Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.04 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>A. MỞ ĐẦU</b>
<b>1. Lí do chọn đề tài </b>
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn tiêu biểu nhất
thế kỉ XX. Sáng tác của ông đã vượt qua được sự thử thách khắc nghiệt của thời gian.
Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư
tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.
Nhắc đến Nam Cao, ta khơng thể khơng nhắc đến kiệt tác nghệ thuật “Chí Phèo”. Chỉ là
một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm về đề tài nơng dân nhưng “Chí Phèo”
thực sự là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cao về đề tài này. Nếu như Nam
Cao có thể được coi là “nhà văn của nơng dân”- cùng với Ngơ Tất Tố - thì trước hết vì
ơng có “Chí Phèo”. Hơn sáu mươi năm kể từ khi “Chí Phèo” ra đời, trong giới nghiên
cứu, phê bình văn học đã có rất nhiều bài viết tập trung khai thác tác phẩm ở khía cạnh
nội dung, tư tưởng. Tuy nhiên, nếu phân tích truyện ngắn này từ góc độ thi pháp học, ta
sẽ phát hiện được nhiều điều thú vị về hình tượng nghệ thuật nhất là trên phương diện
không gian - thời gian nghệ thuật. Không gian - thời gian trong “Chí Phèo” khi đi vào
nghệ thuật được soi rọi bằng tư tưởng, tình cảm, được nhào nặn và tái tạo trở thành một
hiện tượng nghệ thuật độc đáo thấm đẫm cá tính sáng tạo của nhà văn. Cảm quan về thời
gian và không gian gắn liền với cảm quan về con người và cuộc đời, gắn bó với mơ ước
và lí tưởng của tác giả. Đó cũng chính là lí do tơi chọn đề tài: “Phân tích đặc điểm khơng
gian – thời gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” của Nam Cao” trên bình diện thi
pháp học.
<b>2. Lịch sử nghiên cứu vần đề</b>
Hơn nửa thế kỉ qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc về Nam
Cao. Mở đầu là cuốn “Nghĩ tiếp về Nam Cao” do NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 1992.
Tiếp theo là cuốn “Nam Cao, đời văn, tác phẩm” của GS. Hà Minh Đức (NXB Văn học,
1997) và cuốn “Nam Cao, phác thảo sự nghiệp và chân dung” của GS. Phong Lê ( NXB
Khoa học xã hội, 1997). Đây là những cơng trình khoa học tồn diện và hệ thống của
những chuyên gia hàng đầu đã gần bốn mươi năm đầu tư với di sản văn học phong phú
và đặc sắc của Nam Cao.
Ngồi ra, cịn có những bài viết hoặc ý kiến phát biểu ở các hội thảo về Nam Cao của các
nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Hồnh Khung, Trần
Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Trần Đăng Xuyền…
Giới nghiên cứu, phê bình hiện đại nghiên cứu Nam Cao trên nhiều cách tiếp cận mới về
phong cách, thi pháp, ngôn ngữ…Tuy nhiên, phương diện thời gian và không gian nghệ
thuật trong sáng tác Nam Cao nói chung và trong tác phẩm “Chí Phèo” nói riêng chưa
được chú ý và xem xét một cách kĩ lưỡng. Trên cơ sở tiếp thu những bài viết, cơng trình
của các nhà nghiên cứu, tơi mạnh dạn đi sâu tìm hiểu đề tài này. Hi vọng rằng, đây cũng
sẽ là những kiến thức bổ ích cho những ai u và muốn tìm hiểu về Nam Cao cũng như
kiệt tác “Chí Phèo” của ông.
<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>
truyện “Chí Phèo” của Nam Cao trên bình diện thi pháp học.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là văn bản tác phẩm “Chí Phèo” trong cuốn “Tuyển tập
Nam Cao”, 2005, NXB Văn học.
