Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Định tội danh trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện thạnh phú, tỉnh bến tre (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.05 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUỲNH

ĐỊNH TỘI DANH TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn
.………………………..……………..……...

Phản biện 2: TS. Đặng Quang Phương
……………………...………….….………...

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội 19 giờ 30 phút, ngày 10 tháng 10
năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự là do có tính
chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Tội phạm có thể do một người
thực hiện, cũng có thể do nhiều người thực hiện. Khi tội phạm được
thực hiện bởi nhiều người và trong hành động của họ có sự liên hệ
mật thiết, tác động lẫn nhau thì được gọi là đồng phạm. Đồng phạm
là hình thức “phạm tội đặc biệt”, đòi hỏi những điều kiện riêng, khác
với những trường hợp phạm tội riêng lẻ về số lượng người tham gia
phạm tội, mối liên hệ giữa các đối tượng trong cùng vụ án cũng như
tội phạm mà cả nhóm hướng tới thực hiện. So với tội phạm do một
người thực hiện, đồng phạm thường nguy hiểm hơn, vì khi một nhóm
người cùng cố ý tham gia thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự
câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thực hiện, phát triển thành “phạm
tội có tổ chức”.
Định tội danh trong trường hợp đồng phạm là một vấn đề hết
sức quan trọng, là giai đoạn có ý nghĩa quyết định của quy trình áp
dụng pháp luật để giải quyết các vụ án hình sự; là cơ sở cần thiết,
đầu tiên để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với từng người phạm
tội. Trên cơ sở xác định từng người trong vụ án có đồng phạm, phạm
tội gì thuộc điều, khoản, điểm nào của BLHS thì khi xét xử, Hội
đồng xét xử quyết định áp dụng một hình phạt tương xứng với tính
chất nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của từng người tham
gia cùng với việc xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, các tình tiết khác thuộc về nhân thân, nguyên nhân và
điều kiện dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo.
Chính vì vậy, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết

1


định hình phạt đúng đắn, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống tội phạm. Nếu định tội
danh không chính xác đối với từng người trong vụ án có đồng phạm
sẽ dẫn đến áp dụng hình phạt nặng hơn hoặc nhẹ hơn cho bị cáo dẫn
đến vi phạm pháp luật, không bảo vệ được quyền lợi của Nhà nước,
của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm giảm uy
tín của các cơ quan trực tiếp đấu tranh bảo vệ pháp luật.
Thạnh Phú là một trong 3 huyện duyên hải của tỉnh Bến Tre
gồm những cánh đồng bằng phẳng xen kẽ với những giồng cát và
những khu rừng ngập mặn, phần lớn đất đai do ảnh hưởng thủy triều
của biển Đông nên bị nhiễm mặn. Việc phát triển nông nghiệp, nhất
là cây lúa, gặp nhiều khó khăn, năng suất thường bấp bênh. Là một
huyện nằm ở cuối dòng sông Cửu Long, đất đai phần lớn bị nhiễm
mặn, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, việc phát triển sản xuất, nâng
cao đời sống của dân gặp không ít khó khăn [44]. Trong những năm
gần đây, mặc dù có nhiều đổi mới, đời sống người dân nơi đây đã
được cải thiện nhưng tình hình tội phạm diễn ra cũng không ít phức
tạp. Các cơ quan tiến hành tố tụng cũng gặp nhiều khó khăn trong
việc giải quyết vụ án vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà quan trọng
nhất là các chủ thể định tội danh chưa nắm vững và nhận thức đúng
những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định
tội danh trong trường hợp đồng phạm nói riêng. Chính vì vậy, việc
lựa chọn vấn đề “Định tội danh trong trường hợp đồng phạm từ thực
tiễn huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre” làm đề tài luận văn thạc sĩ là
đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý, đồng phạm hay định tội danh

