Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
Lời cảm ơn!
Để hoàn thành để tài nghiên cứu khoa học này em xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới các thầy, cô trong khoa Quản lí văn hóa, trường Đai học văn hóa Hà
Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức, tạo điều kiện để em có thể hoàn thành đề tài
nghiên cứu khoa học này.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô Trần Thị Thục Quyên -
giảng viên trường đại học Vă hóa Hà Nội. Trong suốt quá trình thực hiện đề tài
em luôn nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của cô, giúp em hoàn
thành tốt đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Vũ Thị Kiều
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
1
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
MỤC LỤC
Chương 3 31
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QỦA CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ QUẢN
LÝ LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG NHƯ XUYÊN, XÃ ĐỒNG QUÝ, 31
HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG 31
PHỤ LỤC 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lễ hội truyền thống là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa phi vật
thể của dân tộc Việt Nam và là một hiện tượng có tính chất tổng hợp chứa đựng
trong nó cả tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán, diễn xướng dân gian và
văn nghệ dân gian. Bên cạnh đó, Giáo sư Trần Quốc Vượng trong Văn hóa Việt
Nam tìm tòi và suy ngẫm thì “Lễ hội còn là một sản phẩm và biểu hiện của một
nền văn hóa”.
Ngày nay, lễ hội đang được tổ chức ngày càng nhiều để đáp ứng những
đòi hỏi trong đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần của mọi người dân. Việc
tham dự các lễ hội truyền thống là nhu cầu không thể thiếu được của nhân dân
nhằm thỏa mãn khát vọng hướng về cội nguồn, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm
linh cũng như nhu cầu giao lưu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, góp phần tạo
nên sự đa dạng của văn hóa. Lễ hội truyền thống tồn tại đến hôm nay đều là kết
quả của quá trình tiếp biến văn hóa lâu dài. Quá trình tiếp biến ấy khiến cho lễ
hội luôn mang dáng vẻ của thời đại mà vẫn không mất đi diện mạo ban đầu, cái
cấu trúc hai mảng lễ và hội của nó.
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
2
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
Hiện nay, người dân đã có khả năng và điều kiện làm chủ bản thân thì
niềm tin vào sự linh thiêng của thần thánh chuyển hóa dần nhường chỗ cho
những tình cảm thiêng liêng nhớ về cội nguồn, lòng tôn kính và biết ơn tổ tiên,
tình yêu và niềm tự hào về quê hương đất nước trở thành cảm hứng chủ đạo của
lễ hội truyền thống. Vì vậy, chức năng tín ngưỡng của lễ hội có phần giảm thiểu,
chức năng vui chơi, giải trí của phần hội được tăng lên. Các trò chơi dân gian,
những làn điệu dân ca, dân vũ được khai thác thu hút đông đảo các tầng lớp
nhân dân tham gia.
Vấn đề đặt ra là công tác tổ chức và quản lý đã phù hợp với truyền thống
văn hóa dân tộc, phong tục tập quán địa phương cũng như giữ gìn, phát huy
được các giá trị văn hóa truyền thống và giải quyết tốt những vấn đề phát sinh
trong khi lễ hội diễn ra chưa. Do đó, cần phải nghiên cứu, tìm hiểu về công tác
tổ chức và quản lý lễ hội để góp phần làm phong phú thêm kho di sản văn hóa
Việt Nam trong thời hiện nay.
Bản thân tôi là một người con được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất
Tuyên Quang – một tỉnh thuộc miền núi phía Bắc của Tổ quốc với bề dày lịch
sử và có nhiều nét văn hóa đặc sắc. Hơn nữa, tôi là một người học tập – nghiên
cứu về văn hóa nên tôi nhận thấy vấn đề nghiên cứu và tìm hiểu về lễ hội truyền
thống ở địa phương mình là một việc làm cần thiết để góp phần nâng cao chất
lượng tổ chức lễ hội cũng như bảo lưu và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc.
Trên cơ sở những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Công tác tổ chức
và quản lý lễ hội đình làng Như Xuyên, xã Đồng Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Công tác tổ chức và quản lý lễ hội đình làng Như Xuyên, xã Đồng Quý,
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
3
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
2.2. Phạm vi nghiên cứu.
Lễ hội đình làng Như Xuyên, xã Đồng Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang từ năm 1945 đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu lễ hội đình làng Như Xuyên nhằm cung cấp một số thông tin
về cơ sở ra đời, quá trình hình thành, những đặc điểm cũng như tìm ra những giá
trị tiêu biểu và thực trạng của công tác tổ chức và quản lý lễ hôi. Từ đó, đề xuất
một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và quản lý lễ hội đình
làng Như Xuyên, xã Đồng Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
- Quan sát
- Phỏng vấn
- Nghiên cứu tài liệu
- Phân tích
5. Đóng góp của đề tài (ý nghĩa thực tiễn).
Đóng góp về tư liệu nghiên cứu: Đề tài góp phần là một nguồn tư liệu, dẫn
chứng để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ứng
xử trong lễ hội nói riêng. Đồng thời, làm phong phú và đa dạng thêm cho kho
tàng tư liệu văn hóa dân tộc về các lễ hội.
Các giải pháp đề xuất trong nghiên cứu góp phần nâng cao hiệu quả công
tác tổ chức và quản lý lễ hội trong thời gian tới.
6. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục đề tài có bố
cục gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về quản lý lễ hội truyền thống đình làng Như
Xuyên, xã Đồng Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
4
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức và quản lý lễ hội đình làng Như
Xuyên, xã Đồng Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và quản
lý lễ hội đình làng Như Xuyên, xã Đồng Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên
Quang
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LỄ HỘI VÀ LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG
NHƯ XUYÊN, XÃ ĐỒNG QUÝ, HUYỆN SƠN DƯƠNG,
TỈNH TUYÊN QUANG
1.1. Lễ hội truyền thống và quản lý lễ hội truyền thống
1.1.1. Khái niệm lễ hội truyền thống
Lễ hội là một từ ghép và có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo từ nguyên, lễ hội là sự kết hợp của hai từ Hán – Việt là lễ và hội. Do
đó, lễ hội gồm hai phần là lễ và hội.
Theo Đào Duy Anh trong cuốn Hán Việt từ điển thì lễ là “cách bày tỏ
kính ý hoặc đồ vật để bày tỏ kính ý”.
Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam thì cho rằng: “Lễ
hội là hệ thống phân bố theo không gian: vào mùa xuân và mùa thu, khi công
việc đồng áng rảnh rỗi nhất, lễ hội diễn ra liên tiếp hết chỗ này đến chỗ khác,
mỗi vùng có lễ hội của riêng mình. Lễ hội có phần lễ và phần hội: Phần lễ mang
ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình. Phần hội
gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn gốc, phần lớn các
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
5
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông
nghiệp”.
