Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Nguyên lý về sự phát triển trong triết học mác lênin và việc vận dụng vào phát triển nguồn nhân lực ở huyện vĩnh linh tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 69 trang )


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
-----------o0o----------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Ngành: SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Tên đề tài:
NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở HUYỆN VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

Sinh viên

: NGUYỄN THỊ THUỶ

Lớp

: 12 SGC

Người hướng dẫn

: TS.TRẦN HỒNG LƯU

Đà Nẵng, 2016


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành tốt khóa luận này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ


nhiệt tình của q thầy cơ. Đầu tiên, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy Trần
Hồng Lưu người đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong q trình thực hiện đề tài
khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Giáo dục Chính trị trường
Đại học Sư phạm Đà Nẵng, khoa lý luận Chính trị trường Đại học kinh tế Đà Nẵng đã
trang bị cho em những kiến thức sâu sắc để hồn thành tốt đề tài này.
Ngồi ra, trong q trình thực hiện khóa luận em cịn nhận được rất nhiều sự
động viên và giúp đỡ từ phía gia đình, bạn bè, thầy giáo chủ nhiệm, các bạn trong lớp
và đặc biệt là sự hỗ trợ nhiệt tình từ cơ quan phòng lao động – thương binh – xã hội
huyện Vĩnh Linh – Quảng Trị đã cung cấp những số liệu, tài liệu có liên quan đến đề
tài. Do đó, kết quả của đề tài này là lời cảm ơn sâu sắc nhất của em gửi đến mọi người,
là nguồn động lực để em có thể tự tin vào các kiến thức mình đã thu được sau khi tốt
nghiệp.
Mặc dù đã nổ lực cố gắng nhưng đề tài của em vẫn khơng tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong các thầy, cơ đóng góp ý kiến, bổ sung cho khóa luận được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, ngày 7 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.................................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu............................................................3
4. Bố cục đề tài ................................................................................................................4
5. Tình hình nghiên cứu...................................................................................................4
NỘI DUNG .....................................................................................................................7

Chương 1: NGUYÊN LÝ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀ
LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC ..........................................................................7
1.1. Nội dung nguyên lý về sự phát triển .....................................................................7
1.1.1. Khái niệm phát triển ..............................................................................................7
1.1.2. Tính chất của sự phát triển ..................................................................................12
1.1.2.1. Sự phát triển có tính khách quan .....................................................................12
1.1.2.2. Sự phát triển có tính phổ biến...........................................................................14
1.1.2.3. Sự phát triển có tính đa dạng, phong phú .........................................................17
1.1.2.4. Sự phát triển có tính kế thừa.............................................................................17
1.2. Nguồn nhân lực và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực...19
1.2.1. Khái niệm nguồn nhân lực ..................................................................................19
1.2.2. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực ..................................................................20
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực .......................................22
1.2.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng nguồn nhân lực ................................22
1.2.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực .............................23
1.3. Vai trò nguồn nhân lực đối với sự phát triển của xã hội ..................................24
1.3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của nguồn nhân lực..........24
1.3.2. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam
hiện nay..........................................................................................................................27
1.3.2.1. Con người – nhân tố quyết định lực lượng sản xuất ........................................27
1.3.2.2. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế................................27
Kết luận chương 1........................................................................................................30


Chương 2: VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TRONG TRIẾT
HỌC MÁC – LÊNIN VÀO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở HUYỆN
VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ .............................................................................32
2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu .......................................................................32
2.1.1. Vài nét về địa lý, lịch sử, kinh tế-xã hội ở huyện Vĩnh Linh - Quảng Trị ..........32
2.1.2. Đặc điểm của con người ở huyện Vĩnh Linh – Quảng Trị..................................35