trong trường hợp đồng phạm không phải là vấn đề mới trong khoa
2


học pháp lý hình sự, có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết
khoa học đăng trên các tạp chí của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật
gia hình sự và cán bộ thực tiễn đề cập đến nội dung này trong thời
gian qua như:
- Lê Cảm – Trịnh Quốc Toản (2011), Định tội danh (Lý luận,
lời giải mẫu và 500 bài tập), Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà
Nội. Sách đã đề cập đến khái niệm, đặc điểm cơ bản, các dạng và các
giai đoạn định tội danh; định tội danh đối với tội phạm hoàn thành;
đối với tội phạm chưa hoàn thành...cũng như hướng dẫn phương
pháp định tội danh [7].
- Phan Anh Tuấn (2001), Định tội danh trong trường hợp một
hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm, Tạp chí
Khoa học pháp lý số 02. Theo tác giả, Vấn đề định tội danh và xác
định khung hình phạt trong trường hợp hành vi phạm tội thỏa mãn
dấu hiệu của nhiều CTTP là một vấn đề phức tạp đang còn tranh luận
trong thực tiễn cũng như lý luận khoa học Luật Hình sự. Bài viết đã
chỉ ra trong trường hợp nào thì xét xử một tội, trường hợp nào xét xử
nhiều tội? Cơ sở lý luận để giải thích vấn đề này như thế nào? [42, tr.
6-10].
Ngoài ra, còn một số công trình khác có liên quan đến đề tài
luận văn như: Giáo trình lý luận chung về định tội danh, tập thể tác
giả do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân
dân, Hà Nội, 2003 [44]; Hoàng Văn Thành (2014), Kỹ năng xác định
tội danh trong vụ án hình sự, [48]; Lê Văn Luật
(2015), Bàn về định tội danh đối với một số tội xâm phạm sở hữu,
Đại học luật TP. HCM, [17, tr. 9-12]; Phạm Văn Beo (2014), Xung

đột quan điểm trong việc xác định tội danh,Tạp chí Luật học [1,
tr.15-21]; Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và
3


hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong Bộ luật hình sự
hiện hành, Nxb Tư pháp [19]; Cao Thị Oanh (2002), Vấn đề về mặt
chủ quan của đồng phạm, Tạp chí Luật học, (số 2) [20, tr. 19-21].
Các công trình nói trên đã đi sâu nghiên cứu lý luận và thực
tiễn hoạt động định tội danh hoặc vấn đề đồng phạm, xác định vai trò
đồng phạm. Tuy nhiên chưa có một công trình nào phân tích rõ các
đặc điểm và yêu cầu đặt ra khi định tội danh các vụ án có đồng
phạm. Điều này cho thấy việc lựa chọn đề tài định tội danh trong
trường hợp đồng phạm là đáp ứng nhu cầu thực tiễn và lý luận hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ lý luận và thực tiễn hoạt động
định tội danh trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện Thạnh
Phú, tỉnh Bến Tre, luận văn đề xuất các giải pháp góp phần định tội
danh đúng trong trường hợp đồng phạm theo quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục tiêu trên, luận văn đi sâu giải quyết các nhiệm vụ
cơ bản:
- Nghiên cứu làm rõ lý luận về hoạt động định tội danh trong
trường hợp đồng phạm.
- Nghiên cứu, làm rõ quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về định tội danh trong trường hợp đồng phạm.
- Khảo sát thực trạng, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và

nguyên nhân của hoạt động định tội danh trong trường hợp đồng
phạm trên địa bàn huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh trong
trường hợp đồng phạm trên địa bàn huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung, luận văn nghiên cứu định tội danh
trong trường hợp đồng phạm theo quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam; Do định tội danh là hình thức áp dụng pháp luật nên Luận
văn không nghiên cứu quy định của pháp luật thành một mục riêng.
Những quy định có liên quan sẽ được tác giả phân tích đan xen theo
từng vấn đề.
- Phạm vi về không gian: Luận văn chỉ nghiên cứu thực tiễn áp
dụng quy định của pháp luật hình sự về định tội danh trong trường hợp
đồng phạm tại huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
- Phạm vi về thời gian khảo sát: Từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là
phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; Các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước ta về định tội danh trong trường hợp đồng phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả sưu tầm, hệ thống,
nghiên cứu các văn bản pháp luật, các công trình nghiên cứu liên
quan đến hoạt động định tội danh trong trường hợp đồng phạm.

