Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Phong cách nghệ thuật của nguyễn tuân qua chùa đàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.25 KB, 66 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

HOÀNG THỊ NĂM

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYỄN TUÂN QUA CHÙA ĐÀN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Đà Nẵng, tháng 05/2014


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYỄN TUÂN QUA CHÙA ĐÀN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Người hướng dẫn:
PGS.TS. Nguyễn Phong Nam

Người thực hiện:


HỒNG THỊ NĂM
(Khóa 2010 -2014)

Đà Nẵng, tháng 05/2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan rằng:
Cơng trình này do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của giảng viên –
PGS.TS. Nguyễn Phong Nam. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực của
nội dung khoa học trong cơng trình này.

Đà Nẵng, ngày 30 tháng 5 năm 2013
Sinh viên

Hoàng Thị Năm


LỜI CẢM ƠN
Xin được ghi lại nơi đây lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo – PGS.TS
Nguyễn Phong Nam, người đã hết lịng động viên, khuyến khích và hướng
dẫn tận tình để tơi hồn thành khóa luận này.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến quý thầy cô giáo trong khoa
Ngữ văn, cán bộ nhân viên Thư viện trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà
Nẵng đã tạo điều kiện, quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài
này.
Đà Nẵng, ngày 30 tháng 5 năm 2013
Sinh viên

Hoàng Thị Năm



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
5. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CHÙA ĐÀN - NÉT ĐỘC ĐÁO
CỦA PHONG CÁCH NGUYỄN TUÂN ....................................................... 8
1.1. Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ đa tài .......................................................... 8
1.1.1. Cuộc đời .................................................................................................. 8
1.1.2. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân ............................................. 10
1.2. Chùa Đàn – sự kết hợp độc đáo của nhiều đề tài .................................... 15
1.2.1. Đề tài yêu ngôn ..................................................................................... 15
1.2.2. Đề tài người chiến sĩ cách mạng ........................................................... 17
1.3. Nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật .................. 19
1.3.1. Hình tượng con người tài hoa, tài tử ..................................................... 19
1.3.2. Hình tượng tác giả trong Chùa Đàn ...................................................... 26
1.4. Không gian đậm chất “liêu trai” trong Chùa Đàn ................................... 30
1.4.1. Không gian quá vãng ............................................................................ 30
1.4.2. Không gian ngoại cảnh hư thực ............................................................ 33
CHƯƠNG 2. PHONG CÁCH NGUYỄN TUÂN QUA NGHỆ THUẬT
KỂ CHUYỆN TRONG CHÙA ĐÀN ........................................................... 36
2.1. Nét độc đáo của cốt truyện Chùa Đàn ..................................................... 36
2.1.1. Cốt truyện mang đậm chất truyền kỳ dân gian ..................................... 36
2.1.2. Cốt truyện có tính chất luận đề ............................................................. 37



2.2. Giọng điệu kể chuyện đặc sắc, đầy cá tính .............................................. 38
2.2.1. Giọng điệu khinh bạc ............................................................................ 38
2.2.2. Giọng điệu trang nghiêm, cổ kính......................................................... 40
2.2.3. Giọng điệu triết lí .................................................................................. 42
2.3. Ngôn từ nghệ thuật giàu sức biểu hiện .................................................... 43
2.3.1. Ngôn từ uyên bác .................................................................................. 43
2.3.2. Ngôn từ giàu tính tượng thanh, tượng hình .......................................... 46
2.4. Yếu tố kì ảo trong Chùa Đàn ................................................................... 48
2.4.1. Không gian – thời gian kì ảo ................................................................. 48
2.4.2. Chân dung nhân vật kì ảo, dị thường .................................................... 52
2.4.3. Cách sử dụng mơ típ kì ảo trong Chùa Đàn ......................................... 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 59


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dịng chảy thời gian cứ trôi đi theo năm tháng nhưng những tác phẩm
của Nguyễn Tuân vẫn tồn tại mãi và để lại trong lịng của độc giả nhiều dấu
ấn khó phai. Để có sự thành cơng như vậy thì Nguyễn Tn đã sử dụng vốn
hiểu biết phong phú trên nhiều lĩnh vực, với năng lực thẩm mĩ sắc sảo và lối
viết tài hoa để làm nên những tác phẩm như: “Chữ người tử tù – là một trong
những áng văn vào hàng đẹp nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại” [1,
tr.137] hay “một trong những truyện ngắn cổ điển trong lịch sử văn học Việt
Nam” [5, tr.251]. Tác phẩm văn chương đạt đến trình độ, chỗ đứng như vậy
thì chỉ có ở những nhà văn tài năng, bản lĩnh. Và Nguyễn Tn chính là một
trong những tài năng hiếm có của văn học Việt Nam.
Là một nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam đương đại, với hơn

nửa thế kỉ cầm bút, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có giá trị
như tác phẩm đầu tay Vang bóng một thời – tác phẩm báo hiệu một tài năng
xuất chúng đã ra đời, Thiếu quê hương, Tóc chị Hồi, Chùa Đàn, Đường vui,
Sơng Đà, Ký… Từ đấy Nguyễn Tuân tạo được một phong cách riêng độc đáo.
Ơng chọn cho mình một con đường sáng tác, một lối đi riêng để rồi khi đọc
những tác phẩm của ơng thì chúng ta thấy khơng có sự trộn lẫn với những nhà
văn đương thời. Bởi Nguyễn Tuân lúc sinh thời là một người nghiêm chỉnh
tuyệt đối trong công việc, q trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với
ơng, nghệ thuật là một hình thức lao động nghiêm túc, thậm chí là “khổ
hạnh”.
Chùa Đàn – một tác phẩm được Nguyễn Tn viết như rút từ xương
thịt mình. Hồng Như Mai cho rằng: “Chùa Đàn ấy là tất cả nhà văn Nguyễn
Tuân, một Nguyễn Tuân toàn vẹn, tinh hoa tư tưởng, tài hoa văn chương” [2,