2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở huyện Vĩnh Linh- Quảng Trị .........37
2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực..................................................................................37
2.2.1.1. Về số lượng.......................................................................................................37
2.2.1.2. Về chất lượng ...................................................................................................38
2.2.2. Thực trạng về công tác đào tạo nguồn nhân lực ở huyện Vĩnh Linh ..................42
2.2.2.1. Giáo dục phổ thông ..........................................................................................42
2.2.2.2. Công tác đào tạo nghề, bồi dưỡng lao động và giải quyết việc làm ................44
2.2.3. Đánh giá, nhận xét chung về thực trạng nguồn nhân lực của huyện Vĩnh Linh
hiện nay..........................................................................................................................49
2.3. Các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng
Trị trên cơ sở nguyên lý phát triển Mác – Lênin .....................................................51
2.3.1. Phát huy thế mạnh của huyện Vĩnh Linh ............................................................51
2.3.2. Phát triển toàn diện nguồn nhân lực của huyện trên cơ sở phát triển bền vững..52
2.3.3. Đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo ..............................54
2.3.4. Tỉnh, huyện cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực cụ thể cho mỗi giai
đoạn ...............................................................................................................................56
Kết luận chương 2........................................................................................................57
KẾT LUẬN ..................................................................................................................59
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................60


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chun mơn kỹ thuật
(năm 2015)..................................................................................................40
Bảng 2.2: Cơ cấu dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ học vấn (năm 2015) .....44
Bảng 2.3: dân số từ 15 tuổi trở lên được đào tạo theo các lĩnh vực (năm 2015) ..........45
Bảng 2.4: Số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm chia theo trình độ học vấn .........46
Bảng 2.5: Cơ cấu lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế phân theo thành
phần quản lý (năm 2015) ............................................................................47
Bảng 2.6: Cơ cấu lao động thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chun

mơn kỹ thuật (năm 2015) ...........................................................................48


BẢNG VIẾT TẮT
Cụm từ đầy đủ

Kí hiệu

Ủy ban nhân dân

UBND

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Trung học cơ sở

THCS

Trung học phổ thông

THPT

Bộ nông nghiệp và phát phát triển nông thôn

Bộ NN &PTNT

Sở Giáo dục và đào tạo


Sở GD & ĐT


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý quan trọng của phép biện
chứng duy vật, là cơ sở khoa học để hình thành quan điểm phát triển và quan điểm lịch
sử cụ thể. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc trưng
chung của thế giới. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có sự vận
động và phát triển, sự vận động phát triển ấy là khơng ngừng, có khi nhanh, khi chậm,
khi tuần tự, có khi nhảy vọt, có những bước thụt lùi nhưng nó là tiền đề, điều kiện cho
sự vận động đi lên. Phát triển là khuynh hướng vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện theo chiều hướng đi lên của sự vật,
hiện tượng; là q trình hồn thiện về chất và nâng cao trình độ của chúng. Phát triển
là đặc trưng phổ biến và là một tất yếu khách quan. Yêu cầu của nguyên tắc này đòi
hỏi khi xem xét sự vận động, biến đổi, phát triển của nó phải tư duy, năng động, linh
hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức cái mới và ủng hộ cái mới.
Khi con người nhận thức được nguyên lý về sự phát triển thì nhận thức sự vật
hiện tượng theo xu hướng vận động phát triển, tránh được cách nhìn phiến diện với tư
tưởng định kiến, bảo thủ. Quán triệt quan điểm phát triển có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm phát triển trở thành nguyên tắc chỉ đạo
hành động của mỗi người, trong đó có chiến lược xây dựng nguồn lực con người.
Đảng ta khẳng định: “Con người là trung tâm chiến lược phát triển, đồng thời là
chủ thể phát triển”[14, tr.76], nguồn lực con người là yếu tố trung tâm của xã
hội.Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, nguồn lực con
người được Đảng ta coi là q báu nhất, có vai trị quyết định. Để tiến hành thành
công CNH, HĐH đất nước, trong Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII, Đảng ta yêu cầu: “phải có con người rất mực trung thành, giàu lịng
u nước, có trình độ kiến thức hiện đại và kỹ năng thành thạo có khả năng làm ra
những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước” [10, tr.1]. Để

có những con người vừa đủ đức đủ tài, vừa hồng vừa chuyên, có khả năng gánh vác sự
nghiệp vĩ đại này thì phải xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện cả về thể
lực, trí lực, khả năng lao động, năng lực sáng tạo, tính tích cực chính trị – xã hội, về
đạo đức, tâm hồn và tình cảm. Đó chính là mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội.


