Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện văn lâm, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

ĐÕ VĂN MƯỜI

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ VĂN MƯỜI

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

KHÓA x

Hà Nội, 1năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ VĂN MƯỜI

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM

TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự


Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP

Hà Nội, năm 2021
2


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa
từng được công bố trong các công trình khác.

Ngày 08 tháng 02 năm 2021
Tác giả luận văn

3


Trang

MỤC LỤC

Phần Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7. Kết cấu luận văn
Chương 1 Những vấn đề lý luận và pháp luật về hình phạt
trong trường hợp đồng phạm
1.1. Những vấn đề lý luận về hình phạt trong trường hợp
đồng phạm
1.1.1. Khái niệm hình phạt trong trường hợp đồng phạm
1.1.1.1. Khái niệm về hình phạt
1.1.1.2. Khái niệm vụ án đồng phạm
1.1.2 Đặc điểm của quyết định hình phạt
1.1.2.1. Hình phạt trong trường hợp đồng phạm là hoạt
động nhân danh quyền lực Nhà nước do Tòa án nhân dân tiến
hành mà trực tiếp là Hội đồng xét xử.
1.1.2.2. Việc tuyên hình phạt trong trường hợp đồng phạm
phải được quyết định tại phiên tịa xét sử sơ thẩm vụ án hình
sự
1.1.2.3. Việc áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng
phạm tại phiên tịa xét xử vụ án hình sự của Tịa án được tiến
hành theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ
1.1.2.4. Kết quả áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng
phạm khi đã có hiệu lực pháp luật, có tính bắt buộc thực hiện,
được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước
1.1.3. Ý nghĩa của hình phạt trong trường hợp đồng phạm
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình
phạt trong trường hợp đồng phạm
1.2.1. Quy định về thẩm quyền quyết định hình phạt trong
trường hợp đồng phạm của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.2.2. Quy định của pháp luật hình sụ về loại người đồng
4


7
7
9
10
11
11
11
12
12
12
13
13
13
15
21
21

22

23

23
23
24
24
25


phạm
1.2.3. Quy định về nguyên tắc áp dụng hình phạt trong

trường hợp đồng phạm
Kết luận chương 1
Chương 2 Thực tiễn áp dụng hình phạt trong trường
hợp đồng phạm tại Tịa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên
2.1. Khái quát cơng tác thụ lý xét xử các vụ án hình sự có
đồng phạm của Tịa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng
Yên
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Văn
Lâm
2.1.2. Công tác thụ lý xét xử các vụ án hình sự có đồng
phạm của Tịa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
2.2. Thực trạng quyết định hình phạt các trường hợp đồng
phạm
2.2.1. Kết quả đạt được
2.2.2. Hạn chế, thiếu sót
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiết sót
Kết luận chương 2
Chương 3 Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt
trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên
3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật
3.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật
3.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn xét xử
3.4. Nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt trong trường
hợp đồng phạm của Hội đồng xét xử
3.5. Các giải pháp khác
Kết luận Chương 3
Kết luận


5

31
38
39

39

39
40
49
54
62
63
65
65
65
71
72
73
76
77
77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCT
: Bộ Chính trị
BLHS
: Bộ luật Hình sự

BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CP
: Chính phủ
CT
: Chỉ thị
ĐCS
: Đảng Cộng sản
HĐXX
: Hội đồng xét xử
HP
: Hình phạt
KSV
: Kiểm sát viên
KSXX
: Kiểm sát xét xử
NN
: Nhà nước
PL
: Pháp luật
TAND
: Toà án nhân dân
TP
: Thẩm phán
VAĐP
: Vụ án đồng phạm
VAHS
: Vụ án hình sự
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa

XXST
: Xét xử sơ thẩm

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm nói riêng là một trong những hoạt động tố tụng đặc biệt quan trọng, vì
đây là kết thúc tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra; truy tố và xét xử
trong vụ án hình sự. Quyết định hình phạt đúng là góp phần xây dựng nền tư pháp
văn minh, tiến bộ, dân chủ, vì cơng lý, vì con người; góp phần xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra.
Những năm qua, công tác xét xử của Tịa án các cấp nói chung đã có
những chuyển biến tích cực. Về cơ bản, hệ thống Tịa án nhân dân đã hoàn thành
tốt các nhiệm vụ được giao, chất lượng hoạt động xét xử đã được nâng lên, góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo môi trường ổn định cho
sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của hệ thống Tòa án, Tòa án
nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã thực hiện tốt các chính sách của
Đảng, quy định của pháp luật, đặc biệt là trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
có đồng phạm. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự vẫn cịn
nhiều hạn chế, trong đó có hạn chế về quyết định hình phạt nói chung và quyết
định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói riêng, cụ thể như đánh giá chưa
đúng tính chất và vai trị của các trường hợp đồng phạm trong vụ án hình sự dẫn
đến bị cáo giữ vai trò đầu cho hưởng án treo, bị cáo giữ vai trị thứ yếu lại áp
dụng hình phạt tù; quyết định hình phạt đối với bị cáo quá nhẹ hoặc quá nặng;

phạt tù nhưng cho hưởng án treo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền ... quyết
định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt chưa đúng quy định của
pháp luật; một số vụ án đồng phạm đã bị hủy, bị cải sửa, ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền lợi của bị cáo, bị hại của các chủ thể tham gia tố tụng khác cũng như ảnh
hưởng tới uy tín của Tịa án.
7