2
tr.241]. Một tác phẩm từ khi ra đời và đứng trên diễn đàn văn học ln tạo
được vị trí khó phai. Nó độc đáo về cả tư tưởng, nội dung, cốt truyện, ngơn
ngữ… nhưng lại ít người nghiên cứu một cách trọn vẹn mà chỉ dừng lại ở
phần Tâm sự nước độc. Với mong muốn nghiên cứu toàn bộ nét độc đáo của
truyện Chùa Đàn để thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo nên chúng tôi
chọn đề tài: “Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua Chùa Đàn” để
nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Tuân là tác gia tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại
với khối lượng tác phẩm đồ sộ và có phong cách nghệ thuật độc đáo. Con
người và văn chương Nguyễn Tuân luôn là đề tài gây được sức hấp dẫn cho
giới độc giả và các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong số các nhà nghiên cứu
tâm huyết với nhà văn Nguyễn Tuân thì phải kể đến Giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh. Bên cạnh đó thì các nhà nghiên cứu như: Giáo sư Phong Lê, Giáo sư

Phan Cư Đệ, Giáo sư Trương Chính, nhà văn Vũ Ngọc Phan, các nhà nghiên
cứu Ngọc Trai, Vương Trí Nhàn, Hà Văn Đức cũng nghiên cứu một cách bao
quát về Nguyễn Tuân từ cuộc đời, sự nghiệp văn chương đến những hồi ức, kỉ
niệm của họ đối với nhà văn Nguyễn Tuân… Thực hiện đề tài này thì chúng
tơi đã tập hợp những tư liệu về nhà văn Nguyễn Tuân và chia ra làm ba xu
hướng chính xung quanh việc nghiên cứu về Nguyễn Tuân:
Thứ nhất là các bài viết về cuộc đời và tác phẩm nói chung. Đó là
những bài viết của người thân, bạn bè, những nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình
từng gặp gỡ, tiếp xúc, có thời gian sống cùng Nguyễn Tuân hoặc làm công tác
nghiên cứu về ông. Kể đến như:
Vợ nhà văn Nguyễn Tuân – Vũ Thị Tuệ là người tuy không thể kề vai
sát cánh trên những chặng đường phiêu du lãng tử của chồng nhưng lại là
người chăm lo từng chút chi li về thức ăn, nước uống, từng sở thích khi người


3
nghệ sĩ này dừng chân ở nhà và những tháng ngày cuối đời. Vũ Thị Tuệ là
người phụ nữ rất tần tảo, chịu thương chịu khó. Lấy được bà, có lẽ là may
mắn rất lớn với nhà văn Nguyễn Tuân. Với sự chăm sóc, quan tâm chu đáo thì
bà đã chỉ ra những thói quen ăn uống của Nguyễn Tuân trong bài Chồng tơi:
“Nhà tơi hay ăn vặt, ít ăn cơm. Bữa nào cũng chỉ khoảng một bát rồi một ít
cơm cháy. Nhà tơi cũng ăn uống cầu kì, nhưng nhiều khi khá đơn giản, thích
ăn trứng với ăn cơm. Hàng ngày nhà tơi ăn gì cũng được, nhiều khi một đĩa
rau luộc cũng xong. Nhưng bát đũa phải đẹp, nhất định phải đẹp, phải sạch”
[16, tr.309].
Trong cuốn sách Nguyễn Tuân cây bút tài hoa và độc đáo mà Phương
Ngân tuyển chọn và biên tập với sự tham gia của nhiều tác giả nghiên cứu,
phê bình về nhà văn Nguyễn Tn thì trong đó có tác giả Sỹ Ngọc trong bài
Nhớ nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: “Anh sống và viết từ lúc bắt đầu cho đến
sau này chỉ nhằm mục đích cho cái chân lí, cái đẹp, cái thiện. Anh căm ghét

sự giả dối, bọn cơ hội, bọn nịnh nọt, bọn tham quan ơ lại dù dưới lốt gì, dưới
nhãn hiệu gì” [16, tr.392]. Cịn tác giả Vũ Bằng trong bài Quên làm sao được
đã nhận xét về hành động lập dị của Nguyễn Tuân như sau: “Trong khi người
ta mặc quần Tây, anh mặc gấm huyền, đội khăn; mùa nực, cầm cái quạt đánh
chó phải chết để phẻ phây; nói thì rấm rẳng, đang vui câu chuyện ngừng phắt
lại, nhăn cái mũi cười rồi thơi, khơng nói nữa; đi ăn thì lè khè nhấm nháp, lấy
hai ngón tay nhón cái chân chim bồ câu bỏ lị, ăn chậm như rùa mà chỉ ăn có
hai cái chân thơi cịn cả con chim thì lấy ta ngoắt phổ ky lại” [16, tr.374].
Trong cuốn sách Đến với Nguyễn Tuân của Ngô Viết Dinh tuyển chọn
và biên soạn có một bài viết của nhà văn Kim Lân – một người đồng nghiệp
đồng thời là người bạn với Nguyễn Tuân đã nhận xét: “Anh vốn là người yêu
hoa, quý hoa. Trong phòng viết của anh quanh năm khơng lúc nào khơng có
hoa” [1, tr.69].


4
Nguyễn Tn thích đi, đi để thốt những cảnh đời tù túng, để tìm
những cảm hứng lạ, để tự giải thoát. Bà Vũ Thị Tuệ đã khẳng định: “Điều vui
thú nhất của nhà tôi là được đi. Cho đến nay, đã ngồi 70 tuổi, nhà tơi vẫn
thích đi” [16, tr.308].
Qua những lời tâm sự, nhận xét về Nguyễn Tuân ta phần nào thấy được
cá tính, sở thích… trong con người Nguyễn Tuân. Giữa cuộc đời và tác phẩm
cũng có sợi dây vơ hình kết nối với nhau. Các tác phẩm của Nguyễn Tuân
trước Cách mạng tháng Tám đều thể hiện vẻ đẹp “vang bóng một thời”, “chủ
nghĩa xê dịch” và “đời sống truy lạc”. Vang bóng một thời là một cuốn sách
khi ra đời đã gây được tiếng vang lớn trong làng văn, mang lại danh tiếng và
hoàn chỉnh một bút pháp cho ngòi bút Nguyễn Tuân. Vũ Ngọc Phan nhận
định tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân: “văn giới Việt Nam phải chú ý đến
lối hành văn đặc biệt của ông và những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn bằng
những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc” [14, tr.37]. Trương Chính cũng

