà là một
tầng lớp (đội ngũ) trung gian trong xã hội, hoạt động trong lĩnh vực lao động trí óc
(sản xuất tinh thần là chủ yếu), trí thức khơng có hệ tư tưởng độc lập mà phụ thuộc vào
hệ tư tưởng của giai cấp mà họ phục vụ. Đúng như V.I.Lênin nhận xét: “Nếu khơng
nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số khơng mà thơi”.
Hơn nữa, trong lòng xã hội tư bản, đời sống của người lao động tuy có được cải
thiện, nhưng số người bị “hất” ra hè phố, số người nghèo khổ vẫn ngày càng tăng. Sự
phát triển của các tập đoàn tư bản, các công ty tư bản xuyên quốc gia cùng sự bịn rút
tài ngun và bóc lột nhân dân nhiều nước thuộc thế giới thứ ba; các cuộc chiến tranh
giữa các quốc gia hay nội chiến do các nước đế quốc phát động là nguyên nhân chủ
yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe dọa chết đói, 1,6 tỷ người sống trong cảnh
khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người mù chữ). Đó là một bằng
chứng khơng gì thuyết phục hơn để khẳng định CNTB sẽ không bao giờ thay đổi bản
chất của họ nên giai cấp cơng nhân cũng sẽ vẫn cịn sứ mệnh lịch sử to lớn trong việc
đấu tranh giải phóng giai cấp mình và tiến tới giải phóng tồn xã hội.
Trong những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng gia tăng về số
lượng, trưởng thành về trình độ, ý thức, kỹ năng... Giai cấp công nhân nước ta lãnh
đạo xã hội qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động.
Tuy nhiên, nhìn chung, trình độ, tay nghề của cơng nhân nước ta cịn nhiều hạn chế,
gặp nhiều khó khăn khi thích ứng với u cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Do đó, để giai cấp cơng nhân nước ta tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình,
đúng như Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định, cần phải
“phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh, trình
độ, kỹ năng nhằm thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”
9



Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại đã có tư tưởng phản ánh phân chia giàu
nghèo, phân chia quyền lực. Những tư tưởng đó cịn sơ khai, mộc mạc – chưa thấy
được nguồn gốc của sự phân chia giai cấp từ đời sống kinh tế - xã hội, chưa thấy tính
lịch sử của giai cấp. Vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ trở nên rõ ràng hơn khi xã hội phong
kiến suy tàn, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành. Cuộc đấu
tranh giữa giai cấp tư sản với giai cấp địa chủ quý tộc đã làm xuất hiện những nhà tư
tưởng tư sản phản ánh sự xung đột đó. Khái niệm phân chia giai cấp và đấu tranh giai
cấp được thể hiện trong tư tưởng của các nhà sử học vào nửa cuối thế kỷ XVIII. Đó là
tư tưởng của G.Phrăngxoa Ghiđơ (1776-1874), Ô. Guytxtanh Chirey (1795-1856),
Phrăngxoa Minhê (1796-1884). Vấn đề này đã được C.Mác khẳng định trong thư gửi
Vây - đơ- Maye (năm 1852). Cũng trong bức thư này, C.Mác cũng thừa nhận cơng lao
của mình là phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phát hiện xu hướng
tất yếu xuất hiện chun chính vơ sản bởi đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản. Phát hiện vĩ đại nói trên của C. Mác đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Đáp lại công lao của C. Mác, không biết bao nhiêu nhà tư tưởng tư sản
đã tìm mọi cách để phủ nhận – hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp. Họ cho rằng giai cấp
khơng tồn tại – có chăng chỉ có sự khác biệt giữa các nhóm xã hội có nghề nghiệp
khác nhau, có tâm lý xã hội khác nhau, hoặc có sự khác nhau về thu nhập. Một số nhà
tư tưởng tư sản thừa nhận tồn tại giai cấp – giai cấp nô lệ, giai cấp địa chủ phong kiến,
giai cấp vô sản trong thế giới đương đại. Dù vậy, họ vẫn phủ nhận vai trò của giai cấp
vơ sản vì rằng, giai cấp vơ sản là giai cấp nghèo khó về kinh tế, yếu hèn về nghị lực và
thấp kém về trí tuệ. Hơn nữa họ cho rằng giai cấp vô sản đang suy tàn cùng với sự phát
triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa- thay cho giai cấp vô sản là giai cấp
công nhân cổ cồn, thay cho đời sống bần cùng khơng cịn gì để bán (“trần như nhộng”)
là các cơng nhân đã có cổ phần trong các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa. Giờ đây giai
cấp công nhân và giai cấp tư sản đã có cùng mục đích nâng cao năng suất lao động,
khơng cịn đối kháng giai cấp nữa. Phủ nhận sự tồn tại của giai cấp vô sản, phủ nhận
cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vơ sản cũng có nghĩa là phủ nhận tính
chân lý của C.Mác nói riêng, của chủ nghĩa duy vật lịch sử nói chung về sứ mệnh lịch