Để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự nói chung, quyết định
hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói riêng, khơng xử oan người vơ tội,
khơng bỏ lọt tội phạm, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể tham
gia tố tụng, đáp ứng được yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư
pháp trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi cần phải làm rõ nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn có liên quan. Đặc biệt là những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định
hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng hình phạt trong xét xử
các vụ án hình sự có đồng phạm.
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động quyết định
hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động áp dụng và xây dựng pháp luật.
Từ những lý do trên học viên chọn Đề tài “Quyết định hình phạt trong trường
hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng n” làm luận văn
thạc sĩ là có tính cấp thiết, thời sự khoa học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Học viên đã nghiên cứu và tham khảo một số cơng trình khoa học như sau:
Luận án tiến sĩ luật học: Đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam, của tác
giả Trần Quang Tiệp, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2000.
Luận án tiến sĩ luật học: Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm theo luật
Hình sự Việt Nam, của tác giả Phí Thành Chung, trường Đại học quốc gia Hà
Nội, Khoa luật – 2016.

Luận văn thạc sĩ luật học: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng
phạm từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, của tác giả Lê Văn Nhàn, Học viện Khoa học xã
hội 2016.
Luận án tiến sĩ luật học: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn xét xử của các Tòa án quân sự, của tác giả Trương Đức Thuận,
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội 2020.

8


Luận văn thạc sĩ luật học: Quyết định hình phạt trong đồng phạm, của tác
giả Nguyễn Thị Bình, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2010.
Luận văn thạc sĩ luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam, của
tác giả Phí Thành Chung, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2010.
Luận văn thạc sĩ luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại
người đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam, của tác giả Mai Lan Ngọc, trường
Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2012.
Luận văn thạc sĩ luật học: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật Hình
sự Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, của tác giả Lê Thị
Loan, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2015
Luận văn thạc sĩ luật học: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật
Hình sự Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang, của tác giả Nguyễn
Thị Quý, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2016.
Thông qua công tác nghiên cứu, tổng hợp các cơng trình khoa học nêu
trên, học viên nhận thấy các kết quả nghiên cứu của những đề tài nêu trên mới chỉ
đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong xét xử các vụ án hình sự đồng phạm
theo vai trò của từng trường hợp đồng phạm như: Người thực hành, Người giúp
sức ... hoặc các vụ án có đồng phạm về từng tội danh đơn lẻ như Tội trộm cắp tài
sản ... chưa đi sâu nghiên cứu việc áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng

phạm tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở TAND cấp huyện. Đồng thời
chưa có đề tài nào đề cập đến địa bàn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Vì vậy, đề tài “Quyết định hình phạt trong
trường hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên” là đề tài
mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
quyết định hình phạt đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có đồng
9


phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong vụ án
đồng phạm theo pháp luật hình sự nước ta; Nêu và phân tích thực tiễn áp dụng
hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tịa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên. Thông qua đó đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng quyết định hình phạt trong vụ án đồng phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Học viên nghiên cứu các cơ sở, các luận điểm, quan điểm khoa học và các
quy định của pháp luật hình sự, cũng như thực tiễn quyết định hình phạt đối với
các trường hợp đồng phạm trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có đồng phạm tại
Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên để nghiên cứu các vấn đề thuộc
nội dung nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự, gồm luật hình sự và tố
tụng hình sự.

- Nghiên cứu việc quyết định hình phạt trong các vụ án hình sự có đồng
phạm được xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
trong giai đoạn 2016 - 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân, về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

10


Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, trong đó chủ yếu là các phương pháp
phân tích - tổng hợp, điều tra, khảo sát thực tế và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần thống nhất nhận thức những
vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tịa án
nhân dân nói chung và tại Tịa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên nói
riêng.
6.2. Về ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần củng cố lý luận áp dụng pháp luật về hình phạt nói
chung và hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại các phiên tịa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự Tịa án nhân dân cấp huyện.
- Luận văn làm sáng tỏ thực trạng áp dụng pháp luật về hình phạt trong xét
xử các vụ án hình sự có đồng phạm của Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh

Hưng Yên, rút ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Xác định quan điểm và giải pháp cơ bản, khả thi nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về hình phạt trong các trường hợp đồng phạm tại phiên tịa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và ở Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng n nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyết định hình phạt
trong trường hợp đồng phạm.
Chương 2: Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại
Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên (2016 – 2020).