cho rằng, “ơng là nhà văn độc lập và độc đáo về hành văn cũng như về mặt tư
tưởng, (…) Nguyễn Tuân là nhà văn chủ quan nhất trong các nhà văn, chưa
có một người nào chun nói về mình một cách lộ liễu, khơng che giấu như
thế (…). Truyện ngắn, truyện dài của ông tất thảy đều là những thiên tùy bút
trá hình. Vì vậy, nói đến tác phẩm Nguyễn Tuân là nói đến con người ông”
[14, tr.53].
Sau Cách mạng tháng Tám 1945 Nguyễn Tuân đã trải qua một cuộc
“lột xác” đầy gay go. Bắt đầu từ đây, nội dung và tư tưởng trong tác phẩm
văn chương của Nguyễn Tuân bước sang một ngã rẽ mới, ơng chân thành đem
ngịi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc. Các tác phẩm thành công của
Nguyễn Tuân trong giai đoạn này phải kể đến như: Đường vui (1949), Tình
chiến dịch (1950), Sơng Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972).


5
Thứ hai là những bài nghiên cứu về phong cách nghệ thuật của nhà văn
Nguyễn Tuân.
Tác phẩm Chữ người tử tù được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là áng
văn hay nhất trong tập Vang bóng một thời. Đồng thời Chữ người tử tù và
Bữa rượu máu là hai truyện ngắn thể hiện rõ tinh thần dân tộc của nhà văn
Nguyễn Tn. Thành cơng được như vậy chính là việc nhà văn đã xây dựng
nên hệ thống nhân vật: “Đó là những con người tài hoa hoạt động trong
những hoàn cảnh mơi trường đặc biệt phi thường. Ơng phát hiện, miêu tả cái
vẻ đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật” [1, tr. 178] theo nhận định của
Nguyễn Đức Quyền.
Hay trong bài luận văn nghiên cứu về Phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân qua Yêu ngôn của Nguyễn Phạm Ngọc Thủy, tác giả đã cho rằng: “Nói
đến Nguyễn Tuân là nói đến một phong cách sống, một phong cách viết độc
đáo, tạo dựng một thế giới riêng của ông” [23, tr.40]
Thứ ba là các bài viết nghiên cứu về tác phẩm Chùa Đàn. Chùa Đàn

theo đánh giá của Giáo sư Nguyễn Như Mai: “là tác phẩm đặc sắc nhất của
nhà văn”. Đồng quan điểm với Giáo sư thì tác giả Trọng Đạt trong bài viết
Chùa Đàn – truyện quái dị cuối cùng của Nguyễn Tuân đã khẳng định: “Chùa
Đàn là truyện ma quỷ của Nguyễn Tuân viết vào năm 1945 đã được một số
nhà phê bình coi như tác phẩm đặc sắc nhất của ơng, có thể nói đã đạt tới tột
đỉnh của nghệ thuật” [2, tr.1].
Tuy nhiên, tác phẩm này theo một số nhà nghiên cứu thì nó gặp những
hạn chế. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Đọc lại Chùa Đàn của
Nguyễn Tuân: “Hai mạch văn được kết lại trong một tác phẩm. Nhưng sự kết
hợp quả đã khơng lấy gì làm nhuần nhuyễn lắm” [16, tr.267]. Trên vấn đề
nghiên cứu về tác phẩm Chùa Đàn, tác giả trẻ Nguyễn Kiều Trang cũng đã
đưa ra nhận xét của mình trong bài Yếu tố kì ảo trong Chùa Đàn của Nguyễn


6
Tuân: “Dựng và Mưỡu cuối không thực sự ăn nhập với Tâm sự của nước độc
khi ông đưa nhân vật Lãnh Út trở thành cán bộ cách mạng tên Lịnh (Dựng) và
kêu gọi cô Tơ – nay là sư thầy Tuệ Không – vứt bỏ kinh kệ, trở lại với cuộc
đời (Mưỡu cuối)” [19, tr.594].
Và các nghiên cứu về tác phẩm Chùa Đàn chỉ dừng lại nghiên cứu
phần Tâm sự nước độc, bởi nó là cốt lõi. Đồng thời nó có thể tồn tại độc lập
mà khơng cần hai phần kia. Để khi nhắc đến Chùa Đàn người ta nghĩ ngay nó
như là một minh chứng cho cốt truyện yêu ma đầy hư ảo.
Như vậy, có thể thấy các nhà nghiên cứu cũng rất quan tâm và chọn
nhiều đề tài về Nguyễn Tuân để nghiên cứu. Tác phẩm Chùa Đàn là truyện
hay tuy nhiên các nhà nghiên cứu chỉ dừng lại nghiên cứu ở một số khía cạnh
nhất định như yếu tố kì ảo, hệ thống nhân vật… Ở đề tài này chúng tôi xin
chọn: “Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua Chùa Đàn” để nghiên
cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu về “Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua Chùa Đàn”,
chúng tôi sẽ đề cập đến những nét độc đáo thuộc phong cách nhà văn Nguyễn
Tuân qua tác phẩm Chùa Đàn như: thế giới nghệ thuật, cốt truyện, ngôn từ,…
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm Chùa Đàn mà chúng tôi sử dụng để nghiên cứu ở luận văn
nằm trong Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội của tác giả
Lữ Huy Nguyên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp tiểu sử
- Phương pháp phân tích


7
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp hệ thống cấu trúc
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn gồm 2 chương.
Chương 1: Thế giới nghệ thuật Chùa Đàn – nét độc đáo của phong
cách Nguyễn Tuân
Chương 2: Phong cách Nguyễn Tuân qua nghệ thuật kể chuyện trong
Chùa Đàn