- Phương pháp thống kê, phân tích số liệu: Từ các báo cáo
tổng kết hoạt động định tội danh trong trường hợp đồng phạm của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú, Tòa án nhân dân huyện
Thạnh Phú qua các năm từ 2012 đến 2016.
5


- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tác giả khảo sát một số
bản án xét xử vụ án có đồng phạm để làm rõ các đặc điểm của hoạt
động định tội danh trong trường hợp đồng phạm.
- Phương pháp chuyên gia: Tác giả trực tiếp trao đổi, phỏng
vấn các chuyên gia như: Kiểm sát viên VKSND, Thẩm phán TAND
có các nghiên cứu khoa học và thực tiễn về hoạt động định tội danh
trong trường hợp đồng phạm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận
về chế định định tội danh trường hợp đồng phạm trong khoa học luật
hình sự Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bên cạnh việc hoàn thiện về mặt lý luận, với việc vận dụng,
phân tích các vụ án cụ thể và rút ra những vướng mắc thường gặp
trong quá trình giải quyết các vụ án đồng phạm, đề tài cũng có ý
nghĩa như một nguồn tài liệu tham khảo và vận dụng cho Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư đang trực tiếp tham gia
định tội danh trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn huyện Thạnh
Phú và cả nước nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương.

Chương 1. Những vấn đề chung về định tội danh trong trường
hợp đồng phạm.
Chương 2. Thực tiễn định tội danh trong trường hợp đồng
phạm tại huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
Chương 3. Các giải pháp nhằm đảm bảo định tội danh đúng
trong trường hợp đồng phạm.
6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
1.1. Khái quát về đồng phạm
Tội phạm có thể do một chủ thể thực hiện cũng có thể là sự
phối hợp cùng tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Khi một tội
phạm được thực hiện bởi nhiều người phạm tội thì việc xác định tội
danh và trách nhiệm hình sự đối với họ là rất phức tạp. Hành vi phạm
tội trong trường hợp đồng phạm phải xâm hại cùng khách thể. Do
vậy, để xác định những người đồng phạm có cố ý cùng thực hiện một
tội phạm hay không, cần phải xác định xem hành vi nguy hiểm cho
xã hội của những người trong đồng phạm thực hiện có xâm hại đến
cùng một quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ hay không và các
yếu tố khác. Cụ thể là:
Các dấu hiệu đặc trưng của đồng phạm
- Dấu hiệu về mặt khách quan của đồng phạm
Dấu hiệu thứ nhất, đồng phạm đòi hỏi phải có sự cùng tham
gia của hai người trở lên vào việc thực hiện tội phạm và những người
tham gia thực hiện tội phạm phải có đủ điều kiện của chủ thể tội
phạm, tức là phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực
trách nhiệm hình sự. Nếu họ không có hai điều kiện này hoặc thiếu

một trong hai điều kiện này thì vấn đề đồng phạm sẽ không đặt ra đối
với họ .
Dấu hiệu thứ hai, những người đồng phạm phải cùng thực hiện
tội phạm (cố ý). Điều này có nghĩa là những người tham gia bằng
hành vi của mình đều góp phần thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy
việc thực hiện tội phạm. Cố ý cùng thực hiện tội phạm đòi hỏi mỗi
người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một hoặc một số
7


hành vi sau: Hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện
tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội phạm, hành vi giúp sức thực
hiện tội phạm. Tương ứng với bốn hành vi này là bốn loại người
đồng phạm bao gồm: Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức
và người thực hành.
- Dấu hiệu về mặt chủ quan của đồng phạm
Đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều
có lỗi cố ý. Lỗi cố ý trong đồng phạm được thể hiện trên hai phương
diện:
Về lý trí, mỗi người đều biết hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã
hội cùng với mình.
Về ý chí, những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt
động chung, cùng mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả
phát sinh.
Ngoài hai dấu hiệu khách quan và chủ quan bắt buộc đã nêu,
đối với những tội phạm mà dấu hiệu cấu thành tội phạm có yếu tố bắt
buộc là mục đích thì đồng phạm còn đòi hỏi thêm dấu hiệu là “có
cùng mục đích”. Nếu không thỏa mãn dấu hiệu cùng mục đích sẽ
không có đồng phạm, trong trường hợp này những người tham gia sẽ

chịu trách nhiệm hình sự độc lập với nhau.
Các loại người đồng phạm
Khoản 2 điều 20 BLHS quy định về các loại người đồng
phạm, trong đó nêu rõ có bốn loại người đồng phạm, đó là: người tổ
chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức. Người tổ
chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những
người đồng phạm. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội
phạm. Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực
8


hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo những
điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
Các dạng đồng phạm
Căn cứ vào đặc điểm về mặt chủ quan thì đồng phạm được
phân loại thành: Đồng phạm không có thông mưu trước và đồng
phạm có thông mưu trước.
Đồng phạm không có thông mưu trước, hình thức này được
hiểu như sau:“Đồng phạm không có thông mưu trước là hình thức
đồng phạm trong đó không có sự thoả thuận bàn bạc với nhau trước
giữa những người đồng phạm hoặc là có sự thoả thuận nhưng không
đáng kể".
Đồng phạm có thông mưu trước:“Đồng phạm có thông mưu
trước là hình thức đồng phạm trong đó những người đồng phạm đã
có sự thoả thuận bàn bạc trước với nhau về tội phạm cùng thực
hiện”.
Dựa vào những đặc điểm về mặt khách quan có thể chia đồng
phạm thành hai loại là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.
Đồng phạm giản đơn:“Đồng phạm giản đơn là hình thức đồng

phạm trong đó những người cùng tham gia vào vụ phạm tội đều có
vai trò là người thực hành”.
Đồng phạm phức tạp:“Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng
phạm trong đó có một hoặc một số người tham gia giữ vai trò là
người thực hành, còn những người khác giữ vai trò xúi giục, tổ chức
hay giúp sức”.
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt mà định
nghĩa pháp lý của nó đã được các nhà làm luật nước ta ghi nhận tại
Khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015: “Phạm tội có tổ chức là trường
9


hợp đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực
hiện tội phạm”.
1.2. Lý luận về định tội danh trong trường hợp đồng phạm
1.2.1. Khái niệm định tội danh trong trường hợp đồng phạm
Khái niệm định tội danh
Theo PGS.TSKH Lê Cảm và Giáo trình luật hình sự Việt Nam
của Đại học Luật Hà Nội: Định tội danh là quá trình nhận thức lý
luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ
sở các chứng cứ các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của
vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật
khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt
pháp lý hình sự, làm tiền đề cho cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm
hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [4].
Theo Tiến sĩ luật Phạm Văn Beo thì, định tội là việc xác nhận
về mặt pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm

cho xã hội cụ thể đã được thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm
cụ thể tương ứng được quy định trong bộ luật hình sự [1].
Như vậy, định tội danh vừa là hoạt động tư duy vừa là hoạt
động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án) do người tiến hành tố tụng thực hiện nhằm
xác định về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
được thực hiện có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, được
quy định tại điều luật nào của Bộ luật Hình sự (đang có hiệu lực pháp
luật).

10


Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về định tội danh
trong trường hợp đồng phạm như sau: Định tội danh trong trường
hợp đồng phạm là hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật dựa vào các dấu hiệu cấu
thành tội phạm để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành
vi nguy hiểm cho xã hội của người thực hành đã thực hiện (trong mối
quan hệ với những người khác trong đồng phạm) với các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm tương ứng.
1.2.2. Đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh trong trường
hợp đồng phạm
1.2.2.1. Đặc điểm của việc định tội danh trong trường hợp
đồng phạm
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn định tội danh ở nước ta
cho thấy, định tội danh trong trường hợp đồng phạm có những đặc
điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hành vi phạm tội trong đồng phạm phải xâm hại
cùng khách thể.

Thứ hai, khi định tội danh trong đồng phạm cần xem xét dấu
hiệu về mặt khách quan của đồng phạm.
Thứ ba, trong đồng phạm thì hành vi của người thực hành là
căn cứ để định tội.
Thứ tư, ngoài những đặc điểm trên thì cũng cần lưu ý rằng, người
đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của
người thực hành.
1.2.2.2. Ý nghĩa của việc định tội danh trong trường hợp đồng
phạm
Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng các
quy phạm pháp luật hình sự. Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị
11


- xã hội, đạo đức và pháp luật rất lớn. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề
định tội danh có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác xét xử vụ án
hình sự.
1.2.3. Cơ sở và các bước định tội danh trong trường hợp
đồng phạm
1.2.3.1. Cơ sở của định tội danh trong trường hợp đồng phạm
Cơ sở khoa học của định tội danh trong trường hợp đồng
phạm
Cơ sở pháp luật của định tội danh trong trường hợp đồng
phạm
1.2.3.2. Các bước định tội danh trong trường hợp đồng phạm
Theo các nhà nghiên cứu thành hoạt động định tội danh có thể
được thực hiện theo những bước khác nhau nhưng tựu chung, chủ
yếu là theo các bước sau:
+ Bước 1: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, tóm tắt, xem xét, đánh giá,
phân tích hành vi của người thực hành, xác định chính xác các tình

tiết thực tế của vụ án trong sự phù hợp với thực tế khách quan. Như
trên đã phân tích, trong vụ án có đồng phạm thì người thực hành
đóng một vai trò rất quan trọng, hành vi phạm tội của người thực
hành là căn cứ để định tội.
+ Bước 2: Xác định khách thể loại của hành vi xâm hại (xác
định loại quan hệ xã hội bị xâm hại) và các quy phạm pháp luật hình
sự cần tìm ra hay còn gọi là: tìm ra tội danh và điều luật tương ứng
với hành vi đã thực hiện trong thực tế.
+ Bước 3: Kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự (CTTP cụ thể)
trong mối liên hệ với từng hành vi của người bị cáo buộc trong vụ
án.