Bên cạnh lễ, hội có nghĩa là cuộc vui được tổ chức cho đông đảo người
tham dự theo phong tục hoặc dịp đặc biệt.
GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Lễ là một hiện tượng tổng thể, không
phải là thực thể chia đôi (phần lễ và phần hội) một cách tách biệt như một số học
giả đã quan niệm mà nó được hình thành trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ tín
ngưỡng nào đó (thường là tôn thờ một vị thần linh lịch sử hay một vị thần linh
nghề nghiệp nào đó) rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng sinh hoạt văn
hóa, phái sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội. Cho nên trong lễ hội, phần lễ là
phần gốc rễ, chủ đạo, phần hội là phần phái sinh tích hợp”.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam có nhiều cách trình bày
định nghĩa lễ hội như trong Từ điển bách khoa Việt Nam (2005) có viết: Lễ là hệ
thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với
thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống
mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện, còn hội là sinh hoạt văn hóa, tôn
giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và
phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia
đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu
của mùa màng mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ
“Nhân khang, vật thịnh”.
Trong cuốn Văn hóa học xuất bản năm 1997, Đoàn Văn Chúc còn cho
rằng:
“Lễ (cuộc lễ) là sự bày tỏ kính ý đối với một sự kiện xã hội, hay tự nhiên, tư
tưởng hay có thật, đã qua hay hiện tại được thực hiện theo nghi điển rộng lớn,
mức độ rộng lớn, tùy thuộc cấp nhóm xã hội có nhiệm vụ cử hành, nhằm biểu
hiện giá trị của đối tượng được cử lễ. Hội là cuộc vui chơi bằng vô số hoạt động
giải trí công cộng, diễn ra tại một địa điểm nhất định vào dịp cuộc lễ kỷ niệm
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
6
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
một sự kiện tự nhiên xã hội, nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan hỉ của công
chúng dự lễ.
Ở khía cạnh dân gian, trong cuốn Folklore một số thuật ngữ đương đại,
Ngô Đức Thịnh và Frank Proscha đưa ra định nghĩa “Lễ hội là một hoạt động kỷ
niệm định kỳ biểu thị thế giới quan của một nền văn hóa hay nhóm xã hội thông
qua hành lễ, diễn xướng , nghi lễ và trò chơi truyền thống”.
Như vậy, lễ hội là hoạt động của một tập thể người liên quan đến tín
ngưỡng và tôn giáo. Lễ hội bao gồm hai thành tố là lễ và hội kết hợp giữa tín
ngưỡng và vui chơi, giữa con người và thần linh, giữa thế giới âm và dương để
thông qua đó, con người có thể bày tỏ niềm mong ước của mình vào các vị thần
linh trên trời. Đồng thời, thỏa mãn khát vọng trở về cội nguồn và đáp ứng nhu
cầu văn hóa tâm linh cũng như nhu cầu giao lưu trong sinh hoạt văn hóa cộng
đồng.
Trước đây, con người chưa có đủ khả năng chinh phục, chế ngự và làm
chủ thiên nhiên cũng như làm chủ xã hội nên bị bất lực và chi phối bởi những
thiên tai bất trắc, may rủi hay bất công do thiên nhiên hay con người gây nên. Vì
thế, thần linh là nơi họ đặt niềm tin vào đó như: thần linh trời đất, thần linh núi
sông Vậy nên, xưa kia có nhiều làng xã đã xây dựng đình, miếu để thờ các vị
thần linh tại địa phương và thường tổ chức lễ hội tại những nơi đó, nhằm thể
hiện sự biết ơn đối với các vị thần linh đã ban cho người dân nơi đó sức khỏe,
mùa màng bội thu, vật nuôi sinh sôi phát triển. Hơn thế nữa, họ còn cầu mong
các vị thần tiếp tục che chở, bảo vệ và ban phúc lành may mắn, thịnh vượng cho
họ. Các lễ hội truyền thống thể hiện rõ nhất điều này. Trong lễ hội truyền thống
có sự tác động và ảnh hưởng của yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng. Tôn giáo thông
qua lễ hội làm phương tiện phô trương thanh thế, ngược lại lễ hội thông qua tôn
giáo, tín ngưỡng để thần linh hóa trần tục.
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
7
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
Liên quan đến khái niệm “Lễ hội truyền thống” còn có khái niệm “Lễ hội
cổ truyền” dùng với nghĩa gần như tương đương với nhau. Truyền thống hay cổ
truyền thật ra chỉ là hai thuật ngữ Hán – Việt dùng để nói về cùng một đối
tượng.
Lễ hội truyền thống là một bộ phận những giá trị tốt đẹp trong lễ hội cổ
truyền của dân tộc được các thế hệ sau nối tiếp các thế hệ trước tái tạo và khẳng
định để bảo tồn và phát huy theo hướng tích cực trong đời sống xã hội. Như vậy,
lễ hội truyền thống được coi như là một thành tố quan trọng cấu thành nên hình
thái sinh hoạt văn hóa lịch sử tương ứng với những mô hình xã hội được tổ chức
theo những giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong Hán – Việt Từ điển bách khoa,
Đào Duy Anh đã định nghĩa truyền thống như sau: “Thống gồm có nghĩa là mối
tỏ, đường mối, đầu gốc; còn truyền là trao lại, trao cho và chúng luôn đi liền với
nhau mang ý nghĩa “Đời nọ truyền xuống đời kia”.
Ngoài “Lễ hội truyền thống” và “Lễ hội cổ truyền” còn có “Lễ hội dân
gian” là lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần của các xã hội truyền thống. Xã
hội truyền thống có thể hiểu là những tập hợp người được tổ chức bởi các đơn vị
“cộng đồng”, dựa trên ưu thế của tính chất “cộng đồng”. Hơn nữa, xã hội truyền
thống là các cộng đồng thị tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc, các xã hội truyền thống
là các cộng đồng thị tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc, các xã hội tiền công nghiệp
tồn tại trước khi hình thành những dân tộc quốc gia. Từ đó có thể thấy, “Lễ hội
truyền thống”, “Lễ hội cổ truyền” hay “Lễ hội dân gian” là đồng nhất với nhau
nói về lễ hội trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân xưa và nay.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về lễ hội truyền thống, tùy thuộc vào các
tác giả tiếp cận ở khía cạnh nào theo phương thức nào. Tuy nhiên, các nhà
nghiên cứu văn hóa đều cho rằng lễ hội truyền thống là hình thái văn hóa có tính
chất hai mặt trong một chỉnh thể thống nhất. Lễ hội truyền thống là một hệ
thống hành vi nghi thức biểu đạt thế ứng xử của cộng đồng hướng tới một đối
tượng thần linh nhất định và những hoạt động văn hóa để minh họa cho các hành
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
8
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
vi nghi lễ. Lễ càng thiêng thì hội càng đông, hội càng đông thì lễ càng thiêng.