8
CHƯƠNG 1.
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CHÙA ĐÀN – NÉT ĐỘC ĐÁO CỦA
PHONG CÁCH NGUYỄN TUÂN


1.1. Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ đa tài
1.1.1. Cuộc đời
Nhà văn Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại phố Hàng
Bạc – Hà Nội. Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng rất lớn từ truyền thống của gia
đình, đặc biệt là từ người cha – ông Tú Hải Văn, một nhà nho tài hoa đậu
khoa thi Hán học cuối cùng, nhưng suốt đời phải chịu bất đắc chí dưới chế độ
phong kiến. Nhắc đến Nguyễn Tuân người ta thường nghĩ đến cái bệnh xê
dịch của ông. Cái bệnh xê dịch ấy, Nguyễn Tuân đã tự nhận là mình có, mà
nó là một bệnh di truyền nữa. Nó di truyền từ người ơng nội đến người cha
đáng kính của mình. Tính xê dịch này đã thấm sâu vào máu của người lãng tử
Nguyễn Tuân.
Tuy sinh ra ở Hà Nội nhưng thuở nhỏ Nguyễn Tuân theo gia đình sống
nhiều ở các tỉnh miền Trung: Khánh Hịa, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế,
Hà Tĩnh, nhất là Thanh Hóa. Những tháng ngày đó đã tạo nên sự “xê dịch”
ngay từ thời thiếu niên. Chưa đầy 20 tuổi, bố mẹ đã cưới vợ cho Nguyễn
Tuân, đó là bà Vũ Thị Tuệ – người con gái Hàng Đào đảm đang, chăm chỉ.
Bà rất quý và phục Nguyễn Tuân. Bà không muốn làm phiền ơng vì vậy bà tự
ni dạy và chăm sóc các con. Một mực tin chồng và để chồng dồn tâm trí
vào cơng việc, sở thích riêng tư của mình. Chính nhờ vậy mà ơng đã có thời
gian để được đi đây đi đó thỏa chí xê dịch và có thời gian vào sáng tác của
mình. Ngồi ra thì thiên hướng giai cấp và gia đình khiến ơng chú ý nhiều
hơn đến phong tục hưởng lạc đài các của tầng lớp quý tộc phong kiến.


9
Nguyễn Tuân còn chịu ảnh hưởng rất lớn của nền văn hóa cổ truyền
dân tộc, những phong tục tập quán, nề nếp thời xưa nhưng đang tàn dần và
biến đổi vì sự xâm nhập của văn minh máy móc và văn hóa phương Tây đang
ồ ạt truyền vào Việt Nam. Ông được học tập, đắm mình trong cái nền văn hóa

của dân tộc. Với văn chương của các bậc nhà nho đi trước như Nguyễn Du,
Cao Bá Quát, Trần Tú Xương. Vì vậy mà trong các tác phẩm của ơng sau này
có phảng phất tư tưởng, hình tượng của các nhà nho như: cái dọc ngang
không khuất phục trước số phận, cuộc đời, xã hội của Cao Bá Quát; nụ cười
châm biến mỉa mai của Tú Xương vào những sự thật đang phơi bày trong
cuộc sống hằng ngày. Hay đó là một Nguyễn Du với một tài năng xuất chúng
viết về kiếp người nghệ sĩ phải đứng trước cái mệnh và cái tài. Vì vậy mà
nhiều nhà văn, nhà phê bình đã nhận xét về văn Nguyễn Tn vừa có vẻ trang
nhã cổ kính vừa sắc bén, hiện đại. Và cái hiện đại này một phần nào được
Nguyễn Tuân tiếp thu từ vốn hiểu biết, được học hành, tiếp xúc đến nơi đến
chốn từ văn học phương Tây. Cũng như các nhà văn cùng thời, Nguyễn Tuân
cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của văn học Pháp và Nga đang du nhập và thịnh
hành ở nước ta trong giai đoạn đó. Và nhà văn ảnh hưởng trực tiếp đến
Nguyễn Tuân phải kể đến là Gide – một nhà văn với chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa hư vơ. Ngồi ra, Sêkhốp và Đơtxtơiépxki là hai nhà văn gần gũi và ít
nhiều cũng ảnh hưởng đến sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân sau này.
Năm 1929, Nguyễn Tuân bị đuổi học và không được nhận vào bất cứ
cơng sở nào vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối giáo viên người Pháp nói
xấu người Việt Nam.
Năm 1930, ơng cùng một số bạn học “xê dịch” vượt biên giới qua Lào
và sang Thái Lan, đến Băng Cốc thì bị bắt đưa về giam tại Thanh Hóa. Hết
hạn tù, ơng lại tiếp tục một cuộc hành trình vào Nam bộ nhưng mới vào đến
Vinh thì bị bắt và đưa ra quản thúc tại Thanh Hóa.


10
Nguyễn Tuân đi nhiều, ông đi đến những vùng đất xa xôi nhất của đất
nước như Tây Bắc, đi trên những vùng trung du, núi rừng, đồng bằng Bắc Bộ,
Khu III, Khu IV. Đến những trận tuyết bom lửa ở Vĩnh Linh, để rồi có những
cảm xúc, những kinh nghiệm, tư liệu cho các tác phẩm kí sự, tùy bút của

mình. Tác giả cịn vào đến tận mũi Cà Mau năm 1976, tham quan Cơn Đảo
1977, đi Hà Tun 1978…
Ơng tham gia hoạt động văn học nghệ thuật tai Hội nhà văn cho đến lúc
mất vào ngày 28/07/1987 tại Hà Nội.
1.1.2. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân bắt đầu sự nghiệp cầm bút, ông bước vào nghề làm báo
và viết văn. Ông viết các bài viết trên báo Trung Bắc Tân Văn, Đơng Tây, An
Nam tạp chí, Tiểu thuyết thứ bảy với các bút danh như: Ngột Lôi Quật, Thanh
Hà, Nhất Lang, Tuân, Tuấn Thừa Sắc... Ông sáng tác với nhiều thể loại như
truyện ngắn, kí, thơ, hát nói… Nguyễn Tuân thật sự để lại tiếng vang trên văn
đàn vào năm 1938 khi tập Vang bóng một thời được in và xuất bản. Những
năm tiếp theo ông đã sáng tác nên nhiều tác phẩm như: Thiếu quê hương, Nhà
Nguyễn, Đôi tri kỉ gượng, Tàn đèn dầu lạc, Chiếc lư đồng mắt cua…
Người ta biết đến Nguyễn Tuân là một người tài tử mắc cái bệnh ham
mê thanh sắc, thích chiêm nghiễm chắt chiu cái đẹp và nhắm nháp những cái
đẹp mới lạ. Vì vậy quan điểm duy mỹ có trong ơng là một lẽ tất yếu. Và ơng
là một trong những môn đồ của thuyết “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Chỉ chú
trọng cái đẹp hình thức khơng cần nội dung, ông quan niệm “viết văn không
khuynh hướng”, muốn đặt nghệ thuật đứng trên mọi thứ thiện ác ở đời. Vì vậy
mà quan điểm nghệ thuật này tách rời hiện thực xã hội, không chịu gánh lấy
một trách nhiệm xã hội nào.
Cái đẹp được Nguyễn Tuân khai thác từ các khía cạnh là những giá trị
văn hóa cổ truyền của dân tộc. Hầu hết các tác phẩm trước Cách mạng được


