Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Công tác tổ chức lễ hội đền quả sơn xã bồi sơn huyện đô lương tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 88 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ VĂN HĨA NGHỆ THUẬT

CƠNG TÁC TỔ CHỨC LỄ HỘI ĐỀN QUẢ
SƠN, XÃ BỒI SƠN, HUYỆN ĐƠ LƢƠNG,
TỈNH NGHỆ AN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN QUẢN LÝ VĂN HĨA

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp
Niên khóa

: Th.S Nguyễn Khánh Ngọc
: Nguyễn Danh Hiếu
: QLVH – 10A
: 2009 – 2013

Hà Nội - 2013
Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
1



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của tơi. Nếu có gì sai
trái tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm.

Sinh viên
Nguyễn Danh Hiếu

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
2


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

Lời Cảm Ơn
Em xin chân thành bày tỏ tình cảm, lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc
đến Ban giám hiệu, quý thầy cô trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội đã tận tâm
giảng dạy, trang bị cho em những kiến thức và những kinh nghiệm quý báu
trong suốt thời gian vừa qua, đó là những hành trang vô cùng quý giá trong
suốt cuộc đời hoạt động phục vụ cho sự nghiệp văn hóa mà em đang theo
đuổi .
Xin gửi lời cảm ơn đến các cơ quan : Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Nghệ An, Phịng – Trung tâm Văn hóa Thơng tin huyện Đô Lƣơng, Ủy ban

nhân dân xã Bồi Sơn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và cung cấp cho em các
tài liệu và thông tin cần thiết cho việc thực hiện khóa luận này.
Xin tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Thạc sỹ Nguyễn Khánh Ngọc đã tận tâm
tận ý và trực tiếp hƣớng dẫn khóa luận này.
Dù đã nỗ lực trong q trình thực hiện, nhƣng khơng tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong đƣợc sự đóng góp của hội đồng và các thầy cơ giáo để
khóa luận đƣợc hoàn thiện.
Trận trọng cảm ơn !
Sinh viên
Nguyễn Danh Hiếu

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
3


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. ....................................................................................... 6
2. Mục đích nghiên cứu. ................................................................................. 8
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. .............................................................. 8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu. ........................................................................... 8
5. Đóng góp của đề tài. ................................................................................... 8
6. Cấu trúc của đề tài: ..................................................................................... 9
CHƢƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI ĐỀN QUẢ SƠN, XÃ BỒI SƠN,

HUYỆN ĐÔ LƢƠNG, TỈNH NGHỆ AN .................................................. 10
1.1. Khái quát chung về xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An. ......... 10
1.1.1. Lịch sử vùng đất . ............................................................................... 10
1.1.2. Con người Bồi Sơn. ............................................................................ 11
1.1.3. Đặc điểm văn hóa - xã hội. ................................................................. 12
1.2. Khái quát về lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh
Nghệ An. ...................................................................................................... 13
1.2.1. Đức thánh Uy Minh Vương – Lý Nhật Quang qua các thời kỳ lịch sử. 13
1.2.2. Các lễ thờ tự của Đền Quả Sơn. ......................................................... 17
1.2.3. Diễn trình lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh
Nghệ An. ...................................................................................................... 18
1.2.3.1. Hoạt động nghi lễ. ........................................................................... 20
1.2.3.2. Hoạt động hưởng ứng ...................................................................... 26
1.2.4. Ý nghĩa của lễ hội Đền Quả trong tín ngưỡng tâm linh của nhân dân xứ
Nghệ và nhân dân cả nước. .......................................................................... 30
CHƢƠNG 2 : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC LỄ HỘI ĐỀN
QUẢ SƠN XÃ BỒI SƠN HUYỆN ĐÔ LƢƠNG TỈNH NGHỆ AN. ....... 34
2.1.Quan điểm của Đảng với nhà nƣớc đối với công tác tổ chức lễ hội......... 34
Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
4


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

2.2.Thực trạng Cơng tác tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn. .................................. 38
2.2.1.Công tác tổ chức lễ hội. ....................................................................... 38

2.2.1.1. Hoạt động dự toán ngân sách. ......................................................... 38
2.2.1.2. Hoạt động vận động tài trợ .............................................................. 40
2.2.1.3. Nguồn nhân lực cho lễ hội. .............................................................. 43
2.2.1.4. Marketing cho lễ hội. ....................................................................... 48
2.2.1.5. Kế hoạch hậu cần cho lễ hội. ........................................................... 50
2.2.1.6. Các vấn đề pháp lý cho lễ hội. ......................................................... 51
2.2.2. Hoạt động phục vụ, dịch vụ. ............................................................... 52
CHƢƠNG 3 : MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TỔ CHỨC LỄ HỘI ĐỀN QUẢ SƠN XÃ BỒI SƠN HUYỆN ĐÔ
LƢƠNG TỈNH NGHỆ AN. ....................................................................... 57
3.1. Đánh giá thực trạng công tác tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn. .................... 57
3.1.1.Thuận lợi. ............................................................................................ 57
3.1.2. Khó khăn. ........................................................................................... 59
3.2. Những định hƣớng về cơng tác tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn trong những
năm tới. ........................................................................................................ 61
3.3. Một số đề xuất nhằm phát huy tốt hơn các giá trị của lễ hội Đền Quả Sơn. .. 63
KẾT LUẬN ................................................................................................. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………..67
PHỤ LỤC………………………………………………..……………….....69

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
5


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, là một nhu cầu khơng
thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời dân Việt Nam. Mỗi lễ
hội thƣờng có một lịch sử nhất định gắn liền với tên tuổi của một nhân vật
lịch sử cụ thể nào đó đƣợc nhân dân địa phƣơng có lễ hội tơn vinh thờ tự. Đó
là một vị thánh bất tử trong tâm thức, tín ngƣỡng của cƣ dân hoặc nhân thần
có cơng đánh giặc, khai hoang lập địa … Vì thế ngƣời dân Việt lại tƣng bừng
tổ chức lễ hội mang đậm nét truyền thống dân gian, vừa hào hùng hoành tráng
nhƣng cũng đầy màu sắc của nền văn minh nơng nghiệp. Mỗi lễ hội diễn ra
đều có những giây phút hòa nhập, sự cộng cảm một cách hoàn toàn tự nguyện
của ngƣời dân nơi tổ chức để đón khách thập phƣơng về tham quan, du lịch.
Mọi ngƣời đến dự lễ hội nhằm tìm đến sự che chở của thần linh, của các thế
lực siêu nhiên, cầu cho mƣa thuận gió hịa, mùa màng tƣơi tốt bội thu, nhân
dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Nghệ An - mảnh đất của những lễ hội cổ truyền nhƣ: lễ hội Đền Cuông,
lễ hội Làng Sen, lễ hội Hang Bua, lễ hội Đền Cờn, lễ hội Bạch Mã, lễ hội Đền
Quả Sơn, lễ hội Đền Đức Hoàng … Mỗi lễ hội diễn ra đều mang trong mình
những nét đặc trƣng riêng biệt tạo nên màu sắc văn hóa phong phú và đa dạng
của từng địa phƣơng.
Lễ hội Đền Quả Sơn là một trong những lễ hội lớn vào loại bậc nhất ở
Nghệ An. Lễ hội đƣợc diễn ra trong 3 ngày 19, 20 và 21 tháng giêng âm lịch
hằng năm để tƣởng nhớ tới công đức của Uy Minh Vƣơng Lý Nhật Quang –
vị danh tƣớng danh thần của vƣơng triều Lý đã có cơng lớn trong việc bảo
quốc dân an, củng cố nền độc lập, thống nhất đất nƣớc vào thế kỷ XI (10391055). Đây là lễ hội dân gian đặc sắc, hấp dẫn và mang nhiều ý nghĩa nhân
Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
6