12


Kết luận chương 1
1. Chương một của luận văn trình bày khái niệm đồng phạm là
trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm. Hay
nói cách khác, khi một tội phạm được thực hiện bởi ít nhất là hai chủ
thể và hai chủ thể đó thoả mãn dấu hiệu “cùng cố ý” thì trường hợp
đó tội phạm được coi là đồng phạm.
2. Định tội danh là một quá trình năng động và phức tạp, được
tiến hành qua tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Ở mỗi giai đoạn
quá trình định tội danh mang tính chất và những đặc điểm khác nhau.
Định tội danh như đã trình bày trong chương 1 đã đi đến kết luận về
định tội danh trong các trường hợp đồng phạm là việc xác định sự
phù hợp, chính xác hành vi phạm tội của những người đồng phạm đã
thực hiện với các quy định trong quy phạm pháp luật hình sự.
3. Định tội danh trong trường hợp đồng phạm là một trường
hợp cụ thể của hoạt động định tội danh nói chung. Do vậy, ngoài

những đặc điểm chung về định tội danh, còn có những đặc điểm
riêng.

13


Chương 2
THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TRONG TRƯỜNG HỢP
ĐỒNG PHẠM TẠI HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE
2.1. Thực tiễn định tội danh trong trường hợp đồng phạm
theo cấu thành tội phạm cơ bản
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của định tội danh
trong trường hợp đồng phạm trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự, trong 05 năm qua kể từ năm 2012 đến 2016, các cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng của huyện Thạnh Phú, tỉnh
Bến Tre đã tiến hành điều tra, truy tố và xét xử tổng cộng 229 vụ án
hình sự với 371 bị cáo; trong đó có 65 vụ án có đồng phạm với 209
bị cáo bị chiếm 28% số vụ và 56% số cáo. Số liệu cụ thể như sau
[36, 37, 38, 39, 40].
Năm 2012. Tòa án xét xử 41 vụ/58 bị cáo, trường hợp đồng
phạm có 11 vụ/28 bị cáo.
Năm 2013. Tòa án xét xử 44 vụ/67 bị cáo, trường hợp đồng phạm
có 13 vụ/36 bị cáo.
Năm 2014. Tòa án xét xử 49 vụ/99 bị cáo, trường hợp đồng phạm có
16 vụ/64 bị cáo.
Năm 2015. Tòa án xét xử 51 vụ/83 bị cáo, trường hợp đồng phạm có
12 vụ/44 bị cáo.
Năm 2016. Tòa án xét xử 44 vụ/64 bị cáo, trường hợp đồng phạm có
13 vụ/37 bị cáo.
Trong tổng số 229 vụ án/371 bị cáo có đồng phạm, trong 5

năm qua có 46 vụ/149 bị cáo bị truy tố và xét xử theo cấu thành cơ
bản chiếm 70% số vụ có đồng phạm và 71% số bị cáo phạm tội đồng
phạm. Trong 5 năm qua nhìn chung các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự của huyện Thạnh Phú đã khởi tố, điều tra, truy tố và đưa ra
14