11
Nguyễn Tuân gửi vào đó hồn của văn hóa dân tộc, đó là những cái đẹp thanh
cao, tao nhã hay đó là cái đẹp thốt ly của một kẻ giang hồ lữ thứ trước bạ
cuộc đời của mình vào địa dư của trái đất. Ngồi ra thì có cái đẹp hư cấu, ma
quái được đưa đến tuyệt cùng của nghệ thuật cũng có trong các tác phẩm của

Nguyễn Tuân. Bởi khơng tìm được cái đẹp hiện hữu trong cuộc đời thực,
Nguyễn Tuân quay trở về tìm kiếm nét đẹp xưa của một thời vang bóng. Ơng
ca ngợi, lý tưởng hóa cuộc sống của ông nghè, ông cử sống với một cuộc
sống thanh đạm, với những thú vui rất tao nhã như uống trà, đánh thơ, thả
thơ… Đó là những thú tiêu dao, hưởng lạc của những con người ở thời ấy.
Ông hết sức nâng niu, trân trọng và than tiếc những giá trị cổ xưa của dân tộc
đã qua, và Nguyễn Tuân đã cố sức làm sống lại một thời xưa cũ đã qua trong
các tác phẩm của tập Vang bóng một thời.
Những chiếc ấm đất, Hương cuội, Chén trà trong sương sớm những tác
phẩm này được Nguyễn Tuân tái hiện lại cái thú uống trà của các cụ ngày
xưa, đó khơng phải chỉ một cử chỉ ăn uống tầm thường, mà đó là tất cả những
lễ nghi, nhịp điệu, có bài bản, phảng phất tinh hoa trà đạo của Nhật Bản qua
cách uống.
Đến truyện Thả thơ ta còn khâm phục tài năng của Nguyễn Tuân khi
lột tả được thần thái, phong cách tài hoa của những con người trước những
đam mê tao nhã về văn chương. Và ta có thể mượn một đoạn mà Văn Tâm đã
đánh giá ngắn gọn về cái đẹp cổ truyền trong tập Vang bóng một thời để diễn
tả hết những gì mà Nguyễn Tuân đã cố đi tìm trong khoảng lặng của thời đã
qua: “uống đẹp (Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm); nhắm đẹp
(Hương cuội); chơi đẹp (Thả thơ, Đánh thơ, Đèn đêm thu tức một cảnh thu
muộn); ứng xử đẹp (Ngôi mã cũ); hoa tay đẹp (Trên đỉnh non Tản), tài nghệ
đẹp (Những người bất đắc chí) và nhân cách đẹp (Chữ người tử tù)” [16,
tr.243]


12
Cái đẹp còn được Nguyễn Tuân chú trọng và đề cập đến nhiều trong
các tác phẩm của mình đó là những con người tài hoa, tài tử. Một Huấn Cao
“nghĩa khí”, “ngồi cái tài viết chữ tốt cịn có tài bẻ khóa và vượt ngục”, một
người đã lấy tài năng của mình ra để thức tỉnh thiên lương của một con người

chọn nhầm nghề (Chữ người tử tù). Đó là cảnh chém treo ngành sành điệu,
ngoạn mục của tên đao phủ (Bữa rượu máu) hay cái đẹp của bọn cường hào
với nghệ thuật “ném bút chì” (Một đám bất đắc chí).
Với những tác phẩm nằm trong thể tài “u ngơn”, Nguyễn Tuân đã
xây dựng nên những nhân vật tài hoa mang một nét đẹp pha chút hiện thực
lẫn ma quái. Cơ Dó (Xác ngọc lam) vốn là cơ tiên, là thần cây dó, trót yêu cậu
Năm nhà họ Chu nên đã rời bỏ chốn non ngàn xi với dịng sơng Tô Lịch,
với làng Hồ Khẩu, về làm bạn với người trần và trở thành linh hồn nghề giấy
nhà họ Chu. Cậu Năm trăm tuổi đi rồi, chỉ cịn lại cơ Dó với tiếng hát buồn
“Chu Ngũ Lương Hồi Nhân Khúc” mênh mang, u uẩn trên sóng nước Hồ
Tây những đêm quạnh vắng. Vì tình u với cậu Năm, cơ khơng quay về đại
ngàn, mà quyết ở lại giúp lũ con cháu của cậu Năm giữ nghề, cho đến khi
“dân trung châu hạ bạn tuyệt nghề làm giấy”. Đời này qua đời khác, nguồn
sống của người đàn bà chung tình ấy là đêm đêm phả hồn vào những trang
giấy quáy và hát những “tiếng tương tư thê thảm” vì nhớ chồng. Số phận đẩy
đưa, cô lọt vào tay một kẻ ô trọc, cơ chết vì người trần đó khơng biết giả
ngọc, cơ chết vì đã mặc trên mình chiếc áo màu lam nhưng đã “xé xơ ra cho
nó thành tấm áo trảm thơi và mớ tóc tang rối như xơ dó vấn vội”, trên tay vẫn
cầm tập “Chu Ngũ Lương Hoài Nhân Khúc”, miệng “ngậm kín một khóe cười
chưa kịp nở hết”, đó phải chăng là một nụ cười hạnh phúc vì cuối cùng cơ
cũng được đến thế giới của người chồng đã mất cả trăm năm.
Năm 1943, ông tiếp tục cho xuất bản tập Tùy bút II, Tóc chị Hồi. Và
trong thời gian này thì loạt truyện u ngơn ra đời.