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

văn, thể hiện đạo lý truyền thống “ Uống nƣớc nhớ nguồn’’, làm sống dậy
tinh thần thƣợng võ cùng những thuần phong mỹ tục của nền văn hóa dân
gian. Lễ hội đƣợc tổ chức có quy mơ, phát huy các giá trị truyền thống đồng
thời với việc tiếp thu và vận dụng những giá trị mới của thời đại, lễ hội đã góp
phần rất lớn trong việc đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân bản địa và du
khách thập phƣơng. Tuy nhiên, do chƣa đƣợc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm
túc về nội dung diễn trình lễ hội nên trong quá trình phục dựng vẫn có nhiều
thiếu sót, đặc biệt trong cơng tác tổ chức cần đảm bảo và phát huy hơn nữa
các hoạt động nhƣ: vận động tài trợ, marketing cho lễ hội, phục vụ dịch
vụ…Ngoài ra các đặc điểm của lễ hội chƣa đƣợc khai thác và thể hiện một
cách đầy đủ và tồn diện, trong lễ hội cịn diễn ra nhiều hiện tƣợng tiêu cực
làm ảnh hƣởng không nhỏ đến ý nghĩa và vẻ đẹp truyền thống của các sinh
hoạt văn hóa dân gian. Chính vì vậy, cơng tác tổ chức đóng một vai trị rất
quan trọng đối với sự thành công của lễ hội nhằm bảo tồn các giá trị đa dạng
về lịch sử, di sản văn hóa dân tộc trong xu thế hội nhập.
Để kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa vật chất, tinh thần của bao
lớp thế hệ cha anh đi trƣớc để lại. Nhân dân huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An
đã và đang ra sức phấn đấu học tập, lao động và quyết tâm xây dựng quê
hƣơng ngày càng giàu mạnh, phát triển về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội …
Là ngƣời con đƣợc sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Đô Lƣơng – Nghệ
An giàu truyền thống văn hóa lịch sử và cách mạng. Đồng thời là sinh viên
khoa Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật, là một cán bộ quản lý văn hóa trong
tƣơng lai, tơi rất mong muốn đƣợc đóng góp ý kiến của mình nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn và giữ gìn, phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống tại địa phƣơng nơi mình đã sinh ra.


Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
7


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

Với những lý do thực tiễn nhƣ trên, đã thôi thúc tôi lựa chọn đề tài:
“Công tác tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh
Nghệ An” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
2.1. Phân tích thực trạng của cơng tác tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi
Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An.
2.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức lễ
hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Công tác tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn,
huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài, tơi đã sử dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp điều tra, quan sát, mô tả
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu
- Phƣơng pháp thống kê, phân loại
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp

- Phƣơng pháp điền dã, khảo sát thực địa (Phỏng vấn, ghi âm, chụp ảnh)
5. Đóng góp của đề tài.
Đề tài làm sáng tỏ về thực trạng của công tác tổ chức lễ hội Đền Quả
Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đơ Lƣơng, tỉnh Nghệ An một cách tồn diện, đầy đủ
và khái quát.
Đề tài đóng góp các luận cứ và luận chứng cho việc nghiên cứu về lễ
hội Đền Quả Sơn, đồng thời sẽ là tƣ liệu cho việc nâng cao hiệu quả của công
tác tổ chức lễ hội trong những năm tới.

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
8


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

6. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài đƣợc kết
cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng,
tỉnh Nghệ An.
Chƣơng 2: Thực trạng công tác tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn,
huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An.
Chƣơng 3: Một số đề xuất và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An.

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu


Lớp : QLVH 10A
9


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI ĐỀN QUẢ SƠN, XÃ BỒI SƠN,
HUYỆN ĐÔ LƢƠNG, TỈNH NGHỆ AN
1.1. Khái quát chung về xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An.
1.1.1. Lịch sử vùng đất .
Bồi Sơn ngày nay với tên gọi thời xƣa là Bạch Đƣờng thuộc vùng Đô
Giao, đời Ngô thuộc quận Cửu Đức, thời Tiền Lê thuộc đất Hoan Đƣờng. Đời
Trần – Hồ gọi là Kẻ Giang, đến thời Hậu Lê thuộc huyện Thanh Đƣờng. Đến
năm 1848 cắt 4 tổng của Nam Đƣờng (Trong đó có Vã Bạch Đƣờng) và một
tổng củ huyện Thanh Chƣơng lập thành huyện Lƣơng Sơn do phủ Anh Sơn
kiêm lý. Cuối thế kỷ thứ XIX, để tránh húy vua Đồng Khánh (Nguyễn Phúc
Ƣng Đƣờng, một ông vua triều Nguyễn, trị vì khoảng 1886 đến 1888), Triều
đình Huế mới cải đổi thành Bạch Ngọc. Hàng loạt địa danh khác cũng phải
cải đổi nhƣ: Huyện Nam Đƣờng đổi thành huyện Nam Đàn, thơn Miếu
Đƣờng (Có tên nơm là làng Mƣợu) đổi thành thôn Tập Phúc. Năm 1953 Bạch
Ngọc đƣợc chia làm 3 xã Ngọc Sơn, Lam Sơn và Bồi Sơn.
Thời Trần cũng nhƣ thời Lam Sơn khởi nghĩa, Bạch Đƣờng vẫn là địa
bàn đứng chân để tiến công hay cố thủ. Thời phong trào Cần Vƣơng sôi sục
khắp hai tỉnh Nghệ – Tĩnh vào cuối thế kỷ XIX, Bạch Ngọc thƣờng là nơi lui
tới của nghĩa quân Tác Khai, Tác Bẩy và cụ lớn Hƣờng (Tiến sĩ, Hƣờng Lô –
Nguyễn Nguyên Thành). Trong phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh (1930 –

1931), tiếng trống kêu sƣu Tập Phúc, Bạch Ngọc mở đầu cuộc đấu tranh
chống chế độ Thực dân ở phủ Anh Sơn. Vùng đại ngàn điệp trùng của Bạch
Ngọc đã từng bảo vệ tốt cơ quan của phủ ủy Anh Sơn và tỉnh ủy Nghệ An.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lại một lần nữa Bạch
Ngọc trở thành căn cứ địa của miền Bắc Trung Bộ. Tự hào về truyền thống
Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
10