Mặc dù vậy, khi đứng ở góc độ quản lý văn hóa để tiếp cận và tìm hiểu về lễ hội
thì tất cả các yếu tố của lễ hội sẽ được quan tâm để nhằm bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống dân gian của dân tộc, đồng thời tái sáng tạo
những giá trị văn hóa bác học dựa trên những yếu tố dân gian. Có thể nói quản
lý văn hóa quan tâm đến việc bảo tồn, phát huy và khai thác những vốn văn hóa
truyền thống cùng với sự tái sáng tạo để làm nên những lễ hội truyền thống
mang đúng nghĩa của nó, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của
mọi người dân.
Lễ hội truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến của
cộng đồng cư dân nông nghiệp nước ta. Tính nguyên hợp của lễ hội thể hiện ở
chỗ lễ hội vừa là hoạt động tín ngưỡng thờ cúng các vị thần linh, vừa là hoạt
động vui chơi giải trí, là sinh hoạt văn hóa tinh thần gắn bó trực tiếp với hoạt
động sản xuất vật chất.
Như vậy, có thể hiểu: Lễ hội truyền thống là lễ hội được sáng tạo và lưu
truyền theo phương thức dân gian, được hình thành trong các hình thái văn hóa
lịch sử, được truyền lại trong các cộng đồng nông nghiệp với tư cách như một
phong tục tập quán.
1.1.2. Quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và
phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến
phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải thừa nhận, chịu một
sự quản lý nào đó. Như vậy, quản lý là một khái niệm được sử dụng rộng rãi
trong các lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, luật học, điều khiển học Vì thế, các
nhà nghiên cứu ở từng lĩnh vực đã đưa ra những quan niệm khác nhau về quản
lý.
Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người.
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
9
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
Theo nghĩa hẹp, quản lý là sự sắp đặt, chăm nom công việc.
Ngoài ra còn có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quản lý:
- Quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người
kết hợp với nhau trong các nhóm, tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung.
- Quản lý là quá trình cùng làm việc và thông qua các cá nhân, các nhóm
cũng như các nguồn lực khác để hoàn thành các mục đích chung của một nhóm
người, một tổ chức.
- Quản lý là một nghệ thuật đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc
điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của những người khác.
- Quản lý là biết chính xác điều mình muốn người khác làm và sau đó
thấy được rằng, họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
- Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - nxb Đà Nẵng năm 2002) thì
quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động hoặc trông coi và giữ gìn theo
những yêu cầu nhất định.
- Theo điều khiển học thì: Quản lý là sự điều khiển, định hướng, chỉ đạo
một hệ thống hay một quá trình căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên
tắc, luật định tương ứng để cho quá trình ấy vận động theo ý muốn của người
quản lý nhằm đạt được mục đích đã định trước.
Như vậy, một cách tổng quát nhất có thể định nghĩa về quản lý theo Mai
Hữu Luân trong cuốn Lý luận quản lý hành chính nhà nước (2003) như sau:
“Quản lý là hoạt động nhằm tác động có tổ chức của chủ thể vào một đối tượng
nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của con người nhằm
duy trì sự ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục đích nhất định”.
Hay “Quản lý là sự tác động của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm đạt mục
tiêu đề ra”.
Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà
nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
10
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
năng đối nội, đối ngoại của nhà nước. Tất cả các cơ quan nhà nước đều làm chức
năng quản lý nhà nước. Bằng chính sách và pháp luật Nhà nước trao cho các tổ
chức hoặc cá nhân để họ thay mặt Nhà nước tiến hành hoạt động quản lý nhà
nước.
Quản lý nhà nước về văn hóa là hoạt động của bộ máy nhà nước trong
lĩnh vực hành pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhà
nước với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, đại diện cho
nhân dân, đảm bảo cho mọi người dân đều được thực hiện các quyền cơ bản của
mình, trong đó có các quyền về văn hóa như: quyền học tập, sáng tạo, phê bình
văn hóa nghệ thuật, tự do sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng Nhà nước có trách
nhiệm điều tiết để đảm bảo sự hài hòa giữa các thành tố văn hóa, điều tiết lợi ích
văn hóa của các giai tầng, các yêu cầu phát triển và thỏa mãn nhu cầu văn hóa
của toàn xã hội.
Ở Trung ương, các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về văn hóa là
Chính Phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Chính Phủ thống nhất quản lý
và phát triển sự nghiệp văn hóa – nghệ thuật trên cả nước. Thi hành các biện
pháp để bảo tồn và phát triển văn hóa, chống các hiện tượng, hành vi truyền bá
tư tưởng văn hóa phản động, đồi trụy, các hủ tục mê tín dị đoan. Chính Phủ và
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình các dự án, pháp lệnh về tổ chức hoạt
động và quản lý văn hóa, quyết định quy hoạch, kế hoạch xây dựng và phát triển
văn hóa. Ban hành các nghị định, chế tài quản lý, quyết định các chính sách, đầu
tư, tài trợ, hợp tác với nước ngoài về việc tổ chức hoạt động phát triển văn hóa.
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính pháp chế nhà nước ở các địa
phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa ở địa phương mình
theo quy định của pháp luật. Các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trực thuộc
tỉnh, thành phố, các Phòng Văn hóa Thông tin cấp huyện, các Ban Văn hóa các
xã, phường, thị trấn là cơ quan chuyên môn trực tiếp tham mưu tư vấn giúp Ủy
ban nhân dân các cấp quản lý văn hóa ở địa phương mình.
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
11
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
Nhà nước tiến hành quản lý văn hóa bằng chính sách và pháp luật về văn
hóa. Chính sách pháp luật về văn hóa được hiểu là những nguyên tắc thực hiện
tư tưởng chủ đạo của Nhà nước về chủ trương đường lối, phương hướng xây
dựng và phát triển nền văn hóa phù hợp với mục tiêu phát triển chung của đất
nước. Song song với việc tiến hành các chính sách về văn hóa, để quản lý văn
hóa, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật về văn hóa nhằm
phát huy tác dụng của văn hóa đối với việc hình thành nhân cách, nâng cao chất
lượng đời sống tinh thần của con người, chế ước những ảnh hưởng tiêu cực, loại
bỏ những hủ tục lạc hậu. Quản lý văn hóa bằng pháp luật là một yêu cầu mang
tính tất yếu khách quan. Cùng với việc banh hành các văn bản pháp luật, Nhà
nước tạo ra một hành lang pháp lý an toàn, rộng mở cho việc bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc. Quản lý lễ hội là một lĩnh vực cụ thể trong ngành
văn hóa.