sử của giai cấp cơng nhân - tức là phủ nhận tính tất yếu của chun chính vơ sản!
Muốn dấu tranh chống lại các thuyết phản mác xít cần trở về với cơ sở lý luận khoa
học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong tác phẩm Gia đình thần
thánh (1845) của C.Mác và tác phẩm Chống Đuy rinh của Ph.Ăngghen (1878), hai ông
đều khẳng định, muốn hiểu giai cấp là gì phải dựa vào phương thức lao động, dựa vào
địa vị kinh tế - xã hội của nhóm (tập đồn) người gắn với một hệ thống sản xuất nhất
định. V.I. Lênin là người bảo vệ quan điểm đó của C.Mác và Ph.Ăngghen về cơ sở
kinh tế khi phân định giai cấp. Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra
định nghĩa khái quát về giai cấp: “ gười ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn, những
tập đoàn này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử; khác nhau về quan hệ của họ (thường thường những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất; về vai trò của họ
trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về
phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”. gười còn viết: “Giai cấp là
10


những tập đồn người mà tập đồn này có thể chiếm đoạt tập đoàn lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đồn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội
nhất định”.
Định nghĩa giai cấp của Lênin đã chỉ rõ rằng, giai cấp nào nắm được quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp đó sẽ nắm được quyền quản lý, tổ chức sản xuất và
quyền chi phối sản phẩm, từ đó có được địa vị thống trị trong xã hội. Địa vị xã hội là
kết quả của quyền sở hữu về tư liệu sản xuất nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân từ
sự khác biệt về quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Sự khác nhau về các
đặc trưng của giai cấp nói lên tính phức tạp trong kết cấu các giai – tầng xã hội của
mỗi thời đại (có phân chia giai cấp). Định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin không chỉ bảo
vệ quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen về cơ sở kinh tế của giai cấp, mà còn làm sáng
tỏ hơn đặc trưng kinh tế của giai cấp. Những quan niệm phi macxit về giai cấp bị phủ
nhận, đồng thời nó lý giải vì sao trong các xã hội khác nhau lại có kết cấu giai cấptầng lớp xã hội khác nhau.

Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Giai cấp công nhân là sản phẩm của
nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất
tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt
khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh
xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ tư hữu, áp bức bóc lột và xây dựng
thành cơng xã hội mới - chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩacộng sản. Trong tác phẩm Chống
Đuyrinh, khi nói về vai trị lịch sử của giai cấp công nhân, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“...phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc phải hồn
thành cuộc cách mạng ấy, nếu khơng thì sẽ bị diệt vong” và “Thực hiện sự nghiệp giải
phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại.
1.3. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong quá trình thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
1.3.1. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất,
luôn luôn vận động và phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội nào, người
lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất.
a)

Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động
nhất, luôn luôn vận động và phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội nào,
người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất. Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội, với nền sản xuất đại cơng nghiệp ngày càng phát triển, thì "Lực lượng sản xuất
hàng đầu của tồn nhân loại là cơng nhân, là người lao động".
11


Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp

nhất, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản xuất đó. Khi sản xuất đại công nghiệp
ngày càng mở rộng, ngày càng phát triển thì "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản
phẩm của bản thân nên đại công nghiệp", giai cấp vô sản "được tuyển mộ trong tất cả
các giai cấp của dân cư".
Với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa "... giai cấp cơng nhân hiện đại... chỉ có thể
sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động
của họ làm tăng thêm tư bản". Từ điều kiện làm việc như vậy đã buộc giai cấp công
nhân phải không ngừng học tập vươn lên sao cho đáp ứng được yêu cầu của nền sản
xuất ngày càng hiện đại. Ngày nay, trong các nuớc tư bản phát triển, tỷ lệ sản xuất tự
động hóa ngày càng gia tăng với "văn minh tin học", "kinh tế tri thức", do vậy đội ngũ
công nhân được "tri thức hóa" cũng ngày càng gia tăng.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp cơng nhân hồn lồn khơng có hoặc có
rất ít tư liệu sản xuất, là người lao động làm thuê, "vì thế họ phải chịu hết sự may rủi
của cạnh mình, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ khác nhau". Như vậy,
trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp
với lợi ích của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn duy trì chế độ tư hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, duy trì chế độ áp bức bóc lột đối với giai cấp cơng
nhân và quần chúng nhân dân lao động. Ngược lại, lợi ích cơ bản của giai cấp cơng
nhân là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, giành lấy chính
quyền về tay giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, dùng chính quyền đó để tổ
chức xây dựng xã hội mới, tiến tới một xã hội khơng cịn tình trạng áp bức bóc lột.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại cơng nghiệp, có quy mơ sản
xuất ngày càng lớn, sự phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất ngày càng nhiều,
họ lại thường sống ở những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung. Điều
kiện làm việc, điều kiện sống của giai cấp công nhân đã tạo điều kiện cho họ có thể
đồn kết chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Khả năng
này giai cấp nông dân, thợ thủ công không thể có được.
Giai cấp cơng nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số
quần chúng nhân dân lao động, do vậy tạo ra khả năng cho giai cấp này có thể đồn

kết với các giai cấp, tầng lớp lao động khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai câp tư
sản để giải phóng mình và giải phóng tồn xã hội.
b)

Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân

Địa vị kinh tế - xã hội đã tạo cho giai cấp cơng nhân có những đặc điểm chính trị
- xã hội mà những giai cấp khác khơng thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
12


Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương thức
sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và cơng nghệ hiện đại. Đó là
giai cấp đuợc trang bị bởi một lý luận khoa học , cách mạng và luôn luôn đi đầu trong
mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây dựng xã hội
mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác vào
phong trào cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời đại
ngày nay.
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong thời kỳ
đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính quyền
thì họ quay trở lại bóc lột giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, những giai cấp đã
từng kề vai sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Khác với
giai cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, có lợi ích cơ bản đối lập
trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện lao động trong chế
độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ thấy: họ chỉ có thể được giải phóng bằng giải phóng
tồn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Trong tất cả

các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp
thật sự cách mạng...
Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông
dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống cịn của họ với tính
cách là những tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ".
Thứ ba, giai cấp cơng nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản xuất
mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp này phải
tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đơ thị tập trung đã tạo nên
tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp cơng nhân.
Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi nó phát triển thành
một lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức: được sự giác ngộ bởi một lý luận khoa
học, cách mạng và tổ chức ra được chính đảng có nó - đảng cộng sản. Giai cấp cơng
nhân khơng có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì khơng thể giành được thắng lợi trong
cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội mới.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.

13


Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế. Giai cấp tư
sản khơng chỉ bóc lột giai cấp cơng nhân ở chính nước họ mà cịn bóc lột giai cấp cơng
nhân ở các nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, sản xuất mang tính tồn cầu hóa. Tư bản của nước này có thể đầu tư sang nước
khác là một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải do một nước sản xuất
ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp
cơng nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày
càng phải có sự gắn bó giữa phong trào cơng nhân các nước, có như vậy, phong trào
cơng nhân mới có thể giành được thắng lợi. V.I.Lenin chỉ rõ: “…khơng có sự ủng hộ
của cách mạng quốc tế thế giới thì thắng lợi của cách mạng vơ sản là khơng thể có