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

Bạch Đƣờng thời Lý, nhân dân Bồi Sơn càng phấn khởi, tin tƣởng vào thắng
lợi của sự nghiệp xây dựng quê hƣơng, đất nƣớc, nơi từng đã là chỗ dựa căn
bản của công việc bảo vệ biên giới quốc gia trong suốt các thời kỳ biến động
của lịch sử dân tộc Việt Nam.
1.1.2. Con người Bồi Sơn.
Bồi Sơn là mảnh đất văn hiến, có vị trí chiến lƣợc quan trọng và bề dày
lịch sử vẻ vang. Nhân dân Bồi Sơn thông minh, hiếu học, giàu truyền thống
yêu nƣớc và cách mạng. Con ngƣời Bồi Sơn mang đầy đủ cốt cách của ngƣời
Việt Nam: Cần cù, chịu khó trong lao động, kiên cƣờng, dũng cảm trong
chiến đấu, nghĩa tình, thủy chung trong cuộc sống … Từ trong những đêm
trƣờng của lịch sử cho đến hôm nay, lớp lớp các thế hệ ngƣời Bồi Sơn đã nối
tiếp nhau, kề vai sát cánh cùng đấu tranh chống lại thiên tai khắc nghiệt,
chống mọi kẻ thù xâm lƣợc, viết nên những trang sáng ngời trong kho tàng
lịch sử của dân tộc.
Gần 100 năm trƣớc khi Uy Minh Vƣơng Lý Nhật Quang, con trai thứ 8

của vua Lý Thái Tổ đƣợc cử làm Tri Châu Nghệ An, đã chọn vùng đất này
cùng với nhân dân giữ yên bờ cõi, xây dựng sự nghiệp, để lại những kỳ tích
hào hùng còn lƣu giữ cho đến bây giờ và mãi mãi về sau. Trong các cuộc
chiến đấu chống quân xâm lƣợc Minh, Thanh và những cuộc kháng chiến
chống xâm lƣợc khác. Nhân dân Bồi Sơn đã hăng hái gia nhập nghĩa quân,
đóng góp sức ngƣời, sức của góp phần làm nên thắng lợi đánh đuổi quân thù
ra khỏi đất nƣớc, bảo vệ non sông bờ cõi nƣớc nhà. Đặc biệt từ khi Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời, nhân dân Bồi Sơn một lịng theo Đảng, đồn kết để đấu
tranh làm nên một cuộc cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô
Viết - Nghệ Tĩnh, một cuộc cách mạng tháng 8 /1945 long trời lở đất, một
Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, chấm dứt 100 năm ách áp bức của thực dân
Pháp và sự thống trị hàng ngàn năm của chế độ phong kiến. Nhƣng đế quốc

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
11


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

Mỹ lại nhảy vào Miền Nam, nhân dân Bồi Sơn lại cùng Miền Bắc vừa cải tạo
xã hội vừa xây dựng hậu phƣơng lớn chi viện cho tiền tuyến Miền Nam, đánh
bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và góp phần giải phóng Miền Nam
thống nhất đất nƣớc, đƣa tổ quốc sang một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử dân tộc bƣớc sang trang mới, nhân dân Bồi Sơn cùng nhân dân cả
nƣớc tích cực thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ

quốc. Thực hiện đƣờng lối đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xƣớng
và lãnh đạo, đem lại những thành tựu lớn. Đƣa Việt Nam từ một nƣớc nghèo
nàn lạc hậu lên vị trí là một nƣớc có tốc độ phát triển nhanh, có vị thế cao trên
trƣờng quốc tế. Quê hƣơng Bồi Sơn cũng ngày một thay da đổi thịt, giàu đẹp
văn minh, cuộc sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.
1.1.3. Đặc điểm văn hóa - xã hội.
Các vấn đề văn hóa - xã hội ln đƣợc xã quan tâm và có những chính
sách, hƣớng đi đúng đắn. Bồi Sơn từ lâu đã có tiếng là mảnh đất hiếu học.
Nhiều tên đất, tên làng, tên núi đều thể hiện thái độ trân trọng của nhân dân
đối với việc học hành, khoa cử. Đến nay hệ thống giáo dục ở Bồi Sơn đã hồn
thiện, xã có 4 trƣờng mầm non, tiểu học, trung học và 1 trƣờng trung học phổ
thông. Chất lƣợng dạy, học từng bƣớc đƣợc nâng lên. Đào tạo lao động và
hƣớng nghiệp dạy nghề đạt kết quả cao, luôn luôn dẫn đầu phong trào của
tồn huyện. Các hoạt động ln hƣớng về cơ sở góp phần tích cực phục vụ
nhiệm vụ chính trị, nâng cao dân chí và đời sống tinh thần cho nhân dân.
Trong năm 2012, xã đã tổ chức triển khai các hoạt động văn hóa, văn nghệ,
thể thao mừng Đảng, mừng xuân, chào mừng đại hội Đảng bộ huyện lần thứ
XIX … Tổ chức trao danh hiệu đơn vị văn hóa cho 8 cơ quan, 5 xóm, 3 dịng
họ và 2561 gia đình văn hóa. Cơng tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
thƣờng xuyên đƣợc quan tâm, mạng lƣới y tế đƣợc chú trọng củng cố. Đời

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
12


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT


sống nhân dân ngày càng đƣợc nâng cao, kinh tế, văn hóa, xã hội của xã đang
dần hòa chung vào nhịp độ phát triển của đất nƣớc.
1.2. Khái quát về lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh
Nghệ An.
1.2.1. Đức thánh Uy Minh Vương – Lý Nhật Quang qua các thời kỳ lịch sử.
Từ xƣa tới nay, trong dân gian xứ Nghệ vẫn thƣờng truyền tụng câu ca:
“Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trƣng”. Câu ca trên hàm ý ca
ngợi bốn ngơi đền có quy mơ to lớn và nổi tiếng linh thiêng của xứ Nghệ,
trong đó có Đền Quả Sơn.
Đền Quả Sơn trƣớc đây thuộc địa phận xã Bạch Đƣờng, tổng Bạch Ngọc,
huyện Nam Đƣờng (sau này đổi thành Nam Đàn), trấn Nghệ An. Nay thuộc
xã Bồi Sơn, huyện Đô Lƣơng, tỉnh Nghệ An. Đền Quả Sơn không chỉ nổi
tiếng bởi giá trị nghệ thuật kiến trúc, quy mơ to lớn và linh thiêng, mà cịn bởi
nơi đây là nơi thờ Uy Minh Vƣơng Lý Nhật Quang – vị tri châu Nghệ An,
ngƣời có nhiều cơng lao xây dựng quê hƣơng xứ Nghệ và mở mang, bảo vệ
bờ cõi cho quốc gia Đại Việt dƣới triều nhà Lý (thế kỷ XI). Theo thần phả
Đền Quả Sơn cho biết: “Lý Nhật Quang là con trai thứ 8 của Đức Thái Tổ Lý
Công Uẩn, hiệu là Bát Lang Hoàng Tử, tƣớc Uy Minh Vƣơng. Mẹ là Trinh
Linh Hoàng Hậu Lê Thị. Ơng đã tỏ ra có chí hơn ngƣời: Lên 8 tuổi đã biết
làm thơ, 10 tuổi đã thơng hiểu kinh sử và quan tâm tìm hiểu thời thế. Ơng
đƣợc Vua Cha và Hồng Tộc dạy dỗ chu đáo nên đã sớm trở thành trụ cột của
nƣớc nhà. Với tƣ chất thơng minh và mƣu lƣợc, Ơng thƣờng góp đƣợc nhiều
kế hay, ý tốt cho Vua trong việc trị quốc an dân nên rất đƣợc nhà Vua tin yêu
và triều thần nể trọng. Năm 1039, Lý Nhật Quang đƣợc giao nhiệm vụ trông
coi tô thuế ở Nghệ An. Với sự cơng minh của Ơng, các kho trạm lúc nào cũng
đƣợc đầy thóc sau mỗi mùa thu hoạch. Tháng 11/1041, Ông đƣợc bổ nhiệm
làm Tri châu Nghệ An. Lúc này, Nghệ An là một vùng biên viễn của Đại Việt,