11


Chương 3: Các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt trong trường
hợp đồng phạm tại Tịa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
1.1.1.1. Khái niệm về quyết định hình phạt
Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính nguy hiểm cao trong xã
hội, tồn tại trong xã hội, mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc, đấu tranh
với tội phạm là nhiệm vụ tất yếu khách quan đặt ra cho mọi nhà nước, cho dù nhà
nước đó là kiểu nhà nước nào. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của được nhà nước áp dụng và nó trở thành cơng cụ hữu hiệu trong cơng

cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, tuy nhiên việc quyết định hình phạt loại
nào, mức độ bao nhiêu phải căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi và quy định của
pháp luật.
Tại Điều 50 BLHS năm 2015 quy định: “1. Khi quyết định hình phạt, Tịa
án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngồi căn cứ quy định tại khoản 1 Điều
này, Tịa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội”.
Tại Điều 58 BLHS năm 2015 quy định: “Khi quyết định hình phạt đối với
những người đồng phạm, Tịa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất
và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người
đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó”.
12


Trong BLHS 1999 và BLHS 2015 đều không quy định khái niệm quyết
định hình phạt là thế nào, các văn bản hướng dẫn BLHS cũng không nêu khái
niệm mà chỉ quy định các căn cứ để quyết định hình phạt. Trong lý luận của pháp
luật hình sự có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, nội dung và mục đích của
quyết định hình phạt. Tuy nhiên, về cơ bản quyết định hình phạt được coi là lựa
chọn hình phạt - cơng cụ để đấu tranh phịng ngừa tội phạm. Đây là một quan
niệm tiến bộ và nhân đạo, lựa chọn hình phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người
phạm tội mà cịn nhằm mục đích giáo dục, cải tạo và ngăn ngừa tội phạm. Quan
niệm này về quyết định hình phạt thể hiện rõ nét phương châm kết hợp cưỡng chế
và giáo dục cải tạo trong chính sách hình sự, cưỡng chế là không thể thiếu nhưng
giáo dục, thuyết phục cũng có vai trị rất quan trọng, nó có ưu thế hơn cưỡng chế
ở khả năng làm cho con người có thể tự nguyện tuân theo và trao cơ hội cho họ
sửa chữa những lỗi lầm vi phạm, như vậy sự đồng tình đó mới thực sự bền vững.

Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc nhân đạo XHCN, kế thừa
truyền thống văn hoá, đạo đức dân tộc, tiếp thu những tinh hoa tiến bộ của luật
hình sự thế giới; đồng thời, có xét đến thực trạng và yêu cầu của cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm, lựa chọn loại và mức độ hình phạt, biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của nhà nước do Toà án áp dụng đối với người phạm tội.
Theo Điều 30 BLHS năm 2015: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án
quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”.
Theo đó, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước. Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, có nhiều biện pháp cưỡng chế
như xử phạt hành chính, buộc bồi thường thiệt hại về tài sản, xử lý kỷ luật... Tuy
nhiên, so với các biện pháp cưỡng chế khác thì hình phạt trong hình sự là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, vì: hình phạt đánh vào lợi ích kinh tế, hình
phạt hạn chế hoặc tước bỏ quyền tự do thân thể, hình phạt được ghi vào lý lịch tư

13


pháp, đặc biệt hơn là hình phạt cịn có thể loại bỏ quyền được sống của người
phạm tội (quyền quan trọng nhất của con người).
Về bản chất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế do cơ quan có thẩm quyền
quyết định là Tịa án. Thơng qua bản án, quyết định của Tịa án, đối tượng phải
chấp hành hình phạt là người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, những đối
tượng này sẽ bị tước bỏ hoặc bị hạn chế quyền, lợi ích của mình. Chỉ có chế tài
hình sự thì một người mới bị bắt giam, bị tước quyền tự do, bị cải tạo hoặc bị
tước cả quyền sống của mình.
Cơ quan có thẩm quyền quyết định hình phạt là Tòa án. Tòa án ở đây
được hiểu là Tòa án có thẩm quyền đối với từng vụ án cụ thể theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Vì những tính chất đặc thù của tội phạm (chỉ được

quy định trong Bộ luật Hình sự) nên việc áp dụng chế tài hình phạt so với các chế
tài khác khơng nhiều. Do đó, q trình để quyết định hình phạt cụ thể đối với tội
phạm thường khó khăn, phức tạp hơn so với quá trình áp dụng những chế tài
khác.
Ngồi quy định trong Bộ luật Hình sự thì khơng có bất kì một đạo luật
nào được quy định về tội phạm, hình phạt và quyết định hình phạt. Quyết định
hình phạt đó phải tương xứng với tính chất hoặc mức độ nguy hiểm cho xã hội
của người hoặc pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, các nhà làm luật
quy định các loại hình phạt khác nhau cho mỗi hành vi phạm tội khác nhau và
nhiều khi ngay trong cùng một tội cũng có các hình phạt khác nhau và quy định
các căn cứ quyết định hình phạt để áp dụng tương ứng với các mức độ cụ thể.
Từ những phân tích đánh giá nêu trên, theo học viên Khái niệm quyết định
hình phạt là: Quyết định hình phạt là lựa chọn loại và mức độ biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người, pháp nhân phạm tội.
1.1.1.2. Khái niệm vụ án đồng phạm