13
Năm 1945, tác phẩm Chùa Đàn – kiệt tác nghệ thuật ra đời đánh dấu sự
thành công vang dội của tác giả.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân thực sự “lột xác”, các tác
phẩm của ơng đã có sự chuyển hướng về chủ đề, tư tưởng, nội dung. Cuộc

chuyển biến tư tưởng, thay đổi tư duy nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của
Nguyễn Tuân là cả quá trình phức tạp và đầy gian khổ. Các tác phẩm: Đường
vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến và hịa bình (tập I –
1953, tập II – 1956), Sơng Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)… đánh
dấu những chặng đường của một cây bút độc đáo và tài hoa trên con đường
nghệ thuật gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất nước. Từ đó, ơng thốt
khỏi những bế tắc của cuộc sống và sáng tác nghệ thuật, đem đến cho ông
một nguồn cảm hứng sáng tạo mới và ơng thực sự cảm thấy mình được hịa
chung trong mọi người và niềm vui của dân tộc: “Mê say với những ánh sáng
trắng vừa được giải phóng, tơi đã là một dạ lữ khách không mỏi quên ngủ của
một đêm phong hội mới. Ban ngày nếu không đi biểu tình thì đi Hàng Đào
xem người ta dọn hàng đỏ đông cứ như họp chợ. Cờ nhớn, cờ nhỏ. Phố Hàng
Đào đã mang tên là phố Hàng Cờ, đỏ rực một góc trời (…). Lịng khỏe chưa
đủ. Thân hình cũng phải khỏe nữa. Tơi liền đi cạo râu. Tình cờ gặp lại anh
bạn cũng vừa đi cạo phăng bộ râu quai nón xanh rậm mọi ngày. Chúng tơi đã
ơm nhau mà mừng ra nước mắt như hai con bệnh già mới uống liều thuốc cải
lão hoàn đồng” (Ngày đầu tuổi cách mạng).
Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn còn mang trong mình nghệ thuật cái
đẹp của ngày trước, nhạy cảm với cái đẹp và nhìn sự thật nghiêng về góc độ
thẩm mỹ. Nhưng tác giả đã nhìn cái đẹp dưới ánh sáng của quan niệm giai
cấp, dưới góc độ của những vấn đề xã hội. Tác phẩm Xòe đã thể hiện rõ cái
đẹp sau Cách mạng. Với tác phẩm này, Nguyễn Tuân lại tập trung ghi “một
số cảm xúc nặng nề về mặt xã hội hơn là kĩ thuật vũ đạo và vũ thuật”. Đó là


14
điểm chuyển biến, đổi mới trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng.
Nếu như trước đây trong tác phẩm Chùa Đàn, Nguyễn Tuân đã xây dựng
nhân vật Bá Nhỡ đã đánh đổi cuộc đời của mình cho nghệ thuật, “bốn dây rỏ
máu năm đầu ngón tay”, kẻ dám đến tận cùng nghệ thuật, kẻ xẻ gan thịt mình

trong tiếng đàn, dùng mạng đổi lấy tiếng đàn, đã chịu cực hình tùng xẻo để
tiếng đàn của mình đạt tới tuyệt đỉnh nghệ thuật. Cịn cơ gái trong Xịe bây
giờ mỗi lần múa là một lần chân cơ gái xịe rỏ máu, người con gái dẫm lên
máu tươi của mình mà múa “nó buồn hơn cả cái tiếng vật mình của cái cối
nước giã gạo đêm”…
Tác giả cịn tìm cái đẹp trong những con người sống vì cách mạng, hi
sinh vì lí tưởng của xã hội, những con người đang hăng say xây dựng đất
nước. Đó là anh tự vệ sao vuông hồi đầu kháng chiến, chọc chọc lưỡi lê
xuống ánh trăng nơi vũng nước hầm đào, mà mắng yêu chị Nguyệt (Đường
vui), là anh bộ đội chống Pháp trên chiến trường Tây Bắc ngụy trang bằng
hoa anh đào và đuổi giặc giữa rừng đào (Tình chiến dịch) là người Hà Nội
đánh Mỹ bằng tất cả đặc tính của mình cũng như bằng tất cả tâm hồn, tình
cảm mình. Do đó Hà Nội đánh Mỹ cũng có một vẻ riêng, hơi “tài tử”, rất
dũng cảm nhưng cũng lại mưu trí (Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi), hay đó là mẹ
Suốt gan dạ, vui tính, giản dị, khơng nghĩ đến thành tích của mình: “ui cha
cha, bữa đó hắn bắn bay hàng bầy như chuồn chuồn”.
Ơng cịn tìm được cái đẹp trong cội nguồn cả dân tộc, đó là bản sắc,
con người dung dị, phát hiện ra những vẻ đẹp mang đậm đà màu sắc Việt
Nam trong ngôn ngữ quần chúng, trong điêu khắc cổ, trong các tranh lợn gà,
tranh truyện cổ tích của làng Hồ, trong tiếng đàn bầu, đàn tranh, dân ca quan
họ Bắc Ninh… Nguyễn Tuân đã làm cho chúng ta tự hào về cái vốn âm nhạc
phong phú, về những màu sắc độc đáo của văn học dân gian, nghệ thuật tạo
hình và các phong tục sinh hoạt văn hóa Việt Nam.