xét xử 46 vụ/149 bị cáo phạm tội có đồng phạm theo cấu thành cơ
bản đều định tội danh đúng người đúng tội.
Tuy nhiên, trong việc định tội danh đối với các trường hợp
phạm tội có đồng phạm theo cấu thành cơ bản, từ thực tiễn tại huyện
Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre giữa CQĐT, VKSND, TAND vẫn còn một
số tồn tại hạn chế nhất định, thể hiện ở việc nhận thức áp dụng
BLHS và các văn bản hướng dẫn chưa thống nhất dẫn đến tình trạng
hồ sơ vụ án phải trả lại nhiều lần vì có quan điểm khác nhau về định
tội danh làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng tới chất
lượng và hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
2.2. Thực tiễn định tội danh trong trường hợp đồng phạm
theo cấu thành tội phạm tăng nặng
Trong 5 năm qua trên địa bàn huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre
CQĐT, VKSND, TAND đã phát hiện, khởi tố, truy tố và xét xử tổng
cộng 229 vụ/371 bị cáo phạm tội có đồng phạm, trong đó có 19
vụ/60 bị cáo phạm tội có đồng phạm cấu thành tăng nặng; chiếm
30% số vụ án có đồng phạm và chiếm 29% số bị cáo phạm tội đồng
phạm. Từ số liệu này cho thấy tội phạm có đồng phạm bị truy tố và
xét xử theo cấu thành tăng nặng chiếm một tỷ lệ khá cao trong các
tội phạm có đồng phạm.
Mặc dù có những khó khăn, phức tạp định tội danh trong
trường hợp đồng phạm theo cấu thành tăng nặng nhưng trong những
năm vừa qua, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến

hành tố tụng trên địa bàn huyện Thạnh Phú đã nhận thức vận dụng
sáng tạo pháp luật trong việc định tội danh từng trường hợp đồng
phạm theo cấu thành tăng nặng bảo đảm đúng pháp luật, đúng người
đúng tội.

15


Bên cạnh kết quả đạt được, trong 5 năm qua việc định tội danh
trong trường hợp đồng phạm theo cấu thành tăng nặng của các cơ
quan tiến hành tố tụng trên địa bàn huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre
qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Trong số 19 vụ/60 bị
cáo bị truy tố và xét xử theo cấu thành tăng nặng có 04 vụ/18 bị cáo
có kháng cáo hoặc kháng nghị tội do có quan điểm khác nhau về
định tội danh và áp dụng khung tăng nặng giữa VKSND với TAND.
2.3. Đánh giá về thực tiễn định tội danh trong trường hợp
đồng phạm tại huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre
2.3.1 Một số kết quả đạt được
Từ sự nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của việc định tội
danh trong trường hợp đồng phạm, trong 5 năm qua nhìn chung các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự của huyện Thạnh Phú đã khởi tố,
điều tra, truy tố và đưa ra xét xử bị cáo phạm tội có đồng phạm đều
định tội danh đúng người đúng tội, trong đó có những vụ án có nhiều
người tham gia được dư luận quan tâm đồng tình ủng hộ.
2.3.2. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình định tội
danh trong trường hợp đồng phạm tại huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến
Tre và nguyên nhân
2.3.2.1. Những khó khăn, vướng mắc đối với định tội danh
trong trường hợp đồng phạm tại huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre
Thứ nhất, việc phân hóa vai trò, mức độ tham gia của mỗi

người trong đồng phạm; phạm tội có tổ chức và đồng phạm thông
thường. Việc phân hoá trách nhiệm hình sự cho các bị cáo trong một
số vụ án hình sự có đồng phạm tham gia chưa thật sự rõ ràng.
Thứ hai, những khó khăn vướng mắc khi định tội danh đối với
các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe người khác trong trường hợp
đồng phạm. Người định tội danh không xác định chính xác các dấu
16


hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm các tội xâm phạm sức khỏe của
người khác có đồng phạm nên áp dụng pháp luật không đúng theo
tính chất, mức độ, hậu quả của tội phạm.
2.3.2.2. Nguyên nhân của của những khó khăn, vướng mắc đối
với hoạt động định tội danh trong trường hợp đồng phạm tại huyện
Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre
Thứ nhất, hạn chế trong quy định của pháp luật
Khái niệm về đồng phạm đã có trong lý luận khoa học nhưng
chưa được quy định trong điều luật.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm của người đồng phạm chưa
được quy định chính thức.
Thứ hai, các nguyên nhân khác
Sự nhận thức về những loại người trong đồng phạm của những
người tiến hành tố tụng có sự khác nhau.
Một lý do nữa cũng tác động rất lớn đến quá trình thực hiện
hoạt động định tội là sự tác động của kinh tế thị trường làm nhiều
cán bộ tha hóa, biến chất vì những động cơ khác nhau họ sẵn sàng bẻ
cong pháp luật, cố tình đưa ra nhận định không đúng bản chất của vụ
án, nghiêm minh của pháp luật.
Kết luận chương 2
1. Trong 5 năm qua nhìn chung các cơ quan tiến hành tố tụng