14


Theo từ điển tiếng Việt: “Đồng”, có nghĩa là cùng như nhau, khơng thể
khác được; Cịn “Phạm”, nghĩa là làm tổn hại đến cái cần tôn trọng, mắc phải
điều cần tránh. Và “Đồng phạm” nghĩa là cùng phạm tội.
Qua nghiên cứu, tổng hợp, pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới,
học viên thấy:
Tại đất nước Thụy Điển, quy định về người đồng phạm là người phối hợp
với người khác cùng thực hiện một hành vi phạm tội hoặc một người tìm cách xúi
giục người khác phạm tội hoặc đề nghị người khác phạm tội. “Khi xét xử từng
người đồng phạm phải căn cứ vào việc người đó tham gia thực hiện tội phạm do
cố ý hay vô ý” (Điều 4 - Chương 23 BLHS Thụy Điển). Theo đó luật hình sự

Thụy Điển, xác định đồng phạm có cả trong những tội phạm thực hiện do lỗi vô
ý. Trong khi Bộ luật hình sự nước Cộng hịa Pháp lại có quy định về chính phạm
và đồng phạm (tịng phạm). Trong đó, chính phạm là người thực hiện các hành vi
bị coi là tội phạm hoặc chuẩn bị thực hiện một trọng tội hoặc khinh tội trong
trường hợp luật quy định (Điều 121.4). Người có ý thức giúp đỡ hoặc trợ lực và
đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị hoặc thực hiện tội phạm bị coi là
đồng phạm của một trọng tội hoặc khinh tội. Người dùng tặng vật, hứa hẹn, đe
dọa, dùng mệnh lệnh, lạm dụng chức vụ hoặc quyền hạn để xúi giục hoặc có các
chỉ dẫn để cho người khác thực hiện tội phạm cũng bị coi là đồng phạm (Điều
121.7).
Theo Luật hình sự Trung Quốc năm 1979 tại Điều 22 lại quy định: “Hai
hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”.
Tại Điều 33 Luật hình sự của nước Nga năm 1996 cũng có quy định: “Hai
hay nhiều người cùng cố ý thực hiện một tội cố ý là đồng phạm” [1998), “Luật
hình sự của một số nước trên thế giới”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (Chuyên
đề).
Cũng giống như các nước, nêu ở phần trên, pháp luật hình sự cũng có
những quy định và cách hiểu về Đồng phạm theo giai đoạn lịch sử khác nhau, cụ
thể:
15


Theo Quốc triều hình luật năm 1428 (thời nhà Lê – Lê Thánh Tông), sau
này được gọi là Luật Hồng Đức và Lê triều hình luật, có dùng thuật ngữ Đồng
mưu, để nói về Đồng phạm: Đồng mưu đánh người bị thương thì kẻ nào đánh
nhiều địn nặng là thủ phạm; kẻ chủ mưu cũng phải cùng một tội; còn người tịng
phạm thì được giảm một bậc; đánh đến chết thì xem xét chết vì thương tích nào,
kẻ đánh thương tích ấy nặng tội. Nếu khơng xét được rõ ràng thì kẻ hạ thủ sau
cùng xử nặng tội. Nếu đánh loạn xạ khơng biết ai đánh trước sau, nhiều ít thì kẻ
chủ mưu nặng tội nhất, cịn kẻ khác đều xử giảm tội một bậc [NXB Chính trị

quốc gia 1995, tr. 170-171].
Tại Sắc lệnh số 223-SL ngày 17/11/1946 quy định: “Người phạm tội
đưa hối lộ và nhận hối lộ có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là 3/4 tài sản. Những
người đồng phạm khác cũng bị xử phạt như trên’’.
Tại thời điểm này mặc dù các nhà làm luật chưa dùng thuật ngữ đồng
phạm nhưng các nhà làm luật đã giải thích: khi xét xử cần phân biệt giữa các hình
thức đồng phạm khác nhau, phân biệt giữa hành vi “oa trữ” tức là hành vi chứa
chấp, tiêu thụ tài sản do chiếm đoạt được mà có là cộng phạm (nếu có hứa hẹn
trước) với hành vi “oa trữ” không là cộng phạm mà là một hành vi phạm tội riêng
biệt (nếu khơng có hứa hẹn trước).
Tại Hội nghị tổng kết cơng tác xét xử năm 1963 do Tịa án nhân dân tối
cao tổ chức tại Hà Nội có nêu: Coi là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng
chung ý chí, cùng chung hành động, nghĩa là hoặc tổ chức, hoặc xúi giục, hoặc
giúp sức hoặc trực tiếp cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội để cùng đạt tới
kết quả phạm tội, theo học viên tại Hội nghị này mặc dù Tòa án nhân dân tối cáo
đưa ra được một số dấu hiệu của đồng phạm như: tổ chức, xúi giục, giúp sức hoặc
trực tiếp cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội… Tuy nhiên chưa đầy đủ [Lv
Bùi Thị Mong ,tr12].
Còn tại Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967
lại quy định về các loại người đồng phạm và phân hóa trách nhiệm hình sự khá rõ
đối với từng người người đồng phạm, tùy thuộc tính chất và mức độ tham gia
16