15
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đã thực sự lột xác và hành
trình lột xác đó tuy trải qua những dằn vặt, suy nghĩ, nhiều vật lộn đầy khó
khăn nhưng cuối cùng cũng đã làm thay đổi một Nguyễn Tuân từ ngông,
ngang tàn, bất chấp xã hội, cuộc sống đương thời để thỏa mãn những thú vui,

để vị kỷ. Và bây giờ, ông đã sống trong cái vui của dân tộc, sống những ngày
lam lũ, cực khổ của người dân. Tất cả đều được ông trân trọng và nâng niu,
ông thiết tha với quê hương, đồng cảm và sẻ chia với cuộc đời.
1.2. Chùa Đàn – sự kết hợp độc đáo của nhiều đề tài
1.2.1. Đề tài yêu ngôn
Mỗi tác phẩm văn học đều có đề tài nhất định, nó phản ánh một khía
cạnh của đời sống khách quan, song lựa chọn đề tài lại mang đậm dấu ấn chủ
quan của tác giả. Xuyên suốt trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân, có hai chủ
đề gắn liền với sự nghiệp sáng tác của ơng đó là cảnh sắc, hương vị quê
hương, đất nước và người tài hoa, tài tử. Các chủ đề này chứa đựng một hệ
thống đề tài mang đậm phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân. Và “yêu ngôn”
là mảng đề tài quan trọng trong số những đề tài Nguyễn Tuân viết trước Cách
mạng. Đó là một q trình thử nghiệm từ Vang bóng một thời và đạt đến
thành công đỉnh điểm trong Chùa Đàn.
Bối cảnh lịch sử xã hội đã tác động vào tư duy Nguyễn Tuân khiến ông
ngột ngạt, cảm thấy lạc lõng giữa thời đại, “sinh lầm thế kỷ”. Với chủ nghĩa
độc đáo trong sinh hoạt, với lối ăn chơi ngông nghênh, ngạo mạn tất yếu dẫn
đến lối sống lập dị, lối ăn nói phóng túng khiến cho ơng có được những giây
phút xuất thần, để viết lên những trang u ngơn.
Ngồi ra, Nguyễn Tuân đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các nhà văn lớn,
đặc biệt là Bồ Tùng Linh và Edgar Allan Poe. Edgar Allan Poe là một thi sĩ,
nhà văn lớn của Mỹ (1809 – 1849) với nhiều đoản thiên quái đản nổi tiếng
thế giới; còn Bồ Tùng Linh (1614 – 1715) đã đặt một dấu ấn kinh dị, quái đản


16
đầy màu sắc phương đông với tác phẩm Liêu trai chí dị. Trong dịng chảy văn
học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, yếu tố kì ảo đã góp phần tạo nên
những nét độc đáo riêng. Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ với những câu
chuyện ma quái, hoang đường, kì ảo đã tác động vào tư duy Nguyễn Tuân. Và

tác phẩm này đã khơi gợi cảm xúc và mạch nguồn cho những cảm hứng sáng
tạo của nhà văn. Cùng đi vào khai thác mạch truyện yêu ngôn này trong giai
đoạn 1930 – 1945 cịn có Khai Lan với Truyện đường rừng, Thế Lữ với Trại
Bồ Tùng Linh (1930), Vàng và máu (1943), Đái Đức Tuấn với Ai hát giữa
rừng khuya (1940), Thanh Tịnh với Ngậm ngái tìm trầm (1943)… Nhưng có
thể thấy rằng các tác phẩm viết theo đề tài yêu ngôn đều mang lại cảm giác
rùng rợn, gợi trí tị mị và hiếu kì nhưng ở mỗi nhà văn lại khám phá, lựa chọn
những chi tiết, hình ảnh ma quái khác nhau. Riêng đối với Nguyễn Tuân, ông
viết thế giới yêu ma vừa hư vừa thực, một thế giới nữa người nữa ma đan xen,
với không gian là sự hòa nhập với nhau tạo nên những gam màu và âm thanh
vừa sống động nhưng cũng rất tinh tế. Ta có thể khẳng định rằng những nhân
vật ma qi, qi dị trong truyện ơng có điểm chung đó là những con ma tài
tử, tài hoa, đó là những hồn ma thánh thiện, mang trong mình những tình yêu
thương chung thủy, biết hi sinh vì nhau.
Chùa Đàn (1946) là thiên truyện cuối cùng trong mạch truyện yêu ngôn
và là đỉnh cao của tài năng, của tư duy sáng tạo độc đáo của Nguyễn Tuân.
Chùa Đàn gồm 3 chương: Dựng, Tâm sự nước độc, Mưỡu. Trong đó cái phần
cốt lõi nhất, có giá trị nghệ thuật nhất lại thuộc về Tâm sự nước độc với mạch
truyện yêu ngôn, mang âm hưởng của truyện liêu trai. Truyện Chùa Đàn viết
về không gian ma quái, kì lạ của ấp Mê Thảo gắn liền với sự kiện là cái chết
của một người vợ đẹp nhưng xấu số mà người chồng – ông chủ Lãnh Út đã
khiến nơi này tách biệt khỏi đời sống bên ngồi, thốt li hết những nền văn
minh của cơ khí. Và sau này là hàng loạt những sự kiện, những chi tiết, hình


17
ảnh mang tính chất ma qi trong ngơi nhà gianh – đó là nơi sinh hoạt của Cơ
Tơ và bàn thờ Chánh Thú. Tất cả những yếu tố ma quái tạo nên một phong
cách độc đáo của Nguyễn Tuân. Bên cạnh khẳng định tài năng của Nguyễn
Tuân còn đồng thời thể hiện được giá trị của đề tài, tác phẩm trong một giai

đoạn văn học.
Qua đấy cho thấy đề tài u ngơn thể hiện tư tưởng thốt li hiện thực,
thích hợp với ơng, một con người tài hoa, cá tính mạnh mẽ, khơng bao giờ
chịu gị bó vào khn khổ nào. Là sự kết hợp hài hòa giữa phương pháp sáng
tác của Nguyễn Tuân, tạo nên một phong cách nghệ thuật độc đáo mang dấu
ấn riêng ông.
1.2.2. Đề tài người chiến sĩ cách mạng
Chùa Đàn – Tâm sự nước độc được Nguyễn Tuân sáng tác từ năm
1945 tại Bần Yên Nhân, ngoại thành Hà Nội, tại nhà bà Chu Thị Năm, chủ
nhà cơ hát, nhân tình của Nguyễn Tn lúc đó. Nhưng bối cảnh xã hội lúc đó
khơng cho phép một tác phẩm “suy đồi, sa đọa” như vậy xuất hiện và tồn tại
trên văn đàn. Để “cứu vãn” tác phẩm này thì Nguyễn Tn đành “vá víu”
bằng cách thêm phần Dựng và Mưỡu cuối vào. Đồng thời, Cách mạng tháng
Tám thành công cùng với sự ủng hộ, kêu gọi Nguyễn Tuân vào hàng ngũ cách
mạng của Tố Hữu đã tác động vào tư tưởng, tư duy Nguyễn Tuân. Nhưng
những tháng ngày đó Nguyễn Tuân thực sự cảm thấy khó khăn và đau đớn
như một cuộc “lột xác”. Cuối cùng thì ơng đã có nhận thức đúng đắn hơn và
đứng hẳn về phía cách mạng. Ơng khơng trốn tránh, bất mãn trước cuộc sống,
xã hội mà thay vào đó ơng dùng ngịi bút tâm huyết của mình để viết về người
chiến sĩ cách mạng với đầy đủ những phẩm chất, tư cách và ở người chiến sĩ
này luôn tâm niệm một điều bên là “tin tưởng vào Cách Mệnh”.
Đến giữa năm 1946, Chùa Đàn được xuất bản trong một hoàn cảnh đặc
biệt căng thẳng bởi sự quay lại xâm lược của bọn thực dân Pháp. Viết Chùa