Theo tác giả Bùi Hoài Sơn thì: “Quản lý lễ hội là công việc của Nhà nước
được thực hiện thông qua việc ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra và giám sát
việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lễ hội truyền thống nhằm
mục đích bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội được cộng đồng
coi trọng, đồng thời góp phần phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương nói
riêng, của cả nước nói chung”.
Tác giả Phạm Thanh Quy lại cho rằng: “Quản lý lễ hội bao gồm quản lý
nhà nước và những hình thức quản lý khác đối với các hoạt động lễ hội. Quản lý
lễ hội nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển được hiểu là sự tổ chức, huy động
các nguồn lực. Nói cách khác thì quản lý lễ hội nhằm các mục tiêu lợi ích công
cộng, mục tiêu lợi nhuận hoặc xu hướng phát triển đất nước”.
Tóm lại, quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội nói chung, lễ hội
truyền thống nói riêng được hiểu là quá trình sử dụng các công cụ quản lý: chính
sách, pháp luật, các nghị định, chế tài, tổ chức bộ máy vận hành và các nguồn
lực để kiểm soát, can thiệp vào các hoạt động của lễ hội bằng các phương thức
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
12
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm duy trì việc thực hiện hệ
thống chính sách, hệ thống các văn bản pháp quy, chế tài của Nhà nước đã ban
hành. Quản lý lễ hội là một quá trình thực hiện bốn công đoạn: xác định nội
dung và phương thức tổ chức; xây dựng kế hoạch; tổ chức chỉ đạo thực hiện và
kiểm tra, giám sát việc thực hiện; tổng kết, đúc kết kinh nghiệm.
Cơ sở pháp lý của việc thực thi công tác quản lý nhà nước về lễ hội truyền
thống là dựa trên hệ thống các chính sách và pháp luật hiện hành của Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật pháp và văn bản mang tính pháp quy nêu trên đã thể hiện rõ mục tiêu
của quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội truyền thống là duy trì và thực
hiện nghiêm minh các điều khoản đã được ghi trong luật và các văn bản pháp
quy – nghị định – chế tài, các văn bản liên quan.
Theo quy định hiện hành, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách
nhiệm cấp phép, kiểm tra, giám sát hoạt động lễ hội. Đồng thời, phối hợp cùng
các cơ quan chức năng như: công an, quản lý thị trường, môi trường giao thông,
y tế xử lý sai phạm trong lễ hội. Việc chịu trách nhiệm quản lý nhà nước nói
chung thuộc chính quyền sở tại, nhưng được phân chia trách nhiệm cụ thể cho
các đơn vị chức năng thuộc cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Do đó, công
tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm tùy từng vụ việc mà có những cơ quan
chức năng chịu trách nhiệm giải quyết.
1.2. Lễ hội truyền thống đình làng Như Xuyên, xã Đồng Quý, huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang
1.2.1. Quá trình hình thành lễ hội đình làng Như Xuyên
- Sự tích của hội:
Theo lời kể của bà Trần Thị Chi – Tổ trưởng Tổ Văn nghệ xã Đồng Quý
và ông Lý Ngọc Hội – Bí Thư chi bộ thôn Như Xuyên, xã Đồng Quý, huyện
Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang: Cách đây khoảng hơn 100 năm có một nhóm
người di cư từ phía Bắc Trung Quốc đến vùng đất này để khai hoang lập nghiệp
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
13
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
và định cư ở đây. Lúc đó, vùng đất này vẫn chỉ là vùng đất bỏ hoang. Sau đó,
khi có sự quản lý của nhà nước đối với vùng đất này thì nó được gọi là Như
Xuyên thuộc xã Đồng Quý, huyện sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trong quá
trình khai hoang lập nghiệp họ đã gặp rất nhiều khó khăn, cuộc sống không mấy
thuận lợi, mùa màng liên tục bị thất thu, vật nuôi hay bị dịch bệnh. Tại nơi đây,
trên một khu đất bằng phẳng có đến bốn cây Đa to lớn nhưng lại có một cây mọc
ngược rất kỳ quái, những người dân ở đây cho rằng có thần linh ở vùng đất này,
nếu muốn định cư và lập nghiệp được thì phải lập đền thờ thần linh. Do đó, họ
đã bàn nhau và thống nhất lập đình thờ thần linh tại khu vực bốn cây Đa vào
năm 1938 và tổ chức rước ba vị vua là Lịch Sơn, U Sơn, Út Sơn từ Đền Hùng
(Phú Thọ) về thờ. Từ đó, cuộc sống của những người dân nơi đây luôn gặp may
mắn, con người mạnh khỏe, mùa màng bội thu, chăn nuôi phát triển. Để tỏ lòng
biết ơn các vị thần linh, hàng năm, họ tổ chức dâng lễ vật lên để cúng tạ ơn các
vị thần linh và cầu mong cho nhân khang, vật thịnh, mưa thuận gió hòa, mùa
màng bội thu.
- Không gian của hội:
Quần thể di tích của hội gồm có khu vực đình làng với một mái đình và
bốn cây đa cổ thụ nhưng hiện nay chỉ còn hai cây. Đây là khu vực cử hành lễ tạ
ơn các vị thần linh và cầu mong đạt được ước vọng của người dân; Cách đình
khoảng 100m lên phía trên là một cái hồ lớn nằm uốn lượn giữa hai dãy núi cao
đồ sộ. Khu vực này để tổ chức phần hội sau khi tiến hành xong phần lễ. Đình
làng nằm ngay dưới chân dòng nước chảy của hồ tạo thành một hệ thống nối
liền nhau rất đẹp. Đến đây du khách được thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt văn hóa
tâm linh nơi đình làng và hòa mình vào tất cả các trò chơi dân gian tại khu vực
hồ và xung quanh hồ như: Du thuyền trên hồ, đi bộ quanh hồ ngắm cảnh núi non
hung vĩ, leo núi thưởng thức những đặc sản thiên nhiên nơi đây như chuối rừng,
sung, sẹ mo từ trên đỉnh núi còn có dòng nước chảy róc rách tạo thành một
dòng suối giữa núi chảy xuống hồ, du khách có thể men theo dòng nước để ngồi
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
14
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
nghỉ trên những tảng đá bằng phẳng và to lớn rồi vui đùa trong nước, tận hưởng
bóng mát của những cây cổ thụ và tắm mình vào sự trong xanh và mát lạnh của
dòng nước. Nơi đây thật sự là một điểm du lịch lý tưởng cho những ai yêu thiên
nhiên và thích khám phá.