phạm tội của họ. Điều 2 Pháp lệnh trên quy định nguyên tắc trừng trị bọn phản
cách mạng là “nghiêm trị bọn chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn thủ ác, bọn ngoan cố
chống lại cách mạng; khoan hồng đối với những kẻ bị ép buộc, bị lừa phỉnh, lầm
đường và những kẻ thật thà hối cải, giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt cho
những kẻ lập cơng chuộc tội”.
Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng đã phân hóa trách nhiệm hình

sự của các loại người: chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, xúi giục, người hoạt động đắc
lực, người tham gia, giúp đỡ.
Một là, bọn cầm đầu, chỉ huy, bọn có tội ác nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
12 năm đến tù chung thân hoặc bị xử tử hình;
Hai là, bọn tham gia thì bị phạt tù từ 5 năm đến 12 năm;
Ba là, kẻ nào tiếp tế, chỉ đường, giúp đỡ cho bọn nói trên hoạt động thì bị
phạt tù từ 2 năm đến 10 năm.
Tại Bộ luật Hình sự 1985, các nhà làm luật đã có riêng 01 Điều luật để quy
định về chế định đồng phạm, cụ thể tại khoản 1 Điều 17 BLHS 1985 có quy định:
“Hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Tại
khoản 1 Điều 20 BLHS 1999 cũng như tại khoản 1 Điều 17 BLHS 2015 các nhà
làm luật đều thống nhất và đưa ra quy định: Đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Như vậy trong cả hai BLHS Việt
Nam gần nhất đều xác định, đồng phạm địi hỏi phải có sự tham gia của nhiều
người có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Những người này phải cố ý cùng
thực hiện tội phạm cụ thể. Như vậy luật hình sự Việt Nam khơng thừa nhận
trường hợp đồng phạm có lỗi vơ ý.
Việc quy định “cố ý cùng” là hồn tồn chính xác phản ánh chính xác mối
liên kết, quan hệ giữa những người phạm tội, nếu quy định “cùng cố ý” thì chưa
thể phản ánh chính xác được trong vụ án có đồng phạm. Ví dụ hai người cùng
vào kho công ty trộm cắp tài sản nhưng không liên quan gì đến nhau, cả hai đều
cùng cố ý chiếm đoạt tài sản, nhưng mỗi người thực hiện một hành vi trộm cắp

17


riêng lẻ. Ngược lại “cố ý cùng” nghĩa là hai người trở lên đều cố ý và cùng thực
hiện một tội phạm.
Dấu hiệu “cùng thực hiện tội phạm" đòi hỏi mỗi người đồng phạm phải
tham gia vào tội phạm với một trong bốn loại hành vi sau: hành vi thực hiện tội

phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội phạm và
hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Tương ứng với bốn loại hành vi tham gia
này là bốn loại người đồng phạm:
1) Người tổ chức là người đồng phạm giữ vai trò đặc biệt trong các vụ
đồng phạm, thể hiện ở vai trị liên kết các cá nhân để hình thành nhóm phạm tội
hoặc điều khiển hoạt động của nhóm phạm tội;
2) Người xúi giục là người đồng phạm có hành vi cố ý tác động đến nhận
thức và ý chí của người khác, khiến người này phạm tội;
3) Người giúp sức là người đồng phạm đã cố ý tạo ra những điều kiện vật
chất hay tinh thần cho việc thực hiện tội phạm;
4) Người thực hành là người đồng phạm đã trực tiếp thực hiện tội phạm.
Họ có thể tự mình thực hiện hành vi được mơ tả trong cấu thành tội phạm hoặc
chỉ có hành động (cố ý) tác động đến người khác để người này thực hiện hành vi
được mô tả trong cấu thành tội phạm. Nhưng bản thân những người bị tác động
đã thực hiện hành vi đó lại khơng phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người
đã tác động họ.
Ví dụ: Thuê trẻ em chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự đốt nhà người
khác; kích động người khơng có năng lực trách nhiệm hình sự (người bị bệnh tâm
thần) đánh người khác bị thương tích nặng... dấu hiệu “cố ý cùng” địi hỏi những
người đồng phạm đều cố ý cũng như đều biết và mong muốn sự cố ý của người
khác khi cùng thực hiện tội phạm. Đồng phạm của tội phạm có dấu hiệu mục đích
là dấu hiệu bắt buộc cịn địi hỏi những người đồng phạm có cùng mục đích này.
Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí xác định trách nhiệm hình sự của
người thực hiện hành vi phạm tội được mô tả trong cấu thành tội phạm. Cấu
thành tội phạm của các tội cụ thể cùng với quy định chung về phạm tội chưa đạt
18


(Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) và về chuẩn bị
phạm tội (Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) là cơ sở

pháp lí xác định trách nhiệm hình sự của phạm tội chưa đạt ở các tội cụ thể và của
chuẩn bị phạm tội ở một số tội cụ thể theo quy định. Ngoài các trường hợp phải
chịu trách nhiệm hình sự như vậy, luật hình sự cịn xác định trách nhiệm hình sự
đối với ba loại hành vi liên quan trực tiếp với hành vi được mô tả trong cấu thành
tội phạm của các tội cố ý. Đó là hành vi tổ chức, hành vi xúi giục và hành vi giúp
sức cho hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Như vậy, đổi với các tội
phạm cố ý, trách nhiệm hình sự được đặt ra cho:
- Người thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (cơ sở
pháp lí của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm) và người này được gọi là
người thực hiện tội phạm;
- Người có hành vi tổ chức cho người khác thực hiện hành vi được mô tả
trong cấu thành tội phạm (cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội
phạm và điều luật quy định về hành vi tổ chức thực hiện tội phạm) và người này
được gọi là người tổ chức (thực hiện tội phạm);
- Người có hành vi xúi giục người khác thực hiện hành vi được mô tả
trong cấu thành tội phạm (cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội
phạm và điều luật quy định về hành vi xúi giục thực hiện tội phạm) và người này
được gọi là người xúi giục (thực hiện tội phạm);
- Người có hành vi giúp sức cho người khác thực hiện hành vi được mơ tả
trong cấu thành tội phạm (cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội
phạm và điều luật quy định về hành vi giúp sức thực hiện tội phạm) và người này
được gọi là người giúp sức (thực hiện tội phạm).
Hiện tại trong BLHS nước ta năm 2015 vẫn chưa có điều luật riêng quy
định trực tiếp về các hành vi liên quan với hành vi được mô tả trong cấu thành tội
phạm (CTTP) mà phải chịu trách nhiệm hình sự (hành vi tổ chức, hành vi xúi
giục và hành vi giúp sức thực hiện tội phạm). Các BLHS chỉ có điều luật quy
định trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng phạm là hình thức khác với trường
19



hợp phạm tội riêng lẻ. Trong đó, điều luật quy định dấu hiệu của trường hợp
phạm tội bị coi là đồng phạm và dấu hiệu của các loại người trong vụ đồng phạm
là người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức và người thực hành. Cịn trên
thực tế có rất nhiều vụ án các đồng phạm cùng nhau thực hiện nhiều tội phạm.
Từ các phân tích đánh giá nêu trên, theo học viên khái niệm đồng phạm: là
trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm hoặc nhiều tội
phạm do Bộ luật Hình sự quy định.
Trên thực tế BLHS Việt Nam năm 2015 mới quy định mới về chủ thể
phạm tội là “pháp nhân thương mại” - đây là chủ thể đặc biệt chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự trong những trường hợp được Bộ luật này quy định, nên khơng xác
định có đồng phạm đối với chủ thể phạm tội là pháp nhân. Do vậy, theo học viên
khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạt, nên hiểu là:
Khái niệm Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm: Là
việc Tịa án lựa chọn loại và mức độ hình phạt, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của hai người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm.
1.1.2. Quyết định hình phạt đối với các loại người đồng phạm
1.1.2.1. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm là hoạt động
nhân danh quyền lực Nhà nước do Tòa án nhân dân tiến hành mà trực tiếp là Hội
đồng xét xử.
- Quyền lực Nhà nước trong quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân,
nghĩa là Tòa án là chủ thể được quyền quyết định hình phạt vì: Tịa án nhân dân
là cơ quan được thành lập theo quy định của Hiến pháp, hoạt động mang tính đặc
thù theo một trình tự pháp lý chặt chẽ; Tịa án thực hiện quyền lực nhà nước
thông qua việc tổ chức các hoạt động giải quyết án hình sự. Chủ thể áp dụng và
quyết định hình phạt trong hoạt động giải quyết án hình sự là Chánh án, Phó
Chánh án, Thẩm phán và HĐXX. Các Điều 44, 45, 46 BLTTHS 2015 đã quy
định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Trong đó, có thể
thấy chủ thể trực tiếp áp dụng pháp luật là HĐXX. Quyết định hình phạt trong
20