được”, “Tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn thắng nó, cần phải có sự liên mình
quốc tế”
1.3.2. Những nhân tố chủ quan trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân :
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song,
để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ
quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra đảng cộng sản trung thành
với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp cơng nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho
giai cấp cơng nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Bản thân giai cấp cơng nhân:
Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp công nhân
đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng.
+Về số lượng chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả
trong “kinh tế tri thức” hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân với
nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát triển, tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao
động Quốc tế(ILO) thì: từ năm 1900, tồn thế giới có 80 triệu cơng nhân; đến năm
1990, thế giới đã có hơn 600 triệu cơng nhân và đến 1998 đã có 800 triệu cơng nhân…
+Về chất lượng, bản thân giai cấp cơng nhân ln có sự nâng cao về học vấn, về
khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã
từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thơng qua các tổ chức nghiệp đồn,
cơng đồn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và cao nhất là dẫn đến hình
thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp
công nhân đã từ chỗ là “giai cấp tự nó” (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến
chỗ là “giai cấp vì nó” (tức giai cấp tự giác).

sản.

Vì thế, giai cấp cơng nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng

a.


Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân:
14


+Chỉ khi nào giai cấp cơng nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của nó
mới thật sự là một phong trào chính trị. Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp cơng
nhân nhận thức được vị trí, vai trị của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh
và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đồn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường và những
biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại.
+Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, giai cấp cơng nhân mới đạt tới trình độ nhận
thức lý luận về vai trị lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong
trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. V.I. Lênin
chỉ ra rằng, đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng
những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian. ở nhiều nước
thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước thành lập ra đảng cộng sản.
+Từ thực tiễn lịch sử ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác
– Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc
thành lập Đảng Cộng sản Đơng Dương vào đầu năm 1930.
+Chỉ có đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự
phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và
thực sự cách mạng. C. Mác đã nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh của mình chống
lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vơ sản tự mình tổ
chức được thành một chính đảng độc lập của mình chống lại quyền lực liên hiệp của
các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vơ sản tự mình tổ chức được thành một đảng
độc lập với tất cả mọi chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập ra thì mới có thể hành
động với tư cách là một giai cấp được.

b.

Mối quan hệ giữa đảng cộng sản với giai cấp công nhân:

+Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của
tồn thể giai cấp. Đối với giai cấp cơng nhân đó là đảng cộng sản, chẳng những đại
biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp cơng nhân mà cịn đại biểu cho toàn thể nhân
dân lao động và dân tộc.

Cho nên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có
đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của tồn giai cấp và tồn
bộ phong trào để giai cấp cơng nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

15


+Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của đảng, là nguồn bổ sung lực
lượng của đảng, đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp, là biểu
hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân và của
dân tộc. Giữa đảng với giai cấp cơng nhân có mối liên hệ hữu cơ, khơng thể tách rời.
Những đảng viên của đảng cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải là
người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của
giai cấp này.
+Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng chính là sự lãnh
đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng đảng có trình độ lý luận và tổ
chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc; vì thế khơng thể lẫn lộn Đảng với
giai cấp. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách
mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của tồn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lơi cuốn tất
cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường
lối của đảng nhằm hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để giai cấp cơng nhân hồn

thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân cũng như mỗi người công nhân cần
thường xuyên phấn đấu vươn lên, trưởng thành về các mặt: tư tưởng, chính trị, lập
trường giai cấp, văn hố, khoa học kỹ thuật, tay nghề… Các tổ chức nghiệp đồn,
cơng đồn, thường xuyên phát triển vững mạnh… cùng với quá trình phát triển không
ngừng của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, v.v..
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN VỚI VIỆT
NAM
2.1. Q trình hình thành giai cấp công nhân Việt Nam và sự ra đời của Công hội
đỏ:
2.1.1. Sự hình thành giai cấp cơng nhân Việt Nam trước thế kỉ XV:
+Việt Nam chưa có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công, thương
nghiệp và kinh tế hàng hố, nhưng đã có tầng lớp thợ thủ công. Sang thế kỉ XV, XVI
đội ngũ “ Những người lao động làm thuê” đã xuất hiện. Đầu thế kỉ XIX, ngành khai
mỏ phát triển và hàng ngàn “thợ” mỏ làm việc trong các mỏ khai thác than, thiếc.
Nhưng đó chưa phải là công nhân hiện đại, sản xuất trong dây chuyền công nghiệp.
Đội ngũ công nhân Việt Nam xuất hiện khi có cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I (từ
năm 1897 đến năm 1914) của thực dân Pháp. Khu cơng nghiệp tập trung ở Hà Nội, Sài
Gịn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Hòn Gai đã làm cho số công nhân tăng
nhanh...