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu


Lớp : QLVH 10A
13


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

việc quản lý cịn lỏng lẻo. Nhiều cuộc nổi dậy ở địa phƣơng có tính chất phản
loạn, gây sự phiền nhiễu cho nhân dân, triều đình phải nhiều phen dẹp loạn.
Nhƣng sau khi Lý Nhật Quang đƣợc cử làm Tri châu, tình hình xã hội ở Nghệ
An dần dần ổn định, kỷ cƣơng phép nƣớc đƣợc lập lại. Để việc quản lý đƣợc
chặt chẽ, Ông đã cho làm sổ sách thống kê hộ khẩu, nhân đinh. Theo sử gia
Phan Huy Chú: "Đời Lý, việc kiểm soát hộ tịch rất là nghiêm ngặt. Dân đinh
nào đến 18 tuổi thì biên vào sổ bìa vàng gọi là Hoàng Nam, đến 20 tuổi gọi là
Đại Hoàng Nam". Những biện pháp quản lý xã hội của Lý Nhật Quang cùng
với sự độ lƣợng và tƣ tƣởng thân dân của Ơng dần dần đã cảm hố và quy
phục đƣợc tất cả mọi tầng lớp nhân dân, làm cho vùng đất nơi đây trở nên
thuần hậu và thống nhất. Ông còn cho mở mang nhiều đồn trại, quân binh (lớn
nhất là trại Bà Hoà - vùng giáp giới giữa Nghệ An và Thanh Hố), tích luỹ
đƣợc nhiều lƣơng thực, vũ khí, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc nam chinh
của Vua Lý Thái Tông trong lần tiến đánh Chiêm Thành năm 1044. Đó chính
là cơng lao và vai trị quan trọng đầu tiên của Lý Nhật Quang, với tƣ cách là
ngƣời đứng đầu bộ máy hành chính ở địa phƣơng. Song song với việc ổn định
xã hội, Lý Nhật Quang hết sức coi trọng việc phát triển kinh tế, khuyến khích,
hƣớng dẫn nhân dân mở mang nghề nghiệp, khai thác mọi tiềm năng của vùng
đất xứ Nghệ. Cùng với việc chiêu dân, khai hoang, lập ấp, Ơng cịn dạy cho
dân chúng trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, dệt vải ... Ông trở thành tổ sƣ của
nhiều ngành nghề thủ công nghiệp ở Nghệ An. Với cái nhìn có tính chiến

lƣợc, dƣới con mắt của một danh tƣớng tinh thông binh pháp, uyên thâm phật
pháp, Lý Nhật Quang đã chọn vùng Bạch Đƣờng (nay gồm 3 xã: Ngọc Sơn,
Lam Sơn, Bồi Sơn - huyện Đơ Lƣơng) - là nơi có vị trí trung tâm của cả châu,
cơng, thủ đều thuận lợi - để xây dựng lỵ sở. Từ đây, Ông đã ban hành và cho
thực hiện nhiều chính sách tiến bộ và táo bạo để mở mang phát triển sản xuất.
Ông chủ trƣơng kinh doanh khai thác một cách toàn diện và quy mô đất Nghệ

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
14


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

An. Các vùng Khe Bố, Cự Đồn (Con Cng), Nam Hoa (Nam Đàn), Hồng
Mai (Quỳnh Lƣu), Công Trung (Yên Thành), thành phố Vinh, Nghi Xuân, Kỳ
Anh (Hà Tĩnh) ... là do Ông chiêu dân lập ấp và sử dụng tù binh để khai khẩn
đất hoang. Ông đã cho mở 2 con đƣờng thƣợng đạo: 1 từ Đơ Lƣơng ra Thanh
Hố rồi ra Thăng Long, 1 từ Đơ Lƣơng lên Kỳ Sơn. Ơng cho đào và nạo vét
các đoạn sông Đa Cái ở Hƣng Nguyên, kênh Sắt ở Nghi Lộc, kênh Son, kênh
Dâu ở Quỳnh Lƣu. Ơng cịn khởi xƣớng việc đắp đê sơng Lam (Tiền thân của
đê 42 sau này) để ngăn nƣớc lũ. Khơng những quan tâm đến đời sống vật chất,
Ơng cịn rất quan tâm đến đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân nhƣ việc
cho xây dựng nhiều chùa thờ Phật để nhân dân đến sinh hoạt văn hoá tâm linh.
Có thể nói, những việc làm có tính chất mở đầu ở một vùng biên viễn của Lý
Nhật Quang đã đạt đến tầm cỡ của một nhà chiến lƣợc, vừa an dân, vừa tạo
dựng tiềm năng, thế mạnh để giữ gìn bờ cõi. Nhận thức rõ mối quan hệ giữa

xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng , Lý Nhật Quang đã có chủ ý trong
việc xây dựng và bảo vệ vùng phên dậu của đất nƣớc - Nghệ An. Việc xây
dựng, tu bổ, sửa chữa các đƣờng giao thơng thuỷ, bộ khơng chỉ nhằm mục
đích giao lƣu kinh tế mà còn nhằm phục vụ nhu cầu quốc phòng nhƣ việc cơ
động lực lƣợng, vận tải tiếp tế khi có chiến sự xảy ra. Cùng với đội quân
thƣờng trực ở châu (tỉnh), Ơng cịn tổ chức các đội dân binh (Hƣơng binh)
tinh nhuệ, có kỷ luật nghiêm minh làm lực lƣợng sẵn sàng chiến đấu tại chỗ ở
mỗi thôn, xóm. Mặt khác, đối với các bộ tộc láng giềng, Ông dùng chính sách
ngoại giao vừa cƣơng quyết, cứng rắn, dứt khốt, vừa khơn khéo, mềm dẻo,
lấy ân tín để thuyết phục, phủ dụ, nên đã thu phục đƣợc nhân tâm. Uy Minh
Vƣơng Lý Nhật Quang đã góp phần giải quyết ổn thoả sự xung đột trong nội
bộ Chiêm Thành, đồng thời tạo dựng mối quan hệ hoà hiếu giữa Chiêm Thành
với Đai Việt. Trong khoảng 25 năm (Từ 1044 đến 1069), quan hệ giữa hai
quốc gia trở nên tốt đẹp hơn. Ơng cịn cho thực hiện chính sách khuyến thiện,