hình sự của huyện Thạnh Phú đã khởi tố, điều tra, truy tố và đưa ra
xét xử 46 vụ/149 bị cáo phạm tội có đồng phạm theo cấu thành cơ
bản; chiếm 70% số vụ có đồng phạm và 71% số bị cáo phạm tội
đồng phạm. Từ số liệu này cho thấy tội phạm có đồng phạm bị truy
tố và xét xử theo cấu thành cơ bản chiếm một tỷ lệ cao trong các tội
phạm có đồng phạm. Kết quả đã phát hiện, khởi tố điều tra tổng cộng
229 vụ/371 bị cáo phạm tội có đồng phạm, trong đó có 19 vụ/60 bị
17


cáo phạm tội có đồng phạm cấu thành tăng nặng hầu hết đều định tội
danh đúng người đúng tội, trong đó có những vụ án có nhiều người
tham gia được dư luận quan tâm đồng tình ủng hộ.
2. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc định tội danh trong
trường hợp đồng phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre trong 5 năm qua vẫn còn những tồn
tại, hạn chế nhất định. Trong số 65 vụ/209 bị cáo bị truy tố và xét xử
có đồng phạm có 12 vụ/57 bị cáo có kháng cáo hoặc kháng nghị tội
do có quan điểm khác nhau về định tội danh và áp dụng khung tăng
nặng giữa VKSND với TAND. Kết quả có một số vụ án TAND tỉnh
Bến Tre đã sửa bản án theo hướng áp dụng khung hình phạt nhẹ hơn
hoặc khung hình phạt tăng nặng hơn bản án quyết định sơ thẩm.
3. Những tồn tại trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp
luật hình sự trong việc định tội đối với vụ án có đồng phạm do những
nguyên nhân cơ bản về khách quan và chủ quan. Vì vậy cần có văn
bản hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể, rõ ràng và bao quát được những
tình huống phát sinh trên thực tế.

18



Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO ĐỊNH TỘI DANH
ĐÚNG TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
3.1. Tăng cường triển khai các biện pháp thi hành Bộ luật
hình sự năm 2015 và tiếp tục hoàn thiện những quy định có liên
quan đến định tội danh trong đồng phạm
Thứ nhất, Bộ luật hình sự năm 2015 đang chuẩn bị được thi
hành vào ngày 01/01/2018, phần lớn những hạn chế đã được khắc
phục. Do vậy, để bộ luật này được thi hành tốt, trước hết cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre cần
tổ chức các buổi phổ biến, tập huấn những nội dung mới của BLHS
năm 2015 nói chung trong đó có chế định đồng phạm nói riêng.
Thứ hai, cần có văn bản kịp thời hướng dẫn thi hành một số
quy định liên quan đến định tội danh trong trường hợp đồng phạm.
Thứ ba, những bất cập trên cần được tiếp tục nghiên cứu để
pháp luật hình sự ngày càng hoàn thiện hơn trong thời gian tới.
3.2. Nâng cao vai trò của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát
nhân dân, Tòa án nhân dân trong hoạt động định tội
danh trong trường hợp đồng phạm
Đối với hoạt động điều tra: Không ngừng nâng cao và hoàn
thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm, tạo mọi điều
kiện cho các cá nhân, tổ chức có thể cung cấp thông tin về tội phạm
được thuận lợi nhất.
Đối với hoạt động truy tố: Viện kiểm sát nhân dân phải tham
gia và kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra gắn hoạt động điều tra với
công tố.

19



Đối với hoạt động xét xử: Tiếp tục kiện toàn về tổ chức, tăng
cường hơn nữa công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án
trong sạch, vững mạnh; có lộ trình từng bước để bổ sung đội ngũ cán
bộ, Thẩm phán đủ về số lượng, chất lượng.
3.3. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận
chính trị của người định tội danh
Thứ nhất, nâng cao năng lực chuyên môn và bản lĩnh vững
vàng cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trong
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự
Việc trang bị kiến thức pháp luật cho người định tội danh là
cần thiết, bởi từ đó mới nắm bắt được các khái niệm, quy định về cấu
thành tội phạm. Trang bị kiến thức pháp luật để định tội danh được
chính xác không chỉ là pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, mà còn cần
kiến thức của các ngành luật khác có liên quan.
Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, bản
lĩnh nghề nghiệp cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Thứ hai, đề cao trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có đồng phạm
Đối với Điều tra viên: Điều tra là khâu đột phá, là giai đoạn
đầu giữ vai trò thành bại đối với cả tiến trình tố tụng hình sự, có thể
nói những sai lầm tư pháp nghiêm trọng nhất như bỏ lọt tội phạm,
làm oan người vô tội…thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra vụ án
hình sự.
Đối với Kiểm sát viên: Vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt
động kiểm sát điều tra vụ án hình sự là hết sức quan trọng trong việc