1.2.2. Quá trình phát triển của lễ hội đình làng Như Xuyên
Quá trình phát triển của lễ hội đình làng Như Xuyên gắn lền với sự hình
thành và phát triển của đình làng và được chia làm 3 giai đoạn như sau:
- Giai đoạn từ năm 1938 – 1945:
Đây là thời kỳ đình làng mới được xây dựng và khá phát triển với những
đồ vật bằng đồng, sơn son thiếp vàng, những đồ vật được trạm trổ trông như
“Rồng múa, phượng bay” bên ngoài đình là bốn cây đa cổ thụ đã tồn tại hàng
nghìn năm còn nguyên vẹn. Từ khi đình được xây dựng xong thì hàng năm
người dân tổ chức đầy đủ bốn lần cúng lễ vào các ngày: Mùng 06 tháng giêng,
13/5, 14/7, 6/12 tính theo âm lịch nhưng chỉ có dịp mùng 06 tháng giêng là tổ
chức thành lễ hội lớn còn những ngày kia vẫn dâng lễ vật cúng tế như ngày
mùng 06 tháng giêng song không tổ chức hội vui chơi mà chỉ làm lễ cúng tế.
Nhìn chung lễ hội giai đoạn này rất phát triển và giữ nguyên được tính nguyên
sơ của nó.
- Giai đoạn từ năm 1945 – 1988:
Đây là thời kỳ có chiến tranh và nạn đói năm 1945 làm cho những người
dân phải sơ tán, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn và không có khả năng duy
trì việc tổ chức lễ hội hàng năm nữa, đình cũng bị xuống cấp do không được
trùng tu. Mặc dù bị chiến tranh song mái đình không hề bị bom đạn và những đồ
vật trong đình còn nguyên vẹn, đình chỉ bị xuống cấp do bị nắng mưa lâu ngày
mà không có ai trông nom, tu sửa. Trong suốt một thời gian dài, lễ hội đình làng
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
15
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
Như xuyên không được tổ chức và mái đình gần như bị mục nát và bỏ hoang. Vì
vậy, lễ hội đình làng Như Xuyên có sự đứt gãy trong quá trình phát triển.
- Giai đoạn từ năm 1988 đến nay:
Trong giai đoạn này là thời kỳ khôi phục và tạo dựng lại đình và lễ hội
đình làng Như Xuyên. Tuy nhiên, ngôi đình không còn nguyên sơ như trước
nữa, do bỏ hoang nhiều năm nên đình gần như là không còn, đồ vật thờ cúng
trong đình bị mất hết; Bốn cây đa cổ thụ nay chỉ còn lại hai cây, một phần do
thời tiết và do già cỗi, một phần do những người dân gần đó không có hiểu biết
nên đã chặt bán để kiếm lời. Chính những khó khăn trong cuộc sống đã làm một
số những người dân thiếu hiểu biết làm mất đi những giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Suốt thời gian này, đình làng và lễ hội hầu như vẫn chưa
được phục dựng lại, dù có được khôi phục lại chỉ 1- 2 năm lại không tổ chức
được nữa. Bởi vì, chính quyền địa phương không quan tâm cùng người dân tổ
chức mà tất cả chỉ là do những người dân trong làng tự tổ chức. Nhưng cuộc
sống của những người dân làng Như Xuyên lại rơi vào tình trạng khó khăn, mùa
màng liên tục bị mất mùa, hầu như không thuận lợi. Do đó, đến năm 2008, họ đã
tổ chức khôi phục lại đình và phục dựng lại lễ hội theo nghi lễ xưa kia. Từ đó,
cuộc sống của họ được bình yên, ấm no, hạnh phúc và thuận lợi. Hiện nay, lễ hội
vẫn tồn tại và được tổ chưc hàng năm thu hút đông đảo nhân dân trong và ngoài
xã tham gia.
1.2.3. Nội dung và ý nghĩa của lễ hội đình làng Như Xuyên
1.2.3.1. Nội dung lễ hội đình làng Như Xuyên
Lễ hội đình làng Như Xuyên cũng giống như những lễ hội truyền thống
khác gồm hai phần là lễ và hội, mang những nét đặc trưng của các lễ hội truyền
thống của cư dân Bắc Bộ. Giống như những lễ hội ở các vùng khác Lễ hội đình
làng Như Xuyên gắn liền với các di tích lịch sử - văn hóa là ngôi đình làng và
tín ngưỡng nông nghiệp, tín ngưỡng thờ thành hoàng. Hàng năm vào mùng 06
Tết âm lịch, lễ hội đình làng Như Xuyên lại được tổ chức trong không khí tưng
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
16
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
bừng, nô nức của mọi nguời dân nơi đây. Thông qua phần lễ được tổ chức tại
đình làng với các nghi lễ tâm linh, thể hiện sự tôn kính của nhân dân với các vị
Vương tổ của người Cao Lan, với Thành Hoàng làng và các vị thần, cầu cho một
năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân dân được mạnh khỏe,
bình yên, no ấm. Để tỏ lòng biết ơn các vị thần linh những người dân nơi đây
dâng lễ vật cúng tế gồm có: lợn, gà, xôi, oản, hoa quả
Phần hội được tổ chức tại sân đình, trên bờ và dưới mặt nước hồ Như
Xuyên với các tiết mục diễn xướng dân gian: múa trống sành, tra mộ nương, giã
cốm và các tiết mụ hát Sình Ca của dân tộc Cao Lan, các trò chơi dân gian: tung
còn, đua thuyền, chọi gà, vật truyền thống, bịt mắt đánh trống, đu xà, bắn nỏ, …
1.2.3.2. Ý nghĩa và giá trị của lễ hội đình làng Như Xuyên
Trong lễ hội truyền thống cuộc sống thường ngày của con người được tái
hiện dưới hình thức các trò diễn. Dường như, các vị thần linh, các bậc siêu nhiên
luôn tồn tại trong đời sống và sẽ trở về trong tiềm thức của con người vào những
dịp lễ hội, khiến cho lễ hội được tồn tại với những lễ nghi ít nhiều có tính chất
huyền ảo, sức cảm hóa của không gian và thời gian thiêng được nhân lên gấp
bội. Hội là dịp để mọi người được hóa thân, nhập cuộc và tham gia sáng tạo
cũng như thưởng thức các giá trị văn hóa nghệ thuật mang tính chất dân gian kết
hợp với những yếu tố hiện đại. Do đó, lễ hội đình làng Như Xuyên cũng góp
phần tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến đời sống tâm linh, đến việc hun đúc tâm
hồn tính cách con người Việt Nam.