16


+Số lượng công nhân năm 1906 là 49.500 người trong đó có 1.800 thợ chun
mơn. Nhiều xí nghiệp tập trung đơng cơng nhân như: Xi măng Hải Phịng có 1.500
người, 3 nhà máy dệt ở Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội cũng có 1.800 người, các nhà
máy xay xát ở Sài Gịn có tới 3.000 người, riêng trên các tuyến đường sắt Vân Nam Hải Phòng đã thu hút tới 6 vạn người. Ngành mỏ (năm 1914) có tới 4.000 thợ, đó là
chưa kể số “thợ theo mùa”. Tổng số cơng nhân Việt Nam tính đến trước chiến tranh
thế giới lần thứ I có khoảng 10 vạn người. Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ I kết
thúc, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II (1919-1929) nhằm

tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân thuộc địa để bù đắp những tổn thất trong chiến
tranh. Sự phát triển của một số ngành công nghiệp khai khống, dệt, giao thơng vận
tải, chế biến... dẫn đến số lượng công nhân tăng nhanh, công nhân mỏ và công nhân
đồn điền nhiều nơi tập trung hàng vạn người ở các thành phố, nhiều nhà máy đã có
trên 1.000 cơng nhân như nhà máy Xi măng Hải Phòng, nhà máy Dệt Nam Định.Đến
cuối năm 1929, tổng số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp của tư bản Pháp là
hơn 22 vạn người, trong đó có 5,3 vạn thợ mỏ, 8,6 vạn công nhân các ngành công
thương nghiệp, 8,1 vạn cơng nhân các đồn điền trồng cây cơng nghiệp. Đó là chưa kể
đến những người làm ở xí nghiệp thủ công lớn, nhỏ, thợ may, thợ cạo, thợ giặt, bồi
bếp, khuân vác ở hải cảng... Như vậy từ sự đầu tư vào công cuộc khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp dẫn tới sự ra đời tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam.

Và đó cũng là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai cấp mới – giai cấp công
nhân Việt Nam.
+Đa số cơng nhân nước ta có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Trong số 27.505
công nhân, đồn điền, thợ mỏ ở 15 tỉnh Bắc Kỳ vào năm 1929 thì có tới 24.658 người là
nơng dân (chiếm 84,6%). Sớm tiếp thu truyền thống anh dũng bất khuất, chống giặc
ngoại xâm của dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam đã hăng hái đấu tranh với tư bản
Pháp. Tuy nhiên, phần lớn các cuộc đấu tranh còn tản mạn và tự phát, thiếu tổ chức
lãnh đạo và chỉ tập trung vào đòi quyền lợi kinh tế, quyền sống trước mắt, với các hình
thức như: bỏ việc về q, lãn cơng, đòi tăng lương, chống đánh đập. Tiêu biểu là cuộc
đấu tranh của công nhân đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn, công nhân mỏ thiếc - kẽm Cao
Bằng, gạch Yên Thế, dệt sợi Nam Định. Song cũng có một số cuộc đấu tranh của cơng
nhân có tinh thần dân tộc cao như phong trào đấu tranh ủng hộ nghĩa quân n Thế,
tham gia biểu tình địi thả nhà u nước Phan Bội Châu, phong trào để tang nhà yêu
nước Phan Chu Trinh... trong cao trào yêu nước những năm 1925 -1926 ở Sài Gòn. Từ
khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam, số lượng các cuộc bãi công
ngày một tăng và quan trọng hơn là bãi cơng có tính chất chính trị, có tổ chức lãnh
đạo. Nếu như năm 1927 có 7 cuộc bãi cơng thì năm 1929 có đến 24 cuộc, năm 1930 là

30 cuộc với số lượng người tham gia lên đến ngót 32.000 người. Sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước từ năm 1925 đến năm 1929 là
một điều kiện quyết định sự ra đời các tổ chức Cộng sản và Công hội Đỏ ở Việt Nam,
đặc biệt là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
17