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
15


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

trừ ác, có lợi và phù hợp cho dân, khiến cho cả châu an cƣ lạc nghiệp. Thần
tích Đền Quả Sơn đã ghi rõ: "Ngài ở châu 19 năm, trừng trị kẻ gian, khen
thƣởng ngƣời lành, khai khẩn đất hoang, chiêu mộ lƣu dân, bọn vô lại phải im
hơi, ngƣời dân về với Ngài đƣợc yên nghiệp. Ngài thƣờng qua lại vùng này,
vùng khác, dạy nghề làm ruộng, trồng cây cối, nuôi gia súc, có nhiều chính

sách lợi cho dân, làm cho nhân dân đồn kết. Ngƣời dân đến kiện tụng thì lấy
liêm, sỹ, lễ, nghĩa giảng dạy làm cho tự giác ngộ, ai nấy đều cảm hố, khơng
bàn đến chuyện kiện cáo nữa. Mọi ngƣời đều gọi Ngài là Triệu Cơng". Là
ngƣời có vị trí và uy quyền cao nhất trong châu, nhƣng Ông sống rất gần gũi
với dân, luôn quan tâm chú ý chăm lo cho dân, lấy việc dân đƣợc no ấm, yên
vui hạnh phúc làm gốc của việc cai trị. Vì thế khơng chỉ nhân dân trong châu
kính trọng, tin yêu, mà các bộ tộc ở phía Nam, phía Tây cũng phải kiêng nể,
mến phục. Ông mất ngày 17/8/1057 năm Đinh Dậu trong trận đánh dẹp giặc
Lão Qua (Ai Lao) để giữ yên bờ cõi. Mộ Ông đƣợc táng ở thôn Thƣợng Thọ,
xã Bạch Đƣờng (nay là xã Bồi Sơn) dƣới chân núi Quả Sơn. Đây là một trong
những ngôi đền và lễ hội cổ kính vào bậc nhất, nhì xứ Nghệ. Trong suốt quá
trình lịch sử, đền Quả Sơn luôn luôn đƣợc Nhà nƣớc quan tâm, việc tổ chức lễ
hội hàng năm vào các ngày 19, 20, 21 tháng giêng ở đây đã thể hiện sinh động
truyền thống uống nƣớc nhớ nguồn, nhằm tơn vinh những ngƣời có cơng với
dân, với nƣớc. Năm 1998, Đền Quả Sơn đã đƣợc Bộ văn hố thơng tin ra
quyết định cơng nhận là di tích lịch sử - văn hố cấp quốc gia. Lý Nhật Quang
còn đƣợc thờ ở nhiều nơi trong nƣớc, chỉ tính riêng Nghệ An đã có 36 làng
lập đền thờ Ơng làm thành hồng. Gần 1000 năm đã qua, nhƣng uy danh về
cuộc đời và sự nghiệp của Uy Minh Vƣơng Lý Nhật Quang vẫn mãi mãi tồn
tại trong tâm thức của nhân dân cả nƣớc nói chung, nhân dân Nghệ An nói
riêng nhƣ một huyền thoại.

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
16


Khóa luận tốt nghiệp


Khoa QLVH - NT

Có một đơi câu đối ca ngợi ơng “Hiển hách thần linh, hƣơng khói miếu
đền lƣu vạn đại” (Lƣng danh tông tộc, núi sông ghi nhớ đến ngàn năm). Trải
qua những thăng trầm của lịch sử, những biến cố của thời gian, sau nhiều lần
trùng tu tôn tạo Đền Quả Sơn trở thành một tồ đền linh thiêng soi bóng trên
bờ sơng Lam và đƣợc xếp vào hàng danh thắng của tỉnh Nghệ An, là di tích
lịch sử văn hố cấp quốc gia. Và lễ hội cổ kính vào bậc nhất nhì xứ Nghệ
hàng năm của đền trở thành nơi chiêm bái, ghi ơn noi theo những ngƣời có
cơng với đất nƣớc của nhân dân trong vùng và du khách thập phƣơng.
1.2.2. Các lễ thờ tự của Đền Quả Sơn.
Đền Quả Sơn với bề dày lịch sử hàng trăm năm, cùng với tín ngƣỡng
tâm linh đã đi vào tâm thức nhân dân xứ Nghệ nói riêng và nhân dân cả nƣớc
nói chung. Đền có rất nhiều lễ thờ tự trong một năm. Cụ thể gồm các lễ thờ tự
nhƣ sau:
Hàng ngày, nhân dân trong xã, các vùng lân cận cũng nhƣ khách thập
phƣơng hành hƣơng tại Đền Quả Sơn, đốt hƣơng, dâng lễ cầu yên. Những
ngày thƣờng thì hầu nhƣ ngƣời ta chỉ dâng lên Đức thánh lễ náo (cau, trầu,
rƣợu, hoa quả) mà thơi.
Lễ Sóc Vọng, tức là ngày 30 (Tháng thiếu là ngày 29) và ngày rằm
hàng tháng, quan viên chức sắc trong xã sở tại tề tựu tại đền để dâng lễ náo,
thƣờng là trầu, rƣợu. Cũng trong hai ngày này, số ngƣời hành hƣơng đông hơn
ngày thƣờng. Trong các ngày lễ Sóc và Vọng này, thƣờng dâng cúng Đức
thánh Lý Nhật Quang bởi lễ thục nhƣ xôi, thịt và trứng là chủ yếu.
Những ngày lễ tết trong năm nhƣ Tết Nguyên Đán, Tết Thƣợng Nguyên
(Ngày rằm tháng Giêng), Tết Đoan Ngọ (Mồng năm tháng Năm), Tết Trung
nguyên (ngày rằm tháng Bảy), Lễ Thƣờng Tân (Ăn cơm mới vào rằm tháng
mƣời), Tết Hạ Nguyên (rằm tháng chạp)… Ngoài cau, trầu, rƣợu, hƣơng hoa,

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu


Lớp : QLVH 10A
17


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

cịn dâng lên Đức thánh bởi lễ thục (Xôi, thịt, trứng). Hành lễ đƣợc tổ chức
trọng thể, thƣờng có phƣờng hát Chầu Văn do xã thuê về hành lễ.
Lễ Chạp Đền – giỗ Đức thánh – chính kỵ vào ngày 17 tháng Chạp
hàng năm. Đây là lễ lớn thứ hai của Đền Quả Sơn, sau lễ hội rƣớc thần – tạ ơn
Bà Bụt đƣợc tổ chức vào ngày 20 và 21 tháng Giêng, luân phiên ba năm hai
kỳ. Trong ngày giỗ Đức thánh, ban điển lễ thƣờng dâng cúng lễ náo, lễ thục,
lễ tam sinh (Dê, lợn, bò). Trong ngày giỗ Đức thánh Quả Sơn, nhiều gia đình
cũng trần thiết bàn thờ tổ tiên với ý nghĩa: Ngƣời đã khuất và ngƣời đang sống
đều về dự Chạp đền để nhớ ơn Uy Minh vƣơng Lý Nhật Quang.
Lễ rƣớc thần (Hay còn gọi là lễ tạ ơn Bà Bụt) đƣợc tổ chức trong hai
ngày: 20 và 21 tháng Giêng luân phiên ba năm hai kỳ. Đây là lễ hội có quy mơ
lớn nhất của Đền, đồng thời cũng là lễ hội lớn thứ nhì so với các lễ hội trong
vùng của tỉnh Nghệ An. Trong hai ngày lễ trọng thể này, nhân dân dâng cúng
lên Đức thánh Lý Nhật Quang đầy đủ các lễ nhƣ: Lễ náo, lễ thục, lễ tam sinh.
1.2.3. Diễn trình lễ hội Đền Quả Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh
Nghệ An.
Vào dịp trung tuần tháng giêng, nhân dân địa phƣơng và du khách thập
phƣơng lại háo hức bƣớc vào công tác chuẩn bị và tổ chức lế hội Đền Quả
Sơn. Lúc đầu lễ hội đƣợc tổ chức hàng năm, về sau do nhân dân trong xã cần
phải chuẩn bị chu đáo để tăng phần trọng thể nên đã tổ chức đều kỳ: Ba năm
hai lần.