<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>
Việc nghiên cứu đề tài này được tiến hành bằng những phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp và nâng cao vấn đề
<b>5. Giới thuyết thuật ngữ</b>
Theo Lê Bá Hán, 2009, “Từ điển thuật ngữ văn học”, NXB Giáo dục:
<b>* Không gian nghệ thuật</b>:
Là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu
tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong
trường nhìn nhất định (…). Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên
mang tính chủ quan. Ngồi khơng gian vật thể có khơng gian tâm tưởng. Do vậy, nó có
tính độc lập tương đối, khơng qui được vào khơng gian địa lý.
<b>* Thời gian nghệ thuật</b>:
Là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật. Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu
tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong
thời gian. Khác với thời gian khách quan, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về
quá khứ, có thể bay vượt đến tương lai xa xơi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài
trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vơ tận. Nó được đo bằng nhiều thước
đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống,
cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác…tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm.
<b>6. Cấu trúc đề tài</b>
Ở đề tài này của tơi ngồi phần mở đầu và phần kết luận cịn có 3 ý lớn của phần nội
dung như:
1. Thời gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” – Nam Cao
1.1. Độ dài thời gian
1.2. Chiều hướng, trật tự thời gian
1.3. Nhịp điệu, sự vận động của thời gian
2. Không gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” – Nam Cao
2.1. Khơng gian làng Vũ Đại
2.2. Không gian túp lều ven sông
2.3. Không gian đêm trăng
3. Sự kết hợp giữa không gian – thời gian nghệ thuật trong “Chí Phèo” – Nam Cao
<b>B. NỘI DUNG</b>
<b>1. Thời gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” – Nam Cao</b>
<b>1.1. Độ dài thời gian</b>
lóe lên thì chỉ trong thời gian ngắn ngủi đã bị dập tắt phũ phàng. Sức tố cáo của tác phẩm
nhờ vậy trở nên thật mạnh mẽ.
<b>1.2. Chiều hướng, trật tự thời gian</b>
<b>1.2.1. Thời gian đa chiều</b>
Một trong những sở trường của Nam Cao là lối kết cấu văn bản thoạt nhìn rất tự do,
phóng túng nhưng kì thực hết sức chặt chẽ. Văn bản truyện “ Chí Phèo” được tổ chức
theo nguyên tắc gián đoạn về thời gian. Chính sự gián đoạn này cho ta cảm giác về một
lối kể tự nhiên, phóng túng rất hiện đại.
Truyện “Chí Phèo” chủ yếu kể về những điều đang diễn ra (gắn với thì hiện tại). Cách
mở đoạn thường gắn với sự định vị thời gian: “Thì năm nay lại nảy ra Chí Phèo…”, “Bây
giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi…”, “Hắn cứ chửi như chiều nay hắn chửi…”,
“Bây giờ thì chúng ngủ bên nhau…”, “Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh…”. Tồn bộ cuộc đời
Chí Phèo được kể trong câu chuyện này nhưng trong quá trình thuật lại câu chuyện, trình
tự thời gian ln luôn được thay đổi rất linh hoạt với sự đan xen giữa hiện tại, quá khứ,
tương lai. Tuy nhiên, sự đảo lộn trật tự thời gian tuyến tính trong truyện “Chí Phèo”
khơng hề phá vỡ tính liền mạch của câu chuyện. Ngược lại nó cịn có tác dụng gia tăng
tính tuần tự, tính nối kết chặt chẽ của các tình tiết nghệ thuật.
Chẳng hạn đoạn mở truyện tả tiếng chửi của Chí Phèo được khép lại bằng câu: “A ha!
Phải đấy hắn cứ thế mà chửi (…) Có mà trời biết! Hắn khơng biết, cả làng Vũ Đại cũng
không ai biết…”. Cả đoạn văn tiếp theo là thời gian quá khứ với câu chuyện “ anh thả
ống lươn” đã nhặt được Chí Phèo như thế nào. Như vậy, rất tự nhiên, câu chuyện quá khứ
– tuổi ấu thơ của Chí Phèo đã trả lời lập tức những câu hỏi vừa buông ra ngay cuối đoạn
văn trước đó. Bất cứ giữa hai đoạn văn kể về những thời điểm khác nhau nào trong tác
phẩm, ta cũng dễ dàng tìm ra mối liên hệ rất logic như trên.