2.1.2. Các tổ chức Công hội sơ khai ở Việt Nam trước năm 1925:
+Năm 1921, đồng chí Tơn Đức Thắng bắt tay vào cuộc vận động thành lập Công hội
Ba Son. Mục đích của hội là: Đấu tranh bênh vực quyền lợi của công nhân, đấu tranh
chống đế quốc tư bản. Công hội đỏ đã trở thành linh hồn của phong trào bãi cơng của
cơng nhân Ba Son, Sài Gịn - Chợ Lớn vào những năm 1920 - 1925, mà điển hình là
cuộc bãi cơng của cơng nhân Ba Son tháng 8 năm 1925.
2.1.3. Thành lập Công hội đỏ Bắc Kỳ - tổ chức tiền thân của Cơng đồn Việt
Nam:
+Q trình hình thành phát triển của Cơng Hội đỏ Bắc kỳ gắn liền với hoạt động của
lãnh tụ Nguyễn ái Quốc trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, Người đã đặt nền
móng, cơ sở lý luận cho sự ra đời của các tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân
Việt Nam. Từ năm 1914 đến năm 1917, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Luân Đôn tham
gia công đoàn hải ngoại Anh; cuối năm 1917, Người trở về Pháp, tham gia Đảng xã
hội Pháp và là đoàn viên của cơng đồn Kim khí Pháp; năm 1919 đã hướng dẫn cho
Nguyễn Tạo (Việt kiều tại Pháp) thành lập công đoàn thủy thủ Việt Nam tại Mác-xây.
Tháng 6/1925, Nguyễn ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam thanh niên cách mạng ở Quảng
Châu - Trung Quốc và trực tiếp giảng dạy cho các hội viên. Trong cuốn “Đường kách
mệnh” có nói đến tính chất nhiệm vụ của Cơng hội: “ Tổ chức công hội trước hết là để
công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa
sang cách sinh hoạt của công dân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho
cơng nhân, năm là để giúp quốc dân, giúp cho thế giới”. Sau khi được học tập lý luận
hầu hết các hội viên đã trở về nước hoạt động, phát triển những hội quần chúng như
hội hiếu hỉ, tương tế, chơi họ… thành tổ chức cơng hội. Từ năm 1928, kì bộ Bắc Kì

của Việt Nam cách mạng thanh niên phát động phong trào “Vô sản hóa”, phong trào
đấu tranh của cơng nhân Việt Nam ngày càng sôi nổi, đã thúc đẩy tổ chức công hội
phát triển cả về hình thức lẫn nội dung hoạt động và trở thành tổ chức cơng đồn cách
mạng của giai cấp công nhân.Tại các khu công nghiệp thuộc các tỉnh miền Bắc, nhiều
xí nghiệp đã có cơng hội như: nhà máy Diêm, hãng sửa chữa ôtô Aviát (Hà Nội ), nhà
máy Sợi, nhà máy xi măng (Hải Phòng), Hòn Gai, Quảng Yên (khu mỏ Quảng Ninh...
Công nhân làm việc ở các bến tàu, nhà ga cũng có tổ chức công hội. ở miền Nam, tổ
chức công hội cũng đã hình thành và hoạt động, chủ yếu ở các khu cơng nghiệp Sài
Gịn - Chợ Lớn và đồn điền cao su. Năm 1929, phong trào công nhân và hoạt động
công hội ở nước ta phát triển sôi nổi, đặc biệt là ở miền Bắc. Các cuộc đấu tranh của
công nhân nổ ra liên tục ở nhiều xí nghiệp, có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất hành
động giữa các cuộc đấu tranh ở xí nghiệp này với xí nghiệp khác trong cùng một địa
phương, giữa các địa phương này với địa phương khác trong toàn xứ, kết hợp với
phong trào đấu tranh chống thuế của nông dân, bãi thị của tiểu thương, bãi khoá của
học sinh. Tháng 3 năm 1929 chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hà Nội.
Ngày17/6/1929, Đông Dương cộng sản Đảng ra đời và lấy phong trào cơng nhân làm
nịng cốt cho phong trào cách mạng, lấy việc vận động công nhân làm trung tâm công
tác của Đảng, Đảng cử hàng loạt cán bộ vào nhà máy, hầm mỏ, nắm các công hội do
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã lập từ trước để tuyên truyền chủ nghĩa cộng
18