Vào năm mở hội thì sau khi khai hạ (Tức hạ cây nêu vào ngày tết vào
mồng 7 tháng giêng âm lịch) cả xã bắt tay vào công việc chuẩn bị. Bảy làng
trong xã phân công nhau và chịu trách nhiệm từng phần việc để tiến hành lễ
hội. Cụ thể nhƣ sau: Bảy làng trong xã phân công nhau và chịu trách nhiệm
từng phần việc để tiến hành lễ hội. Hai làng Thanh Xuân và Trạc Thanh
chuyên lo việc hành quân đƣờng thủy, làng Thanh Xuân đặc trách hai chiếc

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
18


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

thuyền bơi, làng Trạc Thanh bốn chiếc thuyền chèo có tên Giáp, Ất, Bính,
Đinh. Thuyền bơi lƣu giữ tại Đền Quả Sơn, thuyền chèo tại chùa Bà Bụt.
Trƣớc tiên trƣởng thôn hai làng phải kiểm tra lại các thuyền, cho sơn và vẽ lại
đầu rồng ở mũi và đi rồng ở lái. Sau đó họ lên danh sách và duyệt danh
sách thủy thủ.
Năm làng trên bộ là Tập Phúc, Nhân Bồi, Phúc Hậu, Nhân Trung và
Phúc Yên chịu trách nhiệm rƣớc kiệu và xa giá hành quân đƣờng bộ. Ban
chức trách các làng này trƣớc hết phải sửa sang đƣờng liên hƣơng thật phong
quang và đẹp để đón khách xa về dự lễ hội. Riêng các làng có đám rƣớc đi
qua, từ Đền Quả Sơn đến chùa Bà Bụt phải gia công san nền đƣờng cho phẳng
và mịn (Ngày nay thì đã đƣợc dải bê tông), cây cối hai bên đƣờng không đƣợc
để cành lẫn ra đƣờng đi, vƣờn tƣợc cạnh đƣờng phải làm hàng rào cọc tre to
đều và cao khoảng 1,8m , khơng để sót gai phịng khi vƣớng vào phải cờ

(Ngày nay thì nhiều gia đình đã xây tƣờng rào). Gần ngày lễ hội, quan viên
chức sắc xã mở đợt khám đƣờng, có trao giải thƣởng cho làng nào hồn thành
nhiệm vụ xuất sắc. Cơng việc này phải hồn thành trƣớc ngày 14 tháng Giêng.
Việc lớn và quan trọng của năm làng này là lên danh sách rồi tuyển chọn hai
đội tƣợng trƣng cho “Chính binh” và “Dân binh”. Chính binh có tập luyện
thử, chia làm tả quân và hữu quân, có hai ngƣời đứng đầu chỉ huy hai đội tiến
hành lộn quân, tức duyệt binh. Dân binh thì gọi là phù giá, đặc trách cầm cờ,
quạt, tàn, lọng, kéo xe, … hộ tống đám rƣớc. Tất cả mọi thành viên từ thủy
thủ chính binh, dân binh đến cai đội đều khơng có tang trở (Tức là gia đình
khơng có tang để đƣợc sạch sẽ trong ngày rƣớc Đức thánh), khoẻ mạnh và
tràn đầy khí thế khi bƣớc vào lễ hội.
Sáng ngày 17, đƣa trang bị xuống thuyền và kiểm tra đội quân thủy. Đội
chiến thuyền gồm 6 chiếc (2 chiếc thuyền bơi, 4 chiếc thuyền chèo). Các viên
cai mặc võ phục xƣa, đầu đội mũ trụ, chân đi giày, tay cầm cờ lệnh. Các thủy

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
19


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

thủ mặc áo nẹp, đầu quấn khăn xanh, quần nịt xà cạp. Trên 4 chiếc thuyền
chèo còn đặt giá chiêng và giá trống ở mũi và lái. Sau khi tề tựu trên mặt sông
Lam trƣớc cửa đền, đội chiến thuyền chuẩn bị vào cuộc bơi thử có giải
thƣởng. Quan viên chức sắc xã đặt giải. Đây là lần tập dƣợt cuối cùng, thuyền
nào lƣớt nhanh, bơi đẹp, về đích sớm nhất sẽ giật đƣợc giải.

Sáng ngày 18, đến lƣợt đoàn quân bộ tề tựu tại sân đền để nhận sự phân
công cụ thể: kẻ cầm cờ, ngƣời khiêng võng hay kéo xe, rung đạc ngựa hay
đánh trống chiêng hai đội “Chính binh” nhận đủ trang bị nhƣ quần áo vũ khí
và tập dƣợt “Lộn quân” lần cuối.
Ngày 19/01 âm lịch là ngày trồng kiệu, rƣớc tƣợng thánh vào kiệu và
đem vào an vị tại lầu ca vũ để chuẩn bị sáng hôm sau xuất phát. Đêm 19,
phƣờng hát Chầu Văn và nhiều phƣờng bát âm thay nhau túc trực tại lầu ca
vũ, lời ca, tiếng hát, cung đàn nhịp phách xen tiếng tiếu cổ, tiếng trống chầu
vang vọng tận nửa đêm.
Cũng giống nhƣ một số lễ hội khác, lễ hội Đền Quả Sơn có hai phần:
phần lễ và phần hội. Cụ thể nhƣ sau:

1.2.3.1. Hoạt động nghi lễ.
* Lễ Thủy thần Hà Bá.
Lễ thủy thần Hà Bá tổ chức ngày 17 tháng Giêng (Cúng tạ ơn thần sông
ban cho đội thủy binh luyện tập và duyệt binh an toàn). Sau khi làm xong lễ tế
này thì đội quân thủy mới luyện tập. Cùng ngày 17 ở trên bộ, các đội hành lễ
cũng bắt đầu luyện tập (Gồm có: Khẩu lệnh, đội hình …).
* Lễ Cáo Yết và lễ Mộc Dục.
Chiều ngày 19 tháng Giêng, tập trung đầy đủ nhân lực và vật lực. Đêm
19, ban hành lễ tiến hành nhƣ sau: 10 giờ đêm làm lễ cáo yết (Báo với Đức
thánh để tiến hành các phần lễ khác), sau đó làm lễ mộc dục (Tắm rửa tƣợng
các Đức thánh bằng nƣớc ngũ vị hƣơng để chuẩn bị lên tạ ơn Đức Phật Bà).
Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
20