Lễ hội đình làng Như Xuyên cũng như những lễ hội truyền thống khác là
loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành
và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ lâu đã có truyền thống
“Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của
cộng đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị
“Thần” - những người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng
các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
17
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
anh hùng chống giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng
nghề nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ thú ác; những người
chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi
trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc Lễ hội
đình làng Như Xuyên là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị
thần đối với cộng đồng, dân tộc. Lễ hội còn là dịp con người được trở về với
nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong
tâm trí mỗi người.
Lễ hội đình làng Như Xuyên với các nghi lễ tâm linh, thể hiện sự tôn
kính, lòng biết ơn của nhân dân với các vị Vương tổ của người Cao Lan, với
Thành Hoàng làng và các vị thần, cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa
màng tươi tốt, nhân dân được mạnh khỏe, bình yên, ấm no và hạnh phúc.
Bên cạnh đó, lễ hội đình làng Như Xuyên thể hiện được sức mạnh cộng
đồng làng xã, địa phương và rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị
thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá
vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân khi tham gia lễ hội; Là hình
thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết
hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí
Lễ hội đình làng Như Xuyên cũng là dịp con người được giải tỏa, dãi
bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che vượt
qua những thử thách của cuộc sống.
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
18
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
Chương 2
CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG
NHƯ XUYÊN, XÃ ĐỒNG QUÝ, HUYỆN SƠN DƯƠNG,
TỈNH TUYÊN QUANG
2.1. Thực trạng công tác tổ chức lễ hội đình làng Như Xuyên, xã Đồng
Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
2.1.1. Công tác chuẩn bị
- Thành lập Ban tổ chức:
Ban tổ chức lễ hội đình làng Như Xuyên được thành lập theo cơ cấu thành
phần quy định tại Chương II, Điều 13 trong Quy chế tổ chức lễ hội năm 2001
của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cụ thể như sau: Ông Hoàng
Văn Thiên – Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân xã Đồng Quý làm Trưởng Ban tổ
chức, Ông Sầm Văn Thịnh – Trưởng Ban Văn hóa xã Đồng Quý làm Phó
Trưởng Ban tổ chức và 12 đồng chí là Trưởng các ban ngành, đoàn thể trong xã
là ủy viên Ban tổ chức.
Ban tổ chức lễ hội có trách nhiệm quản lý, điều hành các hoạt động lễ hội
theo đúng chương trình đã báo cáo và xin phép, đảm bảo an ninh, trật tự, an
toàn, tổ chức dịch vụ ăn nghỉ chu đáo, bảo vệ tốt di tích lịch sử, văn hóa, danh
lam thắng cảnh, môi trường và quản lý việc thu – chi trong lễ hội; Đồng thời, có
trách nhiệm trực tiếp báo cáo kết quả tổ chức lễ hội bằng văn bản với Ủy ban
nhân dân xã Đồng Quý và Phòng Văn hóa Thông tin huyện Sơn Dương sau khi
lễ hội kết thúc. Ban tổ chức có con dấu riêng. Dưới Ban tổ chức thành lập bộ
phận Thường trực để giải quyết những công việc cụ thể từ khi bắt đầu đến khi
kết thúc lễ hội và các tiểu ban chuyên môn gồm tiểu ban chuyên môn; Tiểu ban
cơ sở vật chất – tài chính - hậu cần; Tiểu ban tuyên truyền; Tiểu ban khánh tiết
– lễ tân; Tiểu ban an ninh trật tự và an toàn giao thông các tiểu ban này có
nhiệm vụ giúp Ban tổ chức điều hành công việc chuẩn bị cũng như khi tổ chức
lễ hội, đồng thời báo cáo Ban tổ chức về việc tổ chức các nội dung chương trình
hoạt động. Nhiệm vụ của từng thành viên trong Bộ phận Thường trực và các tiểu
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
19
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
ban do Trưởng bộ phận Thường trực, Trưởng các tiểu ban phân công. Mỗi tiểu
ban có Trưởng tiểu ban, Phó tiểu ban và các ủy viên. Ban tổ chức, bộ phận
Thường trực và các tiểu ban tự giải thể sau khi lễ hội kết thúc.
- Các công việc chuẩn bị cho lễ hội:
Để đảm bảo lễ hội đình làng Như Xuyên được tổ chức theo đúng mục tiêu
đề ra, các Tiểu ban giúp việc đã thực hiện xây dựng kế hoạch và triển khai hoàn
thiện các hạng mục cơ bản. Đồng thời triển khai hoạt động tuyên truyền cổ động
trực quan trên các tuyến đường thuộc địa bàn xã và tuyên truyền quảng bá qua
hệ thống truyền thanh của xã, chuẩn bị các phương tiện và đạo cụ tổ chức các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tại khu vực diễn ra lễ hội trong
dịp lễ hội cũng như cử các cá nhân, các đội tham gia phần lễ tại đình làng. Do là
lễ hội làng nên mỗi gia đình trong làng chuẩn bị hai quả còn để phục vụ cho trò
ném còn trong lễ hội; Trong lễ hội còn có đua thuyền trên hồ nên phải chuẩn bị
thuyền chắc chắn và an toàn; Ngoài ra, còn có trò đu xà nên yêu cầu phải chuẩn
bị xà đu chắc chắn đảm bảo an toàn cho người tham gia; Chuẩn bị nỏ và tên để
tổ chức thi bắn nỏ trong lễ hội ; Đặc biệt, phần nghi lễ và tất cả các trò chơi
trong phần hội đều có hát sình ca do đội văn nghệ của thôn đảm nhiệm. Do vậy,
đội văn nghệ của thôn đã phải tập luyện hàng tháng trời trước khi lễ hội bắt đầu.
Các Tiểu ban giúp việc chủ động xây dựng kế hoạch và thực hiện tích
cực, bám sát các mặt về nội dung các hoạt động của lễ hội; công tác thông tin
tuyên truyền; công tác bảo đảm an ninh, trât tự - giao thông - môi trường; công
tác Lễ tân – y tế Trước ngày lễ hội bắt đầu các công tác chuẩn bị đều phải
hoàn tất đảm bảo lễ hội diễn ra theo đúng kế hoạch đã định.