Đất nước sau 30 năm đổi mới với nhiều nổ lực về chính sách phát triển nguồn
nhân lực đã đạt được nhiều bước tiến đáng kể. Trình độ dân trí, trình độ chun mơn,
kỹ thuật, thể lực và sức khỏe của nguồn nhân lực của nước ta đã tăng lên. Tuy nhiên,
những thay đổi đó là chưa đủ so với những yêu cầu của sự nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Khi nền kinh tế tri thức hình thành mà khoa học công nghệ là yếu tố cốt lõi ứng
dụng trong q trình sản xuất địi hỏi con người đáp ứng đầy đủ về chuyên môn để vận
hành. Với thực trạng nguồn nhân lực hiện nay ở nước ta như: Chất lượng đào tạo, cơ
cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương của nguồn
nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội; Đội ngũ nhân lực chất
lượng cao, cơng nhân lành nghề vẫn cịn rất thiếu so với nhu cầu xã hội để phát triển
các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam; Số lao động có trình độ chun mơn, kỹ
thuật, thậm chí nhóm có trình độ chun mơn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết
khá nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong mơi trường
cạnh tranh cơng nghiệp; Khả năng làm việc theo nhóm, tính chun nghiệp, năng lực
sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn
chế; Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới... khó có
thể tận dụng tốt nhất cơ hội trước mắt của quốc gia mà toàn cầu hóa đem lại. Và nếu
khơng mau chóng khắc phục được yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta có
nguy cơ khó vượt qua những khó khăn, thách thức, đối mặt với nhiều hệ quả khơng
như mong muốn.Vì vậy, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực không chỉ về số lượng mà
chất lượng phải đặt lên hàng đầu để đáp ứng địi hỏi của q trình cơng nghiệp hóa –
hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Vĩnh Linh là một huyện phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Vĩnh Linh – mảnh đất tự

mình làm nên lịch sử, lịch sử của pháo đài thép được đúc bằng trí dũng và tình u q
hương vơ bờ của những người dân nơi đây. Không ở đâu đặc biệt như Vĩnh Linh –
mảnh đất sống còn gắn với sự sống còn của dân tộc. Gần một phần tư thế kỷ, con
người Vĩnh Linh đứng đầu ngọn sóng của lửa đạn chiến tranh đã bám trụ địa bàn, sản
xuất và chiến đấu kiên cường bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong suốt
những năm tháng đất nước tạm thời chia cắt hai miền Nam – Bắc. Và trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Vĩnh Linh đã và đang đạt được những thành
tựu quan trọng trong xây dựng, phát triển mọi mặt hòa vào dòng chảy của tiến trình
đổi mới và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ trên q hương, đất nước. Vì lẽ đó, cùng


chung sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực để phát
triển kinh tế trong những năm qua được đưa thành một trong các chương trình trọng
điểm của huyện. Tuy nhiên, việc huy động, đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn nhân
lực ở huyện Vĩnh Linh chưa tận dụng hết mọi lợi thế và tiềm năng về con người để
thúc đẩy kinh tế – xã hội địa phương phát triển hơn nữa. Những chính sách để phát
triển nguồn nhân lực vẫn chưa có những kế hoạch cụ thể và lâu dài, nguồn nhân lực trẻ
chưa được quan tâm nhiều, trình độ học vấn và hiểu biết về khoa học kỹ thuật chưa
cao. Xuất phát từ những u cầu có tính cấp thiết trên đây, tôi nhận thấy từ các nguyên
tắc của phép biện chứng duy vật để bước đầu nhận thức và đánh giá vấn đề xã hội
trong đó xem xét cơng tác phát triển nguồn nhân lực là việc cần làm. Việc phân tích
thực trạng phát triển nguồn nhân lực, tìm ra những định hướng chính sách của địa
phương trong giai đoạn hiện nay nhìn từ quan điểm phát triển là một điều cần thiết, có
thể góp phần nhỏ bé của mình vào công tác phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Quảng Trị
nói chung và huyện Vĩnh Linh nói riêng. Vì những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Nguyên lý
về sự phát triển trong triết học Mác – Lênin và việc vận dụng vào phát triển nguồn nhân
lực ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị” làm đề tài luận văn cho mình.
2.Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích đề tài
Trên cơ sở nguyên lý phát triển của phép biện chứng duy vật trong triết học