Khóa luận tốt nghiệp


Khoa QLVH - NT

Tiếp tục rƣớc (Tƣợng) các Đức thánh (Gồm: Uy Minh Vƣơng, Đông Chinh
Vƣơng, Dực Thánh Vƣơng) vào kiệu khi lễ mộc dục đã tiến hành xong.
* Lễ Xuất Thần.
Đến 12 giờ đêm của ngày 19 thì làm lễ xuất thần (Lễ xin rƣớc linh thần),
sau đó tiến hành đội quân trên bộ. Tất cả các kiệu Đức thánh tả, hữu (Tức kiệu
Đức thánh Lý Nhật Quang đi ở giữa, cịn kiệu Đơng Chinh Vƣơng và kiệu
Dực Thánh Vƣơng đi hai bên tả hữu), mỗi hƣơng án có bày lễ vật, hƣơng án lễ
vật có 4 ngƣời gánh, 2 ngƣời dự bị đi trƣớc, mỗi hƣơng án đi trƣớc mỗi kiệu.
Kiệu Đức thánh có 16 ngƣời khênh và 16 ngƣời dự bị, các kiệu khác (Kiệu tả
hữu – Đông Chinh và Dực Thánh) mỗi kiệu có 8 ngƣời khênh và 8 ngƣời dự
bị. Có trống đi trƣớc để điều khiển kiệu. Sau mỗi hƣơng án (3 hƣơng án tƣơng
đƣơng với 3 kiệu) có 3 ngƣời đi để chỉ huy những ngƣời khênh kiệu. Sau kiệu
có nhóm ngƣời đội lễ vật và đội nhạc đi hộ tống (Kèn, nao, bạt, xập xẽng,
trống nhỏ, trống to …), có 2 ngựa xe (Gồm ngựa bạch và ngựa tía), mỗi ngựa
có 4 ngƣời chuyên trách, 2 ngƣời kéo, 1 ngƣời đẩy, 1 ngƣời rung chng.
Tổng 2 ngựa xe có tới 8 ngƣời. Tƣơng tự nhƣ ngựa xe, con hạc cũng đƣợc bố
trí nhân lực nhƣ thế; ngựa và hạc đƣợc mặc áo xiêm, đeo nhạc, đạc, có ngƣời
rung. Hạt lúa thần (Tƣởng nhớ công lao của Uy Minh Vƣơng Lý Nhật Quang
trong việc phát triển nông nghiệp ở châu Nghệ An) có 4 ngƣời gánh, 2 ngƣời
dự bị. Đồng tiền cổ mang tên gọi Càn Phù Nguyên Bảo và Minh Đạo Thông
Bảo (Đƣợc đúc vào năm 1042, ngày nay hai loại tiền này đƣợc thờ tại Đền
Quả nhằm tƣởng nhớ công ơn Lý Nhật Quang trong việc mở rộng bn bán,
thƣơng mại) cũng có 4 ngƣời gánh và 2 ngƣời dự bị. Ngựa và hạc đƣợc sắp
xếp gần cung điện hƣớng ra bờ sông. Hai đội quân sĩ lập đứng ngoảnh mặt
vào đền, đƣợc trang phục bằng gƣơm, đao, giáo mũ, cờ hội, tổng có tới 180
ngƣời, mỗi bên 90 ngƣời (Có khi chỉ 120 ngƣời, mỗi bên 60 ngƣời). Dƣới
sơng có 6 thuyền, lính chuẩn bị đứng trƣớc bến và hƣớng mặt vào đền, mỗi


Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
21


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

thuyền cách nhau 6 km. Tất cả đã sẵn sàng tƣ thế để chuẩn bị cho lễ rƣớc Đức
Thánh đi tạ ơn Bà Bụt tại chùa Tiên Tích Tự.
Ngày 20 tháng Giêng, đúng giờ chính Tý, ba hồi chín tiếng trống và
chiêng đại vọng cất lên báo hiệu đám rƣớc sắp bắt đầu. Mọi ngƣời ai vào việc
nấy. Hai đội thủy và bộ về hội tại nơi tập kết đã định để chấn chỉnh đội ngũ,
thống nhất hiệu lệnh, đợi lúc trời rạng sáng. Đội dân binh phù giá rất đông
đảo, trong trang phục chỉnh tề đã đƣợc quy định lần lƣợt dàn lên mặt đƣờng từ
cửa đền đền Động Ngự. Sáu chiếc thuyền rồng xếp hàng ngang trƣớc bến, mũi
quay vào chính điện.
Hai đội chính binh tƣợng trƣng cho hai cánh quân bộ triển khai hình
thành hàng dài bên lầu ca vũ, mặt hƣớng vào chính điện chờ lệnh. Đứng đầu
mỗi đội là viên suất đội, mình mặc võ phục, đầu đội mũ võ quan xƣa, lƣng
đeo kiếm bạc, chân đi hia, giữa cổ đeo một cái tù và bằng sừng sơn dƣơng
nạm bạc, tay cầm chiếc trống tiểu cổ (Trống lệnh). Sau viên suất đội là chính
thị vệ mặc áo lính bằng nỉ đỏ, cạp xanh, lƣng thắt khăn trắng, cầm gƣơm tay
co. Khoảng hơn năm chục đội viên khác đều mặc áo dài đen, đầu bịt khăn
xanh, lƣng thắt khăn đỏ, quần trắng cuốn xà cạp, chia nhau vác giáo, mác,
gƣơm đao, phạng, dùi đồng, côn, bạt xà mâu và nhiều thứ binh khí cổ khác.
Mỗi đội cịn có một ngƣời mang ống loa đồng lớn.

Vào giờ dần, từ trong lầu ca vũ, nơi đặt kiệu long đình, lá cờ “Mao tiết”
và bốn lá cờ “Nghiêm túc” tiến ra giữa sân chỉa lên phía trƣớc ra lệnh duyệt
binh. Ngƣời chỉ huy đứng ở bục cao phát lệnh hô “Bớ ba quân, binh khí sẵn
sàng, cuộc lộn qn bắt đầu”. Tức thì, hiệu trống lệnh từ hai cánh quân dõng
dạc nổi lên. Cánh tả tiến sang phía hữu thành một vịng ngồi, khép kín từ cửa
chính diện đến tam quan. Cùng lúc, cánh hữu tiến sang phía tả. Khởi đầu hai
cánh đều tiến từ từ, sau nhanh dần vòng quanh chu vi tịa đền. Giáo, mác,
gƣơm, phạng, dùi đồng ... nhấp nhơ trên vai, tiếng bƣớc chân rầm rập, tiếng

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
22


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

trống lệnh nhặt khoan, tiếng tung hô vang dội, từ hàng quân cùng với tiếng hò
vang dậy đất của hàng ngàn dân tham dự, náo động cả một góc trời nhƣ làm
sống dậy khí thế hùng tráng xuất quân thuở nào của Lý tƣớng qn. Khi đã
lộn đủ ba vịng thuận thì cánh tả quay ngoắt 180 0 đi vào vòng trong, cánh hữu
cũng quay ngoắt vƣợt ra vịng ngồi tiếp tục lộn ba vịng nghịch mới kết thúc.
Sau đó, cánh qn tả tiến ra cửa tả quan, cánh quân hữu tiến ra cửa hữu quan,
làm thành hai hàng dọc xen vào đội dân binh đang dàn nghi trƣợng dọc đƣờng
gồm: Cờ, lọng, gƣơm, đao dài khoảng 3000 m.
* Lễ Bái Hạ.
Kết thúc duyệt bộ binh, kiệu Đức thánh theo cửa chính ra sân ngoài, dừng
lại chốc lát để quan viên chức sắc cùng nhân dân làng Tập Phúc làm lễ Bái Hạ