2.1.2. Diễn trình tổ chức lễ hội
• Phần lễ:
Phần lễ được tổ chức tại đình làng với các nghi lễ tâm linh, thể hiện sự tôn
kính của nhân dân với các vị Vương tổ của người Cao Lan, với Thành Hoàng
làng và các vị thần, cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi
tốt, nhân dân được mạnh khỏe, bình yên, no ấm. …
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
20
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
Cũng giống như các lễ hội truyền thống khác, lễ hội đình làng Như Xuyên
có kết cấu phần lễ như sau:
- Lễ rước nước: Trước khi mở hội vào đám một ngày, cộng đồng làng cử
hành lễ lấy nước từ giữa hồ của làng về đình, nước được đựng trong bình xứ đã
lau chùi sạch sẽ. Nước được múc bằng gáo đồng và được lọc qua lớp vải để trên
miệng bình rồi đưa lên kiệu rước về đình - nơi thần linh án ngự.
- Lễ mộc dục: Kiệu rước nước về cộng đồng làng cử hành luôn lễ mộc
dục (tức là lễ tắm rửa tượng thánh thần), công việc này giao cho những người có
uy tín do cộng đồng làng tín nhiệm và lựa chọn. Họ thắp hương dâng lễ rồi tiến
hành công việc một cách nghiêm trang, thận trọng. Tượng thần linh được tắm
rửa hai lần, lần thứ nhất là bằng nước ở kiệu rước về, lần thứ hai là bằng nước
ngũ vị hương đã chuẩn bị từ trước. Lễ mộc dục được gọi là tắm rửa nhưng thực
chất là lấy khăn, vải sạch nhúng vào nước rồi lau chùi nhẹ nhàng lên tượng
thánh thần.
- Lễ tế gia quan: Là lễ mặc áo, đội mũ cho tượng thần. Tất cả những đồ:
trang phục, mũ được chuẩn bị niêm phong trước ngày mở hội.
- Lễ đại tế: Là nghi thức trang trọng nhất, lễ địa tế thường dâng 6 tuần
rượu và lễ vật gồm: lợn, gà, xôi, oản, bánh kẹo, hoa quả để cúng thần linh. Đại
tế do ban tế lễ thực hiện gồm 17 người. Nội dung của lễ đại tế là đón rượu thỉnh
mời thần linh về dự hội hưởng lễ vật, đồng thời là dịp dân làng kính ý chúc tụng,
bày tỏ lòng biết ơn và cầu mong thần linh bảo trợ phù hộ cho cộng đồng dân
làng.
- Lễ hèm: Là lễ thể hiện các trò diễn tái hiện lại kỹ thuật canh tác cũng
như cuộc sống hàng ngày của người dân, trong phần lễ có diễn múa Trống Sành
gồm ba phần là múa khai lộ (mở đường cho một vụ mùa làm ăn), múa xúc tép
(cầu cho mưa thuận, gió hòa, quốc thái dân an), múa cờ (mừng cho một vụ mùa
làm ăn bội thu và trả ơn thần linh). Đồng thời, lễ hội có diễn xướng dân gian giã
cốm và tra mộ nương. Trò giã cốm có bốn đôi trai gái cầm chày dài khoảng hơn
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
21
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
1m cùng giã vào một chiếc máng dài 1,5m theo nhịp tạo ra những điệu nhạc làm
cho người xem thích thú, cũng như thể hiện sinh hoạt hàng ngày của con người.
Diễn xướng tra mộ nương cũng có bốn đôi trai gái, trai cầm mỗi người một cái
cây để đâm lỗ, nữ mỗi người đeo một cái giỏ đựng thóc để tra vào lỗ do những
người con trai đi trước đâm sẵn. Cùng với đó là những câu hát Sình Ca đi vào
lòng người của đội văn nghệ xã đảm nhiệm gồm các bài có nội dung được dịch
ra như sau: Mở đầu là hát dâng hương: “Tay cầm một nén hương thơm, vào đình
kính lễ dâng lên thánh thần, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho đất nước ngày
càng phồn vinh” và “Tháng giêng mùng sáu đình Như Xuyên, khách lạ gần xa
đến hội đình, đồng tâm cung kính dâng hương thánh, cầu tài cầu lộc hưởng bình
an”. Tiếp đến là hát ca ngợi đình làng, ca ngợi quê hương đất nước: “Mở lời
kính lễ thần hoàng, hai là kính lễ bốn phương thổ thần, thứ ba kính chúc hội
đình, người người mạnh khỏe làm ăn phát tài”. Nhiều bài hát mang nhiều nội
dung khác nhau được hát trong phần lễ.
• Phần hội:
Hội là dịp để người dân vui chơi thỏa thích sau những ngày làm việc vất
vả. Nó không bị ràng buộc bởi nghi lễ, tôn giáo, đẳng cấp, lứa tuổi, giới tính.
Nếu phần lễ là những nghi thức thờ cúng linh thiêng có tính quy phạm được cử
hành ở đình làng thì hội là những sinh hoạt dân dã, trên sân đình và khu vực bờ
hồ để mọi người dự hội cùng tự do, bình đẳng vui chơi, tham gia vào các trò
chơi dân gian như: ném còn, đua thuyền, chọi gà, vật truyền thống, bắn nỏ, đu
xà
Mở đầu phần hội là trò ném còn tại sân đình, phải sau khi có người ném
được quả còn qua vòng tròn thì phần hội mới được di chuyển lên trên khu vực
hồ nước, tiếp tục trò ném còn trên bờ hồ. Trò ném còn dành cho tất cả du khách
đến tham gia hội, nếu ai muốn tham gia có thể đăng ký với Ban tổ chức. vì thế,
cần rất nhiều quả còn nên mỗi gia đình trong làng chuẩn bị hai quả còn để mang
đến góp trước ngày mở hội. Ở giữa sân đình và bãi đất trống trên bờ hồ, người
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
22
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
ta chôn một cây tre cao 9 - 10m, đầu trên cao có gắn một cái vòng tròn đường
kính khoảng 50 – 60cm theo phương thẳng đứng. Sau đó gắn vải đỏ, phần trên
khâu chắc vào mép vòng, ở dưới thả buông để khi ai đó tung trúng vào trong
vòng còn dễ phát hiện ra. Mọi người cùng tham gia, nếu ai ném lọt tâm vòng thì
người đó đạt thành tích, giải thưởng là 200.000 đồng, một cái sỏ lợn và một ván
xôi. Trò chơi tung còn vừa mang tính văn hóa lại vừa mang tính thể thao, rèn
luyện sự tinh tế, khéo léo, tài tình, ước lệ và duyên dáng, nhẹ nhàng khi tung,
khi bắt; vừa kết hợp các động tác toàn thân, vừa sảng khoái tinh thần, vừa được
giao lưu, tỏ tình, đoàn kết, vui vẻ. Trò ném còn có ý nghĩa cầu mong sự sinh sôi,
phát triển và mùa màng bội thu.