trường hợp đồng phạm chỉ do Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định
trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự với đầy đủ thành phần của HĐXX
bằng việc tuyên một bản án cụ thể, còn các biện pháp cưỡng chế khác do các cơ
quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội hay người có chức vụ, quyền hạn có thẩm
quyền áp dụng bằng việc đưa ra một quy định cụ thể.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau và
do nhiều cơ quan Nhà nước tiến hành (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử), trong đó
việc Hội đồng xét xử thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện tuyên hình phạt trong
trường hợp đồng phạm là một khâu đặc biệt quan trọng thể hiện kết quả tiến hành
các hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Tòa án nhân dân là cơ
quan đưa ra phán quyết cuối cùng để xác định tội phạm và hình phạt trong trường
hợp đồng phạm theo quy định của pháp luật hình sự (gồm cả Luật hình sự và Tố
tụng hình sự).
1.1.2.2. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm phải được
quyết định tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
- Việc Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa án nhân dân quyết
định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, phải được thực hiện duy nhất tại
phiên tịa thơng qua việc xem xét, đánh giá chứng cứ thu thập được trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để đưa ra
chế tài hình sự đối với từng người (bị cáo) đồng phạm.
Theo quy định của pháp luật, việc quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm của Tòa án nhân dân được tiến hành tại phiên tịa thơng qua HĐXX.
Tại đây, nguyên tắc tranh tụng được thực hiện một cách rõ ràng và phải được đảm
bảo. Các bị cáo được quyền cơng khai trình bày ý kiến về việc mình bị truy tố là
đúng hay sai; các Luật sư có quyền đưa ra chứng cứ và tham gia tranh luận bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mà mình bảo vệ. Thơng qua việc xét xử
cơng khai tại phiên tòa, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tham gia giám sát trực
tiếp đối với Tòa án trong việc áp dụng pháp luật.


21


- Phiên tịa xét xử vụ án hình sự cũng chính là nơi Tịa án kiểm tra cơng
khai tính đúng đắn trong quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng trước đó như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Bằng việc kiểm tra công khai
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, các tài liệu, chứng cứ xuất trình tại phiên
tịa, có như vậy thì việc quyết định hình phạt của Tịa án càng chính xác và khách
quan hơn.
1.1.2.3. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại phiên tòa
xét xử vụ án hình sự của Tịa án được tiến hành theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ
- Hoạt động quyết định hình phạt có vai trị quan trọng và phức tạp, vì vậy
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự đã quy định rất chặt chẽ việc quyết định hình
phạt ln phải xác định rõ cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể trong quá trình quyết định hình phạt để tránh, hạn chế, loại bỏ
việc quyết định hình phạt một cách tùy tiện có thể dẫn đến việc quyết định hình
phạt khơng đúng, khơng chính xác, khơng khách quan, cơng bằng, dân chủ gây
thiệt hại cho đối tượng bị áp dụng hình phạt.
1.1.2.4. Kết quả quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm khi đã
có hiệu lực pháp luật, có tính bắt buộc thực hiện, được bảo đảm thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế nhà nước
Điều 28 BLTTHH 2015 (Điều 23 BLTTHS 2003) quy định về bảo đảm
hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án:
“1. Bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành.
2. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình, cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án’’.

Kết quả của quyết định hình phạt là HĐXX ban hành bản án, quyết định
liên quan đến việc giải quyết vụ án, quyết định hình phạt áp dụng đối với người,
pháp nhân thương mại phạm tội. Khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
22


pháp luật thì có tính bắt buộc thực hiện và được bảo đảm thực hiện bằng sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước thơng qua cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
1.1.3. Ý nghĩa của quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Thứ nhất, quyết định hình phạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính
trị-xã hội và pháp lý. Quyết định hình phạt góp phần củng cố và giữ vững pháp
chế, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Loại và mức độ hình phạt mà Tịa án tuyên
cho người phạm tội phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội. Hình phạt đã tuyên thỏa đáng sẽ làm cho người bị kết
án thấy được tính chất sai trái của hành vi của mình cũng như sự cần thiết của bản
án đã tuyên cho họ, từ đó tự giác tuân thủ pháp luật; đồng thời hình phạt đã tun
thỏa đáng sẽ góp phần phịng ngừa chung trong xã hội.
Thứ hai, quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt được
mục đích của hình phạt: trừng trị và giáo dục, cải tạo. Việc quyết định hình phạt
phải đảm bảo cho hình phạt đã tuyên đạt được cả hai mục đích này. Trừng trị và
giáo dục, cải tạo là hai mặt có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau và là hai mặt của một thể thống nhất trong khi quyết định hình phạt và Tịa
án khơng được coi nhẹ mặt nào.
Thứ ba, quyết định hình phạt đúng là cơ sở quan trọng để có thể nâng cao
hiệu quả của hình phạt. Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
khác nhau như xây dựng pháp luật hình sự, quyết định hình phạt, chấp hành hình
phạt, tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho công dân. Trong các yếu tố trên
thì quyết định hình phạt đúng là yếu tố quan trọng. Tuy nhiên cũng cần xem xét
đến các yếu tố khác, vì tội phạm ra đời trong xã hội, tồn tại trong xã hội và có các
ngun nhân, điều kiện xã hội của nó. Vì vậy cần phải chú trọng đến các yếu tố

xã hội khi quyết định hình phạt trường hợp đồng phạm thì mới khắc phục được
nguyên nhân của tội phạm nói chung.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt
trong trường hợp đồng phạm

