Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tài liệu Nghịch lý xung đột pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.49 KB, 4 trang )

Nghịch lý xung đột
Nghịch lý xung đột.

Xung đột nảy sinh không chỉ nảy sinh trong nhóm mà còn nảy sinh giữa chính các
xung đột. Kenwyn Smith và David Berg trong cuốn sách "Paradoxes of Life" đã
đưa ra một cách tiếp cận mới để tìm hiểu về các xung đột nảy sinh trong lòng mỗi
nhóm. Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng xung đột cần được kiểm soát và giải
quyết, nhưng Smith và Berg cho rằng xung đột là cần thiết cho bất cứ dạng thức
nhóm nào. Phân tích vào bản thân các nghịch lý, hai tác giả đã chỉ ra năm khía
cạnh nghịch lý của nhóm: tính đồng nhất, tính bộc lộ, niềm tin, tính cá thể, quyền
lực, tính thoái lui và tính sáng tạo.


Nghịch lý về tính đồng nhất: nghĩa là nhóm cần phải hợp nhất các thành viên với
các kĩ năng và cách nhìn nhận khác nhau bởi vì họ khác nhau, trong khi những
thành viên lại thường cảm thấy hoạt động trong nhóm lại xoá đi đặc tính cá thể của
họ.
Nghịch lý về tính bộc lộ: nghĩa là mặc dù các thành viên trong nhóm cần bộc lộ
những suy nghĩ của mình để nhóm có thể đi đến thành công, nhưng sự sợ hãi khả
năng bị bác bỏ làm các thành viên chỉ bộc lộ những điều họ nghĩ là những người
khác sẽ chấp nhận.
Nghịch lý về niềm tin: nghĩa là một mặt "để niềm tin được tạo dựng trong nhóm
thì mỗi thành viên phải tin vào nhóm", nhưng đồng thời "nhóm phải tin từng thành
viên của nó bởi chỉ qua tin tưởng thì niềm tin mới được tạo dựng".
Nghịch lý về tính cá thể: nghĩa là sức mạnh của nhóm là bắt nguồn từ sức mạnh
của từng cá nhân, trong khi mỗi cá nhân khi tham gia toàn diện vào công việc của
nhóm lại có thể cảm thấy đặc tính cá thể của họ bị đe doạ và lấn át.
Nghịch lý quyền lực: nghĩa là nhóm có được sức mạnh/quyền lực từ sức
mạnh/quyền lực của mỗi cá nhân trong nhóm, nhưng để tham gia được vào nhóm
thì mỗi cá nhân lại phải loại bỏ ra quyền lực của cá nhân mình.
Nghịch lý về sự thoái lui: bắt nguồn từ thực tế là mỗi cá nhân tham gia vào nhóm


với hi vọng sẽ "vượt lên" so với họ trước khi tham gia nhóm, nhưng nhóm lại yêu
cầu mỗi cá nhân trong nhóm phải "lùi xuống để cả nhóm tiến lên". Trong trường
hợp này, nhóm gần như chống lại mong muốn cá nhân về vươn lên bằng sức ép để
họ lùi xuống.
Nghịch lý về tính sáng tạo: nghĩa là mặc dù mỗi nhóm cần có thay đổi để tồn tại,
sự thay đổi ở đây có nghĩa là phá bỏ cái cũ và đồng thời tạo ra cái mới. Như thế,
bất kỳ sự chống đối tư tưởng phá bỏ cái cũ nào đều hạn chế tiềm năng sáng tạo của
cả nhóm.
Smith và Berg kết luận rằng nếu một nhóm nào không thể tận dụng được những
xung đột thì nhóm đó không thể phát triển: "Nếu các thành viên của nhóm hiểu
xung đột là cần thiết cho khái niệm nhóm, là một kết quả tự nhiên của quá trình
chuyển động theo cùng một hướng của các điểm khác biệt", họ sẽ hiểu tiếp rằng
xung đột "chỉ đơn thuần nằm trong bản chất tự nhiên của vấn đề, giống như tính
ẩm của nước hay tính ấm áp của ánh mặt trời."
Xung đột là khái niệm chung dùng để thể hiện sự đối nghịch giữa hai hay nhiều
phía. Xung đột là yếu tố tự nhiên hình thành nên một nhóm. Nếu có thể xử lý tốt,
xung đột góp phần củng cố mỗi nhóm, mỗi tổ chức, tăng cường khả năng trao đổi,
bàn bạc một cách cởi mở và sáng tạo.
Tác dụng xấu của xung đột
 Chuyển hướng vấn đề khỏi mục tiêu cần quan tâm.
 Làm suy yếu tinh thần và khả năng nhận định bản thân.
 Phân cực trong nhóm, suy yếu tính hợp tác.
 Gia tăng và làm sâu sắc hơn sự khác biệt.
 Dẫn đến những hành động thiếu tôn trọng và có hại.
Tác dụng tốt của xung đột
 Mang lại cái nhìn rõ ràng hơn về những vấn đề quan trọng.
 Mang lại giải pháp cho vấn đề.
 Lôi cuốn được nhiều người cùng tham gia vào giải quyết vấn đề có tác
động đến bản thân họ.
 Qua xung đột, thông tin trao đổi được xác thực hơn.

 Giúp giảm nhẹ sức ép, sự lo lắng.
 Xây dựng tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong nhóm do thông qua
xung đột họ có thể hiểu về nhau tốt hơn.
 Cùng tham gia để giả quyết chính xung đột do họ tạo ra.
 Giúp các cá nhân tăng cường kiến thức và kĩ năng.

×