Từ quá khứ xa thuở ấu thơ, Nam Cao kể tiếp đến quá khứ gần của Chí “năm hai mươi
tuổi – hắn làm canh điền cho ơng lí Kiến” rồi Chí “phải đi tù”, “hắn đi biệt đến bảy, tám
năm, rồi một hôm, hắn lại lù lù ở đâu lần về”.
Câu chuyện quá khứ khép lại, nhà văn khéo léo đưa người đọc trở về với cuộc sống hiện
tại của Chí. Nam Cao chú ý đặc biệt tới thời gian hiện tại, một cái thời gian hiện tại
khơng bị chìm đi trong q khứ, cũng khơng bị mờ đi vì ảo ảnh của tương lai mà hiện ra
<b>1.2.2. Thời gian hồi tưởng – tâm tưởng</b>
Trong nhiều tác phẩm của mình Nam Cao đã sử dụng phạm trù “hồi tưởng” như là một
yếu tố của thời gian nghệ thuật. Như ta đã biết, hồi tưởng thường xuất hiện trong quá
trình sáng tạo tác phẩm theo quy luật tương phản hoặc theo nguyên tắc liên tưởng. Trong
thế giới nghệ thuật của Nam Cao, hồi tưởng hiện ra từ từ, không cố ý, ngỡ như vơ tình
thậm chí ngay cả khi nhà văn chủ tâm đi vào thế giới hồi tưởng của nhân vật. Nó tạo ra
khả năng đối chiếu giữa q khứ và hiện tại, có thể nhìn thấy những viễn cảnh, những
chu tuyến của tương lai.
Chí Phèo đối diện với cảnh sống hiện tại, cảnh vật ngày hôm nay như khêu gợi kỷ niệm
của ngày qua. Mơ ước xưa hiện về: “ Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia
đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải.” Tất cả chỉ làm tăng thêm nỗi
buồn chán, khổ đau, nước mắt. Thời gian như là người bạn đường của sự khổ đau. Có thể
nói, trong nhiều sáng tác của Nam Cao, nhân vật vơ hình chủ yếu là thời gian đã mất.
Hầu như trong mỗi tác phẩm của ông đều tồn tại “nhân vật” vô hình này hoặc là hàm ý sự
có mặt của nó. Với tư cách là nhà văn hiện thực, Nam Cao ý thức sâu sắc được tính
khơng đảo ngược của thời gian. Nhiều nhân vật thuộc những tầng lớp xã hội khác nhau
của ơng đều nhìn thấy thời gian trơi đi một cách tàn nhẫn. Họ suy ngẫm về thời gian với
sự xúc động, với niềm nuối tiếc, với tình cảm đắng cay của sự mất mát khơng gì bù đắp
nỗi. Đối với Chí Phèo, thời gian khơng chỉ tàn phá nhân hình mà cịn hủy hoại cả nhân
tính và tâm hồn con người: “Cái mặt hắn không trẻ cũng khơng già; nó khơng cịn phải là
mặt người: nó là mặt một con vật lạ”. Những cơn say vô tận, những việc “ ức hiếp, phá
<b>1.3. Nhịp điệu, sự vận động của thời gian</b>
Trong truyện “Chí Phèo”, nhịp điệu thời gian có khi chậm lại bởi những đoạn suy tư và
hồi tưởng của Chí về thời quá khứ. Nhưng cũng có khi thời gian lại vận động rất nhanh.
Từ hồi mới đi tù về “hồi ấy hắn mới đâu hăm bảy hay hăm tám…” vậy mà “bây giờ thì
hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngồi
bốn mươi?”. Thời gian trôi đi vun vút cũng để lại trên mặt Chí khơng biết bao nhiêu vết
sẹo “nó vằn dọc, vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai
của bao nhiêu lần ăn vạ, kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ là làm sao nổi?”. Trước bước đi
quá nhanh của thời gian, Chí bàng hồng, thảng thốt: “Có lý nào như thế được? Hắn đã
già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu…”.