18
Đàn – Nguyễn Tuân đã phần nào “lột xác”, phải tranh đấu, dằn vặt tư tưởng
và quyết tâm “Mày hãy diệt hết những con người cũ trong mày đi… Mày phải
tự hoại nội tâm mày đi đã. Mày hãy lấy mày ra làm lửa mà đốt cháy hết
những phong cảnh cũ của tâm tưởng mày”. Nguyễn Tuân đi thẳng về phía

cách mạng, tìm hiểu những con người trong hàng ngũ cách mạng, ở những
con người này, Nguyễn Tuân thấy ở họ toát lên một vẻ đẹp kiên trung, một
người giàu ý chí và rất kiên cường. Đó là nhân vật Lịnh – 2910 “người tình
nhân của Cách Mệnh” mang trong mình lịng u nước, một người tù chính trị
trung thành tuyệt đối với Đảng, căm ghét những tên thực dân tàn bạo, đàn áp
nhân dân. Lịnh trở thành người con ưu tú của dân tộc, là mẫu người đáng tự
hào của những chiến sĩ cách mạng còn lại. Tư tưởng cách mạng trong Lịnh là
thứ ánh sáng để soi đường chỉ lối cho những thanh niên, những người con
Việt Nam cịn đang lạc lõng, bơ vơ giữa cuộc đời khơng biết làm gì, đi về đâu
và đang đắm chìm trong những ngu muội, thú ăn chơi tiêu khiển. Qua đó, giải
thoát họ ra khỏi ngục tối thăm thẳm để vững tin bước đến con đường cách
mạng, cùng đồng đội đứng lên bảo vệ đất nước, xây dựng trong nhận thức họ
lịng tin tưởng và ý chí kiên trung trong mọi quyết định, hồn cảnh. Những lời
kêu gọi Cơ Tơ hãy bỏ kinh kệ, trả lại cho nhà Chùa chiếc mõ, những câu kệ
ngâm để hoàn tục với cuộc sống và “Hãy hát lên, Cô Tơ! Cầm ngay trúc ra
mà nhịp đi. Bắt cao giọng nữa lên. Cái lâu đài của Thị Trấn Ngày Mai chót
vót mấy mươi từng, đỉnh đụng mây cao thế kia mà!” thực sự đã cho ta thấy
được con người Nguyễn Tuân đã rời xa những cái tầm thường, thú vui, những
lầm lạc của mình mà hướng đến cuộc cách mạng của dân tộc. Từ đây ông sẽ
đứng trong hàng ngũ của Đảng, của nhân dân và sẽ hướng ngịi bút của mình
vào đó để giúp mình, giúp đời.
Qua đề tài này, Nguyễn Tuân thực sự đã có một cuộc thử nghiệm mới
đầy thú vị. Nó là bước khởi đầu, là cội nguồn sáng tác của Nguyễn Tuân với


19
đề tài đang được giới văn nghệ sĩ chú trọng sau Cách mạng tháng Tám. Từ
đó, khẳng định một bước ngoặt, một sự thay đổi về tư duy, phong cách mới
trong việc lựa chọn đề tài.
1.3. Nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật

1.3.1. Hình tượng con người tài hoa, tài tử
Khi đọc các tác phẩm của Nguyễn Tuân thì ta thấy điểm chung giữa
các tác phẩm này là việc hội tụ của các nhân vật tài hoa, tài tử. Ở những con
người này đã bộc lộ lên những tài năng, những am hiểu, những vẻ đẹp toát ra
từ tâm hồn và hành động của họ. Đơi khi, họ chỉ là những người giản dị, bình
thường nhưng ở họ ta lại tìm thấy vẻ đẹp, tài năng vượt trội, một tâm hồn
trong trắng, thánh thiện. Hay những nhân vật ma quái nhưng biết yêu cái đẹp
và đắng cay trước những chuyện buồn, họ là những con ma lãng tử, con ma
chung thủy…
Đến với Chùa Đàn, ta thấy Nguyễn Tuân đã dựng lên những nhân vật
tài hoa, tài tử này như Lịnh – người tình nhân Cách Mệnh, Lãnh Út – nguời
nghệ sĩ ngủ quên, Bá Nhỡ – tên tử tù có tài hoa và nhân cách, Cô Tơ một
người nổi tiếng về tài hát. Ở những con người này, Nguyễn Tuân không chỉ đi
vào miêu tả tài năng của họ mà ơng cịn đi sâu vào tìm hiểu, khai thác tâm lí,
vẻ đẹp tâm hồn đang ngự trị tiềm ẩn trong bản thân mỗi con người tài hoa, tài
tử này.
Các Mác từng cho rằng: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, nó là
tín ngưỡng mà khiến người ta có niềm tin, có động lực để vượt qua những
khó khăn, những mệt nhọc. Và khi Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật Lịnh –
một chiến sĩ cách mạng đang bị tù đày ở một tỉnh phía tây Bắc Bộ là hình ảnh
một con người “tượng trưng cho đời tù của bọn trí thức say đắm cùng với
cơng cuộc, vướng lụy vì hồi bão, đưa Cách Mệnh lên thành một tơn giáo”.
Qua đó nhân vật Lịnh này đã đặt niềm tin vào cách mạng là rất lớn, nó là một


×