(Lạy mừng kiệu Đông Chinh Vƣơng, Dực Thánh Vƣơng và kiệu Uy Minh
Vƣơng Lý Nhật Quang khi đi qua các làng từ Đền Quả Sơn đến chùa Bà Bụt).
Tiếp đến, đám rƣớc trên bộ nhất loạt lên đƣờng hành tiến. Dẫn đầu là hai chục
lá cờ rồng dàn thành hàng đôi, cán dài, màu cờ ngũ sắc tƣơi mới phất phới
trong gió xuân. Tiếp đến là cây cờ đại, lá cờ hình vng, mỗi cạnh độ 3,5 m,
xung quanh có các đƣờng diềm vàng, trắng, đỏ, ngồi có rìa xanh, chính giữa
thêu bốn chữ “Thƣợng thƣợng, đẳng thần” rất lớn. Cột cờ bằng gỗ cao chót
vót cắm giữa một cỗ xe bánh lăn, có 6 ngƣời kéo và đẩy. Sau cây cờ đại là đôi
hạc gỗ, mang bành thêu bằng kim tuyến, cổ đeo lục lạc bằng đồng. Hạc đứng
trên lƣng rùa đặt trên cỗ xe có 4 bánh lăn, có 1 ngƣời kéo, 1 ngƣời đẩy, 1
ngƣời che lọng xanh, 1 ngƣời lắc lục lạc, tổng có 4 ngƣời. Tiếp đến là chiếc
chiêng đồng lớn treo trên giá có bánh xe lăn, 4 ngƣời thay nhau kéo và đẩy, 1
ngƣời cầm dùi điểm nhịp. Tiếp theo là đôi ngựa chiến (Con Bạch và con Tía),
trên lƣng có n Cƣơng, dƣới cổ đeo Đạc đồng cũng đặt trên bánh xe lăn, có
4 ngƣời kéo và đẩy, 1 ngƣời cầm dùi điểm nhịp chân ngựa chiến. Đôi hạc
đồng lớn cũng đƣợc trang bị nhƣ hạc gỗ, có lọng che tiến trƣớc chiếc hƣơng

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
23


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

án lớn chạm trổ tinh vi, sơn son thiếp vàng, phía trên đặt thất sự, ngũ sự, hai
bên che bằng lọng vàng. Tiếp sau hƣơng án là một lá cờ đại, có cột cao đặt
trên xe có bánh lăn, lá cờ bằng chỉ đỏ dày, viền chỉ vàng, hai mặt nổi lên hai

câu “Bảo quốc hộ dân” và “Tham thiên tỏa hóa”. Chiếc sập ngự có hậu bành,
trên đặt đài trản và các đồ ngũ sự, thất sự do 8 ngƣời khiêng và 4 ngƣời luân
phiên nhau cầm 2 cây tàn che sập ngự tiến sát kiệu là lá cờ “Mao tiết” kèm
theo hai bên có 2 lá cờ “Khâm sai”. Cây tàn chính ngự lộng lẫy xuất hiện
trƣớc kiệu rồng. Ngƣời cầm cây tàn phải cƣờng tráng, dùng một vải đỏ quàng
vào cổ, dƣới có treo một cái ống có một đầu bịt kín, cán tàn cắm vào đó, hai
tay đỡ lấy cán cho tàn thẳng đứng. Kiệu long đình cao lồ lộ chạm trổ rồng
phƣợng, sơn son thiếp vàng. Di tƣợng Đức Thánh mặc áo bào đặt trong kiệu ở
tƣ thế ngồi. Đội thị vệ gồm có 15 ngƣời thay nhau khiêng kiệu. Xung quanh
kiệu là tàn vàng, quạt tía vây kín. Sau kiệu là 2 chiếc cánh võng điều, đòn
chạm rồng phủ mui, trên mỗi cáng đặt 1 chiếc tráp sơn son có họa tiết tinh vi.
Trên đây là hàng chính giữa của đám rƣớc thần, còn hai bên: kể từ đầu
đến cuối là 2 binh đội đã tham gia “Lộn quân” (Duyệt binh) dàn thành 2 hàng
với đầy đủ khí giới trong tay, hộ vệ đám rƣớc. Xen giữa 2 hàng quân là một
rừng cờ: Cờ kéo, cờ vuông, cờ đuôi nheo … đủ màu sắc rực rỡ phất phất suốt
chiều dài đám rƣớc.
Đƣờng hành lễ từ Đền Quả Sơn đến chùa Bà Bụt dài khoảng 3 km. Khi
đi qua các đình làng Thanh Xuân, Nhân Bồi, Phúc Hậu, Nhân Trung, Trạc
Thanh, kiệu Đức Thánh đều dừng lại chốc lát để quan viên chức sắc và dân
các làng đó làm lễ bái tạ. Vì ở xa, làng Phúc Yên thiết lễ ngay tại đoạn đƣờng
rẽ vào chùa (Các làng này đều nằm trên trục đƣờng chính của đám rƣớc tính
từ Đền Quả Sơn cho đến chùa Bà Bụt, còn những làng khác trong xã không
nằm trên trục đƣờng mà đám rƣớc đi qua thì chỉ thờ vọng Đức thánh và Phật

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
24



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa QLVH - NT

Bà ở từng nhà). Lần kiệu dừng lại lâu nhất là tại Động Đỏ (Cịn gọi là động
Ngự, vì xƣa Ngài ngự tại đây để duyệt binh nên mới có tên gọi này).
Lại nói về đội thủy quân đang dàn quân chờ ở cửa sông trƣớc bến Đền
Quả Sơn. Sau khi đội bộ binh đã duyệt xong, cờ Mao Tiết, cờ Khâm Sai, võng
điều dàn ra hai bên, kiệu Long Đình ngoảnh mặt ra sông lúc ánh nắng ban mai
nhuỗm màu hồng dịu đã toả khắp dòng Lam biếc. Đội thủy binh cũng bắt đầu
duyệt binh, 6 chiếc thuyền rồng (2 thuyền bơi, 4 thuyền chèo) rẽ sóng xếp
hàng một hƣớng lên kiệu. Tiếng loa vang, chiêng trống lớn nhỏ, trên bờ dƣới
sông hối thúc giục giã. Ngƣời chỉ huy dƣới thủy cũng đồng thời phát lệnh:
“Bớ ba quân, binh khí sẵn sàng, cuộc lộn quân bắt đầu!”. Thế là thuyền tách ra
hai đội hình đi vịng bán kính lịng sơng khoảng 400 m, dàn quanh đền. Đội
thuyền chiến triển khai theo kế hoạch đã định quay vịng trên qng sơng rộng
3 vịng thuận, 3 vòng nghịch ngƣợc chiều nhau. Sáu chiếc thuyền đua nhau
lƣớt trên mặt nƣớc từ chậm đến nhanh.
* Lễ Tạ Ơn.
Khoảng đầu giờ Ngọ thì hai đồn thủy bộ đều cùng một lúc đến chùa Bà
Bụt. Đội thuyền rồng quay mũi vào Bến Chùa. Đội quân bộ dàn xung quanh
chu vi chùa đền. Kiệu Long Đình vào hẳn trong sân, quay mặt vào chùa.
Chiêng, trống, nao, bạt, các nhạc khí của phƣờng bát âm đồng nhịp ngân vang
trong giờ phút thiêng liêng của Lễ Tạ Ơn (Tạ ơn Phật Bà Bụt) đã chỉ đất huyết
thực cho Đức Thánh Nhật Quang ở địa phận Bạch Đƣờng rất nghiêm túc,
trang trọng.
Sau lễ Tạ Ơn Bà Bụt, kiệu Đức Thánh về nghỉ qua đêm tại hành cung
đƣợc chong đèn kết hoa lộng lẫy. Cờ xí, ngựa xe, tàn quạt hoặc cắm xung
quanh hành cung, hoặc đƣa về nơi cất đặt đã định trƣớc. Cả buổi chiều của
ngày 20, trên sân, dƣới Bến Chùa hội tụ hàng vạn ngƣời dự lễ hội và diễn ra

các cuộc thi biểu diễn những trò chơi dân gian đầy hấp dẫn nhƣ: Đánh đu, đấu

Sinh viên : Nguyễn Danh Hiếu

Lớp : QLVH 10A
25


×