23


1.2.1. Quy định về thẩm quyền quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm của Tòa án nhân dân cấp huyện
Căn cứ theo các điển a, b, c khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy
định về tội phạm ít nghiêm trọng (đến 03 năm tù), tội phạm nghiêm trọng (từ 03
năm đến 07 năm tù), tội phạm rất nghiêm trọng (từ 07 năm đến 15 năm tù), và
theo khoản 1 Điều 268 BLTTHS 2015 quy định về thẩm quyền xét xử của Tịa
án, thì TAND cấp huyện ... xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà bị cáo phạm tội
các tội phạm có khung hình phạt cao nhất là dưới 15 năm tù. Nhưng trừ những tội
phạm được quy định trong BLHS năm 2015.
Tuy nhiên do khoản 1 Điều 268 BLTTHS 2015 quy định chung về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ hình sự của TAND cấp huyện và Tòa án quân sự khu
vực. Nên theo phạm vi của đề tài, học viên chỉ nghiên cứu về thẩm quyền xét xử
của TAND cấp huyện.
Như vậy việc quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm của
TAND cấp huyện chỉ có những vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1.2.2. Quy định của pháp luật về các loại người đồng phạm
Hiện nay, người đồng phạm được phân thành 4 loại gồm: Đồng phạm
trong vai trò chủ mưu (người tổ chức), đồng phạm giúp sức, đồng phạm thực
hành và đồng phạm xúi giục, cụ thể:
1.2.2.1. Người tổ chức (là người giữ vai trị chủ mưu – vai trị chính trong
vụ án đồng phạm)
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội

phạm (khoản 3 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
Trước khi có BLHS đầu tiên - BLHS năm 1985, các khái niệm chủ mưu,
cầm đầu, chỉ huy thường chỉ được dùng để chỉ người tổ chức trong các vụ phạm
tội phản cách mạng (nay là các tội xâm phạm an ninh quốc gia).
Thực tiễn phòng chống tội phạm trong những năm qua cho thấy hoạt động
của người tổ chức trong các vụ án nói chung cũng đa dạng. Việc dùng những khái
niệm khác nhau để chỉ người tổ chức cho sát với thực tế là điều cần thiết. Do vậy,
24


BLHS đầu tiên và Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 hiện
hành đều đã xác định người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc
thực hiện tội phạm. Trong đó: Người chủ mưu là người đề xướng chủ trương,
phương hướng hoạt động của nhóm đồng phạm. Chủ mưu có thể trực tiếp điều
khiển hoạt động của tổ chức nhưng cũng có thể khơng;
- Người cầm đầu là người thành lập nhóm đồng phạm hoặc tham gia vào
việc soạn thảo kế hoạch, phân công, giao trách nhiệm cho đồng phạm cũng như
đôn đốc, điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm;
- Người chỉ huy là người điều khiển trực tiếp của nhóm đồng phạm có vũ
trang hoặc bán vũ trang.
Tóm lại, trong mối quan hệ với những người đồng phạm khác, người tổ
chức là người giữ vai trị thành lập nhóm đồng phạm hoặc điều khiển hoạt động
của nhóm đó.
Người thành lập là người đã đề xướng việc thiết lập nhóm đồng phạm hoặc
chỉ là người đã thực hiện việc đề xướng đó như rủ rê, lơi kéo người khác tham gia
vào nhóm đồng phạm; thiết lập các mối liên hệ tổ chức giữa những người đồng
phạm với nhau.
Người điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm bao gồm:
- Những người giữ vai trị điều khiển hoạt động chung của tồn nhóm như
vạch phương hướng hoạt động; vạch các kế hoạch thực hiện, phân cơng vai trị,

nhiệm vụ cho những người đồng phạm khác;
- Những người chỉ giữ vai trò trực tiếp điều khiển việc thực hiện vụ việc
phạm tội cụ thể của nhóm đồng phạm.
Với vai trị như vậy, người tổ chức ln ln được coi là người có hành vi
nguy hiểm nhất trong vụ đồng phạm. Do vậy, trong nguyên tắc xử lí được quy
định ở Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 2015, người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy đã bị
coi là đối tượng cần phải nghiêm trị.
1.2.2.2. Người xúi giục

25


×