Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Công bằng tạo nên "cái chất" nhân sự pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.59 KB, 5 trang )

Công bằng tạo nên "cái chất" nhân sự







Qua nhiều cuộc khảo sát, nhiều công ty có tầm cỡ đang hoạt động trong nước kể
cả các công ty có 100% vốn nước ngoài cho biết họ không thiếu và tương đối
không có vấn đề gì lớn phải giải quyết trong việc tuyển dụng, đào tạo, quản lý, sử
dụng hiệu quả lao động cấp thấp. Tuy nhiên, họ lại thường có vấn đề với nhân sự
trung cấp mà họ rất cần. Đây là tầng lớp nhân sự chủ lực giúp doanh nghiệp đạt
được mục tiêu hoạt động cao nhất. Tại sao?

Trước tiên, dễ thấy nhất là vì Việt Nam mới phát triển, cơ hội đào tạo còn giới
hạn, không đủ để theo kịp nhu cầu của đất nước trong hơn thập niên vừa qua.
Nhưng đấy chỉ là câu trả lời có thể tạm chấp nhận được về mặt lượng.

Từ hơn 10 năm qua, giới trẻ trong nước đã có nhiều cơ hội học hỏi nhiều hơn so
với các thế hệ đàn anh của họ trong những thập niên trước đó. Trong nước, nhiều
dịch vụ đào tạo chuyên môn tay nghề, khả năng quản lý... đã phát triển nhanh và
đang hoạt động mạnh. Số lượng sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học, cao
đẳng trong nước ở mức kỷ lục, chưa từng có. Tuy chất lượng chưa được đồng nhất
nhưng hầu như ai có ý chí muốn học gì cũng có thể học được. Mỗi năm hàng ngàn
sinh viên, học sinh có thành tích học vấn tốt được cấp học bổng du học ở các nước
phát triển. Hàng ngàn người khác đi du học tự túc. Số lượng sinh viên Việt Nam
được đào tạo từ nước ngoài không phải là ít. Một số lượng lớn những sinh viên tốt
nghiệp đã về nước làm việc trong nhiều ngành nghề, công cũng như tư. Sinh viên
Việt Nam đi đâu cũng được tiếng là hiếu học, học giỏi. Vậy thì tại sao chất lượng
nhân sự vẫn còn thiếu trong nước? Thiếu cái gì?



Ta hãy nghe những nhận xét của một số chủ doanh nghiệp về thực trạng này:
“Tinh thần trách nhiệm kém”, “Thiếu sự gắn bó, thiếu trung thành với công việc”,
“Thiếu tinh thần đồng đội, không biết hỗ trợ lẫn nhau”, “Làm được ít mà đòi hỏi
nhiều”, “Không có tinh thần làm việc theo hệ thống”, “Chỉ biết việc mình đang
làm mà không biết dự tính hiệu quả tổng thể có liên hệ đến người khác, thiếu chủ
động trong công việc”...

Vậy thì câu hỏi có lẽ phải là: “Tại sao nhân sự trong nước lại thiếu chất?”.

Trong tất cả các cái “thiếu” có lẽ cái thiếu tinh thần đồng đội là quan trọng hơn cả.
Có đoàn kết mới có đại thành công. Đây không phải chỉ là một khẩu hiệu tuyên
truyền rỗng tuếch mà thật sự có giá trị cụ thể cho mọi việc, mọi nơi. Có đoàn kết
mới có tinh thần trách nhiệm chung, chủ động gắn bó với công việc cho mục đích
chung, cái mạnh của người này được bù cho cái yếu của người khác. Nhiều nhà
quan sát lịch sử Việt Nam cho rằng đây là một nghịch lý đáng ngạc nhiên. Dân tộc
Việt Nam khi cần đã chứng minh được một khả năng đoàn kết cao độ trong các
cuộc kháng chiến giành độc lập cực kỳ khó khăn, gian khổ. Vậy mà từ người Pháp
trước đây, rồi người Mỹ và nhiều người ngoại quốc khác sau này khi có cơ hội
làm việc, tiếp xúc với người Việt lại có nhận xét mà chúng ta cũng đã thường nghe
rằng “một cá nhân người Việt thì có thể hơn một người khác nhưng ba người Việt
ngồi lại thì… lại có vấn đề!”. Theo các nhà xã hội học dựa vào thuyết “con người
là sản phẩm của môi trường sống” thì hiện tượng này là do sự bất ổn định của
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Khi sống trong một xã hội có truyền thống bất ổn định
thì con người với bản chất sinh tồn bẩm sinh sẽ có khuynh hướng muốn hành động
tự phát, thiếu lòng tin vào tập thể, vào tương lai. Từ đó không muốn đầu tư vào
những cam kết, đầu tư và gắn bó xã hội có tính lâu dài. Xã hội nào có tinh thần tự
trọng và tương kính cao thì có tính đoàn kết cao. Dân tộc Nhật Bản đạt được
những thành công như ngày hôm nay là
nhờ ở những đức tính ấy và nhờ vào hoàn