Mác – Lênin làm rõ thực trạng, chính sách và đưa ra những biện pháp trong thời gian
tới về công tác phát triển và đào tạo nguồn nhân lực ở huyện Vĩnh Linh.
Nhiệm vụ của đề tài
Phân tích khái niệm phát triển, nguồn nhân lực và nội dung của nguyên lý về sự
phát triển để rút ra được ý nghĩa phương pháp luận làm cơ sở vận dụng vào công tác
phát triển nguồn nhân lực.
Trên cơ sở nguồn số liệu, phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp, kiến
nghị nhằm góp phần vào việc phát triển nguồn nhân lực ở huyện Vinh Linh.
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
Đối tượng:Là một trong hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là nguyên
lý về sự phát triển, từ đó nghiên cứu về công tác phát triển nguồn nhân lực ở huyện
Vinh Linh – Quảng Trị hiện nay.


Phạm vi: Với tính chất là một khóa luận tốt nên phạm vi nghiên cứu đề tài giới
hạn trong việc phát triển nguồn nhân lực ở huyện Vĩnh Linh – Quảng Trị.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp sử dụng các phương pháp logic và
lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, khái quát hóa vấn đề...
4. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2
chương bao gồm 6 tiết:
Chương 1: Nguyên lý phát triển của triết học Mác – Lênin và lý luận về nguồn
nhân lực
Chương 2:Vận dung nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác – Lênin vào
phát triển nguồn nhân lực ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
5. Tình hình nghiên cứu
Nội dung nguyên lý về sự phát triển và nguồn nhân lực là những vấn đề lớn đã
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều cuốn sách, nhiều cơng trình, bài
viết, nhiều cuộc hội thảo bàn về nội dung nguyên lý về sự phát triển, nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực. Chẳng hạn:
Lịch sử phép biện chứng (1998), 6 tập do các nhà khoa học bao gồm GS.TS.
Nguyễn Trọng Chuẩn, GS.TS. Lê Hữu Tầng, GS.TS. Đỗ Minh Hợp đã biên dịch phân
tích một cách có hệ thống, làm rõ bản chất phép duy vật macxít có ý nghĩa to lớn về cả
giá trị lý luận và thực tiễn. Qua việc trên, vạch rõ vai trò và ý nghĩa của nó trong điều
kiện lịch sử Việt Nam. Sự phân tích q trình hình thành và phát triển của phép biện
chứng trong lịch sử triết học, các tác giả đã rút ra những ngun tắc có tính phương pháp
luận nhằm chỉ đạo việc xây dựng lý thuyết khoa học và cải tạo hiện thực.
Cuốn sách an sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực (2005) của Mạc Văn
Tiến, tập hợp các bài viết của tác giả về các vấn đề an sinh xã hội và phát triển nguồn
nhân lực. Trong phần III, tác giả đã nêu lên một số vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở
nước ta, đưa ra các chính sách về đào tạo, vấn đề lao động và việc làm trong thời kì
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cao trong nền kinh
tế tri thức. Ngoài ra tác giả còn quan tâm đến phát triển lao động kỹ thuật, đến đào tạo
nghề, xã hội hóa giáo dục...