20



bảo đảm quyền con người, hạn chế tình trạng oan, sai trong giải
quyết vụ án hình sự và bảo đảm tính pháp chế.
Đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân: Trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự nói chung và các vụ án có đồng phạm nói riêng,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là thành phần của Hội đồng xét xử
có vị trí, vai trò rất đặc biệt.
Thứ ba, hiện nay Chính phủ đã đưa mô hình quản lý nguồn
nhân lực theo mô hình vị trí việc làm vào thực tiễn. Mô hình này tạo
ra sự khích thích và buộc cán bộ, công chức phải thường xuyên
nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng nghề
nghiệp để đảm bảo được vị trí, công việc mà mình đang và muốn
đảm nhận trong thời gian tới.
3.4. Chú trọng tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định
của pháp luật hình sự về các tội đồng phạm
Luôn coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, kiểm tra giải quyết
án hình sự của cấp sơ thẩm; phúc thẩm; giám đốc thẩm, tái thẩm đối
với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp
huyện bị kháng nghị. Ngoài ra, theo quy định hiện nay thì án lệ cũng
là một nguồn căn cứ pháp luật để áp dụng vào việc định tội
danh.Việc phát triển án lệ còn nhằm tránh sự tùy tiện của từng địa
phương khi xét xử các vụ án hình sự.
Kết luận chương 3
1. Đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt được thực hiện với
sự cố ý cùng tham gia của nhiều người. Mỗi người đồng phạm bằng
hành vi cụ thể của mình đều góp phần đảm bảo cho tội phạm được
thực hiện trên thực tế. Sự hỗ trợ, phối hợp cùng hành động của những
người phạm tội giúp họ củng cố quyết tâm phạm tội đến cùng. Chính


21


vì vậy, tội phạm được thực hiện dưới hình thức này thường có tính
nguy hiểm cao và gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
2. Đồng thời, Chương 3 của luận văn còn nêu kiến nghị cần
chú trọng tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình
sự về các tội có đồng phạm và giải pháp nâng cao chất lượng chuyên
môn của cán bộ định tội danh nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
định tội danh trong trường hợp đồng phạm như: Đề cao tinh thần
trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án
nhân dân trong công tác định tội danh trong trường hợp đồng phạm;
nâng cao trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ bản lĩnh chính trị
và kinh nghiệm công tác của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và
Thẩm phán trong hoạt động định tội danh các vụ án có đồng phạm.

22


KẾT LUẬN
1. Đồng phạm là chế định quan trọng của pháp luật hình sự
Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý để đấu tranh phòng chống các loại
tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm. Do vậy, việc
nghiên cứu về mặt lý luận để ban hành những văn bản quy định liên
quan đến chế định đồng phạm là rất cần thiết.
2. Lịch sử lập pháp của Việt Nam từ xưa tới nay, vấn đề định
tội trong trường hợp đồng phạm đã được đề cập, nghiên cứu ở nhiều
công trình, tác phẩm với những khía cạnh khác nhau. Các công trình,
tác phẩm này đều hướng tới mục tiêu chung nhất là ngày càng hoàn
thiện lý luận về mặt khoa học đối với các vấn đề liên quan đến định

tội trong trường hợp đồng phạm từ đó có được các quy phạm pháp
luật để xử lý một cách chính xác, đúng đắn nhất hành vi của người
đồng phạm.
3. Tuy nhiên, hành vi liên quan đến tội phạm của người đồng
phạm là rất đa dạng, phong phú, phức tạp. Điều đó đòi hỏi các nhà lý
luận và hoạt động thực tiễn phải luôn tìm tòi, nghiên cứu để bao quát
cũng như dự báo được những tình huống tội phạm do người thực
hành gây ra; lý giải và đưa ra được những giải pháp xử lý hành vi
của người đồng phạm trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
4. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề tài “Định tội danh trong
trường hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre”
luận văn đã rút ra nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc, từ
đó mạnh dạn đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của
BLHS liên quan đến các vụ án có đồng phạm cũng như các biện
pháp nhằm định tội danh đúng, chính xác và đầy đủ góp phần vào
việc phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả loại tội phạm này.

23


×