Như vậy, sự vận động của thời gian ở đây cho ta thấy được q trình tha hóa về nhân tính
lẫn nhân hình diến ra ở nhân vật Chí Phèo hết sức nhanh chóng.
<b>2. Khơng gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” – Nam Cao</b>
<b>2.1. Khơng gian làng Vũ Đại</b>
thành năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà chính là do bọn chúng “chỉ là một đàn cá
tranh mồi” , “mồi thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài
mặt thì tử tế với nhau nhưng trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên
đầu lên cổ ”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung nhận xét: “ Khơng khí truyện “Chí
Phèo” tuy khơng sôi sục náo động như trong “Tắt Đèn” nhưng là bầu khơng khí có tích
địện trước lúc giơng bão”.
Có thể nói, khơng khí oi nồng, ngột ngạt đã bao trùm lên toàn bộ thiên truyện và bao
trùm lên cả làng Vũ Đại. Không gian làng Vũ Đại đã thể hiện rõ giá trị hiện thực sâu sắc
của tác phẩm.
<b>2.2. Không gian túp lều ven sông</b>
Túp lều ven sơng – tài sản duy nhất của Chí Phèo được miêu tả với không gian: “ẩm
thấp” và ánh sáng “ hơi lờ mờ”. “Ở đâu người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi
bên ngoài vẫn sáng”. Túp lều ấy “Ở gần một con sông con, nước lặng và trong, khắp bãi
trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo nhau thành làn”. Khu
vườn nhà hắn có một lối đi nhỏ ra sơng “trước kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy để ra
sơng tắm giặt hay kín nước. Nhưng từ khi hắn đến người ta thôi dần, tìm một lối đi khác
xa hơn”. Như vậy, khơng gian sống của Chí Phèo đã hồn tồn bị cơ lập, bị tách ra hẳn
khơng gian sống của lồi người. Không gian ấy thật đẹp, thật lãng mạn: “những đêm
trăng (…) cái vườn phẳng ngổn ngang những bóng chuối đen đen như những cái áo
nhuộm vắt tung trên bãi” nhưng cũng có gì đó lạnh lẽo, rợn ngợp bởi thiếu vắng hơi thở
của sự sống con người.
<b>2.3. Không gian đêm trăng</b>
Không gian đêm trăng nơi bờ sơng gần nhà Chí Phèo được Nam Cao miêu tả thật hữu
tình với: “Những tàu chuối đen nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi
như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lạy giãy lên đành đạch như là hứng tình”. “Trăng
tỏa trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng”.
Khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, tuyệt thơ mộng thường được dùng làm bối cảnh cho
các mối tình lãng mạn. Vậy mà ở đây, Nam Cao đã để Chí Phèo gặp Thị Nở - người đàn
bà “ngẩn ngơ, dở hơi, xấu xí” dưới thiên nhiên vơ tư, trong trẻo đầy thi vị ấy. Phải chăng,
đây chính là tấm lịng nhân đạo cao cả của nhà văn. Nam Cao đã dành cho cuộc gặp gỡ
<b>3. Sự kết hợp giữa không gian và thời gian nghệ thuật trong “Chí Phèo”</b>
Khơng gian và thời gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” nhiều khi lẫn vào nhau,
chuyển hóa lẫn nhau. Hình ảnh khơng gian: “Cái lị gạch bỏ khơng” xuất hiện ở đầu
truyện hồn tồn trùng khít với thời gian Chí Phèo ra đời “trần truồng và xám ngắt trong
một cái váy đụp”. Sự kết hợp, chuyển hóa này một lần nữa được lặp lại ở cuối truyện tạo
nên kết cấu vòng tròn luẩn quẩn góp phần thể hiện rõ qui luật tàn bạo của xã hội phong
kiến đương thời. Nếu xã hội ấy còn tồn tại những kẻ cường hào, thống trị kiểu Bá kiến và
Lí Cường và chúng cịn ra sức áp bức, bóc lột thậm tệ thì vẫn cịn những người dân lành
bị đẩy vào con đường lưu manh, tha hóa như Chí Phèo.
<b>C. KẾT LUẬN</b>