Bài viết “Tư duy phát triển và sự phát triển của đất nước” (2011) đăng ở Tạp
chí Triết học của PGS.TS Lương Đình Hải đã đề cao tư duy phát triển và mỗi thời đại
khác nhau phải có một tư duy phù hợp với thời đại đó. Tác giả cho rằng, một trong
những yếu tố quyết định tốc độ phát triển của quốc gia là chất lượng nguồn nhân lực ở
khía cạnh: “tài năng, trung thực và tâm huyết” cùng với đó là vai trị của thiết chế xã
hội. Trên cơ sở đó, cần thực hiện các vấn đề như: dân chủ hóa, khắc phục tình trạng
khan hiếm nguồn nhân lực chất lượng cao, khơi dậy tinh thần dân tộc, ngăn chặn tham
nhũng, thiếu minh bạch...
PGS.TS Nguyễn Cúc với bài viết đăng ở Tạp chí Cộng sản về nội dung “Phát
triển nguồn nhân lực: cần gắn kết chiến lược quy hoạch và chính sách”, tác giả đã nêu
lên vai trị của nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
những bất cập trong chính sách đào tạo nguồn nhân lực nước ta. Cuối bài, tác giả đề ra
một số định hướng điều chỉnh cơ cấu đào tạo phù hợp với u cầu cơng nghiệp hóa,

hiện đại hóa.
Bài viết “đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao nhằm mục tiêu mở rộng sự
liên kết kinh tế khu vực ở trung bộ – Tây Nguyên” (2013) đăng ở Tạp chíKhoa học xã
hội miền Trung của TS. Trần Hồng Lưu đã làm rõ vai trò nguồn nhân lực trong phát
triển kinh tế – xã hội vùng trung bộ trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và tác
giả đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực vùng trung bộ để tạo ra những
lợi thế để phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao.
Ngồi ra, liên quan đến một số vấn đề trong đề tài có các cơng trình, bài viết
khác của các tác giả như: Vấn đề triết học trong tác phẩm của C. Mác – Lênin(2008)
của DỗnChính – Đinh Ngọc Thạch (đồng chủ biên); Nguyễn Thị Lang (2008),
Nguyên lý về sự phát triển với việc nâng cao nhận thức chính trị cho đội ngũ giảng
dạy các trường đại học, cao đẳng tỉnh Quảng Nam – Luận văn thạc sĩ Triết học, Đại
học khoa học Huế; Hồ Ngọc Minh (2000), “Các lý thuyết phát triển và chính trị”,
Thơng tin chính trị số 2, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Trần Thành (Chủ
biên, 2008), Các chuyên đề triết học Mác- Lênin– Dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học, Nxb Chính trị – Hành chính, Hà Nội.
Về cơng trình nghiên cứu và các bài viết về nguồn nhân lực nói chung của các
tác giả: Nguyễn Trọng Chuẩn (1996), “Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính
sách kinh tế và đổi mới chính sách xã hội”, Triết học, số3; Nguyễn Trọng Chuẩn
(1994), “Nguồn nhân lực trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Triết học, số 2; Lương


Đình Hải (2009), “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 6; Trần Đắc Hiến (2001), “ Luận
điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của Mác và sự vận dụng ở nước
ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 1 (236); Phạm Văn Giang (2013), “Đào tạo nhân
lực cho vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong giai đoạn hiện nay – Thực trạng và
giải pháp”, Sinh hoạt lý luận, số 3; Phạm Xuân Nam, (chủ biên, 2002), Triết lý của sự
phát triển Việt Nam– mấy vấn đề cốt yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Vũ Văn Phú
(báo cáo đề dẫn) (2011), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – khâu đột phá để

đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa khu vực dun hải miềnTrung”, Tạp chí Cộng
sản, số 56; Đặng Trương Minh (2013), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam hiện nay”, Sinh hoạt lý luận, số 3.
Về tài liệu địa phương: Liên quan tới đề tài luận văn có một số tài liệu về Vĩnh
Linh và Quảng Trị như: Thường vụ huyện ủy Vĩnh Linh (1994), Lịch sử Đảng bộ và
nhân dân Vĩnh Linh 1930 – 1975, Nxb xí nghiệp in Quảng Trị, Quảng Trị; Ban tuyên
giáo Tỉnh ủy (1990), Quảng Trị – 60 năm những chặng đường, Nxb Sở văn hóa –
thơng tin Quảng Trị, Quảng Trị; bài viết “Q trình hình thành các Chi bộ Cộng sản
đầu tiên ở Vĩnh Linh” của Th.s Đinh Thị Thu Hoài, Khoa: Xây Dựng Đảng; Thường
vụ Đảng ủy xã Vĩnh Lâm (1995), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân
dân xã Vĩnh Lâm 1930 – 1975, Vĩnh Linh; Bài viết: một số giải pháp về đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội ở Quảng Trị hiện
nay của Ths. Trần Đức Dương; Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị (Tập III) giai đoạn 1975 –
2000, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị, Nxb Chính trị Quốc gia – Hà Nội, năm
2005; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVI (2015); Bên cạnh đó có
1 số đề tài nghiên cứu như: Nguyễn Quốc Khánh (2012), Vấn đề nâng cao chất lượng
tổ chức cơ sở đảng ở thành phố đơng hà, quảng trị hiện nay từ góc nhìn của nguyên lý
về sự phát triển – luận văn thạc sĩ khoa học triết học, đại học Huế.
Những cơng trình, bài viết trên đề cập nhiều đến các phương diện khác nhau về
sự phát triển, nguồn nhân lực nhưng vấn đề nghiên cứu triết học vận dụng vào thực
tiễn phát triển nguồn nhân lực ở huyện Vĩnh Linh chưa có một cơng trình, đề tài nào
đề cập trực tiếp. Vì vậy, tơi chọn địa phương này là sự khởi đầu khó khăn cho luận văn
nhưng cũng là cái mới và là vấn đề cốt lõi trong việc xây dựng, phát triển ở địa
phương cần được quan tâm. Những tư liệu quý giá trên là nguồn tài liệu tham khảo cho
tôi trong q trình hồn thành luận văn của mình.


NỘI DUNG
Chương 1: NGUYÊN LÝ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀ
LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC


1.1. Nội dung nguyên lý về sự phát triển
1.1.1. Khái niệm phát triển
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học, quan điểm về sự phát triển luôn được các
triết gia, các trường phái triết học quan tâm, nghiên cứu. Vì vậy, khi xem xét về sự
phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập với nhau.
Triết học phật giáo quan niệm bản chất của sự tồn tại là sự biến chuyển liên tục
(vơ thường), khơng thể tìm ra ngun nhân đầu tiên, do vậy khơng có ai tạo ra thế giới
và cũng khơng có cái gọi là vĩnh hằng. Thế giới được cấu tạo bởi các yếu tố vật chất
(sắc) và tinh thần (danh), nhưng danh và sắc chỉ hội tụ trong một thời gian ngắn rồi
chuyển sang trạng thái khác. Sự vật, hiện tượng luôn biến chuyển theo chu trình nhân
– quả, kết quả của quá trình cũ có thể là ngun nhân của q trình sau và nó tiếp tục
theo một chu trình như vậy. Tất cả các sự vật trong vũ trụ luôn biến đổi không ngừng,
bị chi phối và tuân theo quy luật nhân – quả. Cái nhân nhờ có duyên trợ mà trở thành
quả; quả mới lại nhờ duyên mới trợ giúp mà tạo thành nhân mới... Cứ như vậy, thế
giới sự vật, hiện tượng cứ sinh hóa, biến hiện khơng ngừng. Q trình đó có thể diễn ra
trong nháy mắt hay trong từng giai đoạn có sự biến đổi về chất. Từ cái vô cùng nhỏ
đến cái vô cùng lớn, từ cái đơn giản đến cái phức tạp đều chịu sự chi phối, tác động
của luật nhân – quả mà tồn tại, biến hiện.Ngay chính bản thân con người cũng do
nguyên nhân kết hợp mà thành, nó được cấu tạo bởi thể xác và tinh thần, con người
phát triển theo chu kỳ sinh – lão – bệnh – tử, bất cứ ai cũng phải trải qua chu kỳ này,
nói tử là kết quả cuối cùng của một quá trình nhưng cũng là nguyên nhân của vòng
luân hồi. Phật giáo cho rằng cuộc đời con người là một bể khổ, cuộc sống hiện tại chỉ
là tạm bợ, còn cuộc sống kiếp sau mới là vĩnh hằng. Vì vậy, để thốt khỏi bể khổ con
người phải tu dưỡng đạo đức. Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở cõi
niết bàn, đó chính là sự giải thốt khỏi “Vịng ln hồi”, khỏi “Nghiệp báo”. Do
nghiệp chi phối theo luật nhân quả nên vạn vật, chúng sinh mất đi ở chỗ này, thời gian
này là để sinh ra ở chỗ khác, thời gian khác. Đó chính là q trình tái sinh ln hồi.
Con người đạt tới cõi niết bàn là trạng thái tối cao nhất, là sự phát triển. Có thể nói,