sản, phổ biến tơn chỉ, mục đích Điều lệ của cơng hội đỏ, chọn lọc những quần chúng
tích cực kết nạp vào Công hội đỏ. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động công
nhân tăng cường sự thống nhất về tổ chức và hành động của tổ chức công hội, Ban
chấp hành TW lâm thời Đông Dương Cộng sản đảng quyết định tổ chức Hội nghị đại
biểu Tổng Công hội đỏ Bắc Kì lần thứ I ngày 28/7/1929. Hội nghị được tổ chức tại trụ
sở Tổng công hội Bắc kỳ, số nhà 15 phố Hàng Nón - Hà Nội. Tham dự Đại hội có các
đại biểu các Tổng cơng hội tỉnh và thành phố: Hà Nội, Nam Định, Hải Phịng, khu mỏ
Đơng Triều, Mạo Khê.Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương lâm thời Tổng Công

hội đỏ do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, ủy viên BCH TW lâm thời Đông Dương công
sản Đảng đứng đầu. Đại hội cũng đã thơng qua chương trình, điều lệ của Cơng hội đỏ
và quyết định cho xuất bản tờ Lao động (số đầu tiên ngày 14/8/1929 do chính đồng chí
Nguyễn Đức Cảnh và Trần Học Hải phụ trách). Ban chấp hành lâm thời cịn có các
đồng chí Trần Hồng Vận, Trần Văn Các, Nguyễn Huy Thảo, Nguyễn Văn Đoài... Việc
thành lập Tổng cơng hội đỏ Bắc kỳ có ý nghĩa hết sức to lớn đối với phong trào cơng
nhân Việt Nam. Đó vừa là kết quả tất yếu của sự trưởng thành về chất lượng của phong
trào công nhân nước ta, vừa là thắng lợi của đường lối công vận của Nguyễn ái Quốc
và Đảng Cộng Sản Đông Dương, đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu cấp thiết về tổ chức
của phong trào công nhân Việt Nam. Việc thành lập tổ chức cơng đồn đầu tiên của
giai cấp cơng nhân Việt Nam góp phần vào sự lớn mạnh của phong trào cộng sản công
nhân quốc tế. Mối quan hệ giữa phong trào công nhân Việt Nam với phong trào công
nhân thế giới, đặc biệt là với cơng nhân và cơng đồn Pháp đã được công hội đỏ thiết
lập.

19


KẾT LUẬN
Cho dù trong tiến trình lịch sử, nhất là trong điều kiện khoa học - công nghệ phát triển
mạnh mẽ như ngày nay với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0), trí thức ln
có vai trị quan trọng, có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển xã hội, song trí thức
khơng đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, không thay thế giai cấp
cơng nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Trách nhiệm vẻ vang của tầng lớp trí thức xã
hội chủ nghĩa là chủ động, tích cực tham gia vào khối liên minh giai cấp của giai cấp
công nhân, giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức do giai cấp công nhân thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu theo lý tưởng, mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, đem tài năng sáng tạo của mình vào sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước, cống hiến cho sự phát triển của đất nước, dân tộc, đưa sự nghiệp đổi
mới tới thắng lợi vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh.

Bản thân giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay với xu hướng tri thức hóa và trí thức
hóa cơng nhân như một tất yếu của phát triển, một bộ phận lớn cơng nhân là cơng nhân
trí thức, lao động trí óc sáng tạo rất gần với phương thức lao động của trí thức. Song
khơng vì thế mà giai cấp cơng nhân khơng cịn sứ mệnh lịch sử và chuyển sứ mệnh
lịch sử vào tầng lớp (đội ngũ trí thức như có người lầm tưởng.
Tiềm lực tri thức và trí thức của giai cấp cơng nhân càng cao bao nhiêu thì càng thuận
lợi bấy nhiêu cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tập trung và
tiêu biểu cho vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là ở vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />3. />4. />5. />6. />
21


×