Sau trò ném còn là đến hội vật truyền thống, tất cả những nam giới đều có
thể đăng ký với Ban tổ chức để tham gia. Đây là trò chơi dân gian, mỗi ván đấu
có hai người dùng sức để làm sao vật ngửa được đối phương thì sẽ dành chiến
thắng. Những người xung quanh đánh trống reo hò, cổ vũ để khuyến khích tinh
thần thi đấu cho các đấu vật. Phần thưởng cho người chiến thắng là 300.000
đồng. Đấu vật có ý nghĩa rèn luyện sức khỏe, củng cố tinh thần thể thao cho mọi
người.
Sau hội đấu vật là hội chọi gà. Chọi gà (còn gọi là đá gà) là một thú chơi
dân gian mang đậm nét văn hóa truyền thống từ lâu đời. Chọi gà là thú chơi để
giải trí, xem về đấu pháp, tài nghệ của gà, nhưng còn một ý nghĩa khác đó là bói
lộc đầu năm. Chọi gà là một thú chơi tao nhã, vừa có tính tiêu khiển lại vừa
khuyến khích việc chăn nuôi của nhà nông xưa. Đặc biệt, trò chơi chọi gà có
một sức hút rất đông đảo quần chúng, vừa mang tính chất giải trí, vừa mang tinh
thần thượng võ, là chất keo sơn gắn kết tinh thần cộng đồng đã từng tồn tại trong
một thời gian dài ở các hội làng xưa. Hai con gà chọi người đỏ gay lừa mổ nhau,
đập cánh vào nhau, nhảy lên đá móc vào nách, vào cổ họng, vào ức của đối
phương quyết liệt hoặc ghì nhau đè cánh đạp chân như những đấu thủ trên sàn
đấu. Những cú mổ hiểm hóc vào mắt, vào cổ đối phương đến chảy máu, những
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
23
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
cú đá móc với những chiếc móc sắc nhọn đến toác ngực làm người xem xung
quanh thán phục. Chú gà nào dành chiến thắng sẽ nhận được phần thưởng là
300.000 đồng.
Đua thuyền là một trò chơi đòi hỏi sự nhanh nhẹn, khéo léo và can đảm.
Trong hội đua thuyền, mỗi thuyền có bốn người nhưng chỉ có một người bơi
thuyền bằng chân những người còn lại chỉ hỗ trợ và cổ vũ. Mọi người đều cố
gắng dùng hết sức để đưa thuyền của mình về đích sớm nhất. Thuyền nào về
đích sớm nhất sẽ dành phần thắng và đạt phần thưởng trị giá 500.000 đồng.
Ngoài các phần chơi có giải thưởng còn có các trò chơi vui, giải trí như:
Bắn nỏ, bịt mắt đánh trống, đu xà thể hiện sự khéo léo, tinh tế và nhanh nhẹn
của mọi người làm tăng thêm tinh thần cố kết cộng đồng.
2.2. Thực trạng công tác quản lý lễ hội đình làng Như Xuyên, xã Đồng
Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
2.2.1. Tuyên truyền phổ biến các văn bản về quản lý lễ hội
Trong những năm qua, công tác quản lý lễ hội luôn được các cấp ủy
Đảng, Chính quyền từ tỉnh đến cấp cơ sở quan tâm chỉ đạo và coi đây là nhiệm
vụ quan trọng trong công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Các cơ quan chức năng và Chính quyền địa phương đã tăng cường đẩy
mạnh việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp quy, chỉ thị của Đảng và
Nhà nước về xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội trên
hệ thống loa truyền thanh của xã, qua hướng dẫn nghiệp vụ, qua thông tin cổ
động trực quan (pa nô áp phích, băng rôn, khẩu hiệu), đặc biệt là Quy chế tổ
chức lễ hội và Quyết định số 39/2001 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban
hành ngày 23/8/2001, Luật di sản văn hóa
Nhờ công tác triển khai phổ biến kịp thời các văn bản chỉ đạo của Đảng,
Nhà nước và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tới các cơ quan, đoàn thể và nhân
dân địa phương nên công tác tổ chức và quản lý lễ hội đình làng Như Xuyên
trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực. Lễ hội đã chấp hành
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
24
Đề tài nghiên cứu khoa học Khoa: Quản lý Văn hóa – Nghệ thuật
theo Quy chế tổ chức lễ hội của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 2001 về
thực hiện thủ tục cấp phép tổ chức thuộc Chương II, Điều 5; Báo cáo tổng kết lễ
hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin thuộc Chương
II, Điều 4; Thời gian thực hiện tổ chức lễ hội thuộc Chương II, Điều 12. Đến
nay, lễ hội đình làng Như xuyên đã thành lập Ban Tổ chức lễ hội, điều hành theo
chương trình đã được xin phép với cơ cấu thành phần theo quy định của Nhà
nước.
Bên cạnh đó, còn tuyên truyền phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật
của Đảng và Nhà nước như: Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009
của Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn
hóa công cộng; Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ
ban hành quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa; Nghị
định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ ban hành quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật di sản văn hóa.
Nhìn chung, công tác tổ chức và quản lý lễ hội đình làng Như Xuyên đảm
bảo Quy chế tổ chức lễ hội của Nhà nước, đảm bảo các yếu tố: tôn vinh, bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tổ chức lễ hội đảm bảo
tính trang nghiêm, tiết kiệm, an ninh trật tự - an toàn xã hội, thu hút được nhiều
người tham gia hòa mình vào không khí chung của lễ hội, tạo nên động lực tinh
thần to lớn và khơi dậy lòng tự hào về quê hương đất nước qua các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc.
Trong dịp tổ chức lễ hội đình làng Như Xuyên, ủy ban nhân dân xã đã tập
trung chỉ đạo dưới sự hướng dẫn nghiệp vụ của Phòng Văn hóa Thông tin huyện
Sơn Dương để đảm bảo phần lễ được tổ chức theo đúng nghi lễ truyền thống,
phần hội vui tươi, lành mạnh, trong đó có sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống
và hiện đại, tạo sự phong phú, đa dạng, thu hút đông đảo nhân dân trong và
ngoài xã tham gia, góp phần phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng tiêu biểu của
SV: Vũ Thị Kiều Lớp: LT – QLVH2B
25