quan niệm về sự phát triển trong phật giáo đã có nhiều tiến bộ nhưng sự phát triển đó
đã dừng lại một giới hạn nhất định là cõi niết bàn. Như vậy, triết học phật giáo đã có
đề cập đến sự vận động, biến chuyển của các sự vật, hiện tượng của thế giới, sự thay
đổi của vạn vật qua không gian và thời gian. Tuy nhiên, những quan niệm đó chưa
được thể hiện một cách chặt chẽ khoa học và những lý giải được đưa ra trên góc độ mơ
hồ, bí hiểm, chưa tìm ra được nguồn gốc, phương thức hay khuynh hướng của sự phát
triển.
Khi nói đến quan điểm về sự phát triển trong tư tưởng triết học Trung Quốc,
chúng ta có thể xem xét thuyết Âm Dương, Ngũ Hành với tư cách là tư tưởng triết học
tiêu biểu bàn về sự phát sinh, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Tư
tưởng triết học về Âm – Dương: “Dương” nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời hay
những gì thuộc về ánh sáng mặt trời và ánh sáng; “Âm” có nghĩa là thiếu ánh sáng
mặt trời, tức là bóng râm hay bóng tối. Chính do sự tác động qua lại giữa chúng mà
sinh ra mọi sự vật, hiện tượng trong trời đất. Thuyết Âm – Dương cho rằng sự vận
động và biến đổi bắt nguồn từ hai thế lực đối lập là Âm và Dương, chúng đối lập trong
sự thống nhất và chuyển hóa lẫn nhau, chúng vừa khẳng định vừa phủ định trong quá
trình tồn tại. Hai thế lực Âm – Dương không tồn tại biệt lập mà thống nhất, chế ước
lẫn nhau theo các nguyên lý:Âm – Dương thống nhất thành Thái cực. Ngun lý này
nói lên tính tồn vẹn, tính chỉnh thể, cân bằng của cái đa dạng và cái duy nhất. Chính
nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.Trong Âm có
Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm – Dương
đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.Để giải thích lịch trình biến hoá trong
vũ trụ, người Trung Quốc đã khái quát cái logic tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi
(Âm - Dương), Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát qi (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khơn, Đồi),
Bát qi sinh ra vạn vật (vơ cùng vơ tận). Cịn tư tưởng triết học về Ngũ Hành: “Ngũ
Hành” được dịch là năm yếu tố. Năm yếu tố được coi là năm thế lực có ảnh hưởng đến
nhau, cho nên “Ngũ Hành” có nghĩa là năm hoạt động, năm tác nhân.Ngũ Hành được
dùng để giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật trong vũ trụ, những vật giống
nhau thì khơng kết hợp thành vật mới, chỉ có những vật có tính chất khác nhau mới có

thể sinh thành vật mới. Các yếu tố trong Ngũ Hành không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà
trong một hệ thống ảnh hưởng tương sinh, tương khắc với nhau theo hai nguyên tắc:


tương sinh: Thổ sinh Kim; Kim sinh Thuỷ; Thuỷ sinh Mộc; Mộc sinh Hoả; Hoả sinh
Thổ… và tương khắc: Thổ khắc Thuỷ; Thuỷ khắc Hoả; Hoả khắc Kim; Kim khắc
Mộc; Mộc khắc Thổ… đó là q trình sự vật được sinh sôi và chế ước lẫn nhau.Về
sau, thuyết Âm Dương và Ngũ Hành được kết hợp với nhau làm một. Hệ thống lý luận
Âm Dương – Ngũ Hành đã được vận dụng để giải thích mọi sự biến đổi của vạn vật
trong trời đất và trong nhân gian. Như vậy, thuyết Âm Dương – Ngũ Hành đã thừa
nhận tính vật chất của thế giới, giải thích quy luật phát triển khách quan của thế giới,
mặc dù còn chất phác và máy móc nhưng nó đã có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy
tâm trong quan niệm về thế giới.Có thể thấy, các nhà triết học Trung Quốc cổ đại đã
có quan niệm về sự vận động không ngừng của sự vật, hiện tượng, nhưng đó chỉ là sự
vận động biến đổi theo một vịng tuần hồn nhất định nào đó. Họ chưa chỉ ra được
nguồn gốc, phương thức, khuynh hướng của sự phát triển mà chỉ đưa ra những vận
động đơn thuần, chưa đầy đủ.
Trong triết học Hy Lạp phép biện chứng chỉ mới sơ khai, giải thích sự vật, hiện
tượng trong một khối thống nhất nên tư duy về sự phát triển cũng hình thành một cách
sơ khai. Ví dụ như: Hêraclít đã xây dựng nên học thuyết về sự vận động hay còn được
gọi là học thuyết về dịng chảy vì người ta thường liên tưởng đến câu nói nổi tiếng của
ơng: “Chúng ta khơng thể lội xuống hai lần trên cùng một dịng sơng”, đây là sự triển
khai quan điểm về thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà cụ thể là hai mặt
đối lập vận động và đứng im, là những mặt đối lập khơng thể thiếu nhau để tạo thành
một dịng chảy. Ơng cho rằng, khơng có gì ổn định và bất biến hơn là dịng sơng ln
chảy hay nói theo một cách khác là tính biển đổi của dịng sơng khơng loại trừ đứng
im, tức là cái mà nhờ đó dịng sông là xác định, ổn định và bất biến. Như sau này,
Ăngghen đã nhận xét: “Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì
đúng, đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên được
Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: “Mọi vật đều tồn tại và cũng khơng tồn tại, vì mọi

vật đang trơi qua, mọi vật khơng ngừng tiến hố, mọi vật đều khơng ngừng phát sinh
và tiêu vong” [28, tr.34-35].Bên cạnh những nhà triết học theo quan điểm duy vật, triết
học Hy Lạp cổ đại cịn có những triết gia theo quan điểm duy tâm cũng bàn về sự tồn
tại và phát triển, trong đó tiêu biểu có học thuyết về ý niệm của nhà triết học Platơn và
thuyết hình dạng của nhà triết học Arixtốt nhưng hai ông chưa đưa ra được cơ sở khoa
học của sự phát triển.


Hay triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của nền triết học phương Tây, đồng thời
có tầm ảnh hưởng sâu rộng và to lớn đến triết học hiện đại. Đây là giai đoạn phát triển
mới về chất trong lịch sử triết học Tây Âu mà cụ thể là ở Đức vào cuối thế kỷ XVIII
đến đầu thế kỷ XIXcũng đã có những quan niệm khơng đúng đắn về nguồn gốc và
động lực của sự phát triển. Ví dụ như Hêghen, nhà triết học vĩ đại người Đức