cảnh lịch sử của họ. Mặc dù cá nhân người
dân Nhật không được tiếng học giỏi, lanh
lợi như người Ấn, người Hoa hay so với
người Việt chúng ta. Ngoài điều kiện không
thay đổi được là điều kiện lịch sử thì điều
kiện công bằng trong xã hội nói chung hay
trong một tập thể nhỏ nói riêng là một yếu tố quyết định có thể thay đổi được, để
mọi cá nhân có lòng tin là sự đóng góp của mình sẽ được ghi nhận một cách sòng
phẳng và được đền bù xứng đáng về mặt vật chất lẫn tinh thần. Từ đó họ mới tin
vào ý nghĩa của sự đoàn kết, đem lại cái tổng giá trị lớn hơn từng giá trị của cá
nhân đứng riêng lẻ cộng lại và cá nhân họ “được” nhiều hơn là nếu chỉ nghĩ đến
mình. Con người bất cứ ở đâu, nếu sống trong một điều kiện xã hội còn nhiều bất
công thì sẽ khó sống trung thực. Từ đó sự tự trọng, tương kính cũng sẽ không có.

Con người có thể học thành tài nhưng chưa hẳn đã thành nhân với bằng cấp. Trong
một nghĩa hẹp, thành nhân đòi hỏi điều kiện biết sống hài hòa với những người
chung quanh và có cái tâm đóng góp hữu ích cho xã hội. Ở các nước chậm tiến
hoặc đang phát triển thì cái bệnh đòi “ăn trên ngồi tróc” là một căn bệnh trầm
trọng. Với mức độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, điều kiện phát triển con
người còn giới hạn thì chắc chắn một thiểu số sẽ có nhiều điều kiện, cơ may thăng
tiến hơn hẳn đa số còn lại kém may mắn hơn họ. Thiểu số này trở thành một tầng
lớp có đặc quyền và từ đó họ nghĩ rằng mình xứng đáng đòi hỏi đặc lợi. Nếu như
vậy họ có thể sẽ không đóng góp được gì tích cực mà còn có khả năng trở thành
một gánh nặng tiêu cực lớn cho xã hội.

Người Ấn Độ nổi tiếng thông minh, học giỏi. Từ khi lập quốc, nội các của Chính
phủ Ấn thường có đầy các tiến sĩ tốt nghiệp từ các đại học nổi tiếng nhất thế giới
(Cambridge, Oxford, MIT, Harvard...). Vậy mà họ lại không đóng góp được bao
nhiêu cho sự phát triển của đất nước. Cũng những con người đó nhưng khi ở nước
ngoài thì lại thành công vượt bậc, từ giáo dục, kinh tế đến kỹ thuật, thương mại...

Trong xã hội Mỹ, cá nhân chủ nghĩa, tinh thần cầu lợi có lẽ cao hơn bất cứ xã hội
nào khác. Nhưng họ may mắn có được một cơ chế xã hội mà đa số tin là công
bằng. Câu phản biện đầu môi, hữu hiệu nhất của một người Mỹ (ngay cả những
đứa trẻ con) đối với người khác khi tranh luận một vấn đề là vịn vào cái lý lẽ
“That’s not fair!” (Thế là không công bằng đâu nhé!). Với lòng tin vào sức mạnh
của sự công bằng như vậy, họ mạnh dạn đóng góp tối đa vì họ tin vào tính cộng
hưởng của sự đoàn kết, hợp tác, để từ đó phần lợi của họ được nhiều hơn.

Một số công ty nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam như Unilever, Pepsi và
một số doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin, ngân hàng, tài chính đã
đặc biệt thành công trong việc đào tạo, sử dụng nhân sự, chủ yếu là vì họ có quyết
tâm và cũng thành công trong việc tổ chức được một cơ chế làm việc công bằng,
thưởng phạt công minh, dựa trên căn bản giá trị đóng góp thực sự - dù cá nhân
đóng góp trực tiếp (làm bàn) hay gián tiếp (hỗ trợ, đưa bóng cho người khác làm
bàn). Ở những công ty này người lãnh đạo ý thức được trách nhiệm quan trọng
nhất là phát triển tối đa tiềm lực của mỗi con người trong công ty họ. Sau một thời
gian làm việc, người nhân viên được thuyết phục bởi giá trị của sự công bằng và
sẽ tự họ tạo được cái “nếp” làm việc chuẩn, hướng về mục tiêu chung của tập thể.

Như vậy, điều kiện “công bằng” có khả năng tạo nên cái “chất” quyết định được
mức độ đóng góp của con người. Đó cũng là điều kiện phải được đa số chấp nhận
một cách chính thống. Từ đó, cái tâm muốn làm việc tốt bẩm sinh của con người
sẽ được giải phóng và phát triển để cộng với cái tài của mỗi cá nhân thì chúng ta
vừa có được cái lượng (điều kiện cần) và cái chất (điều kiện đủ) đáp ứng tốt nhu
cầu phát triển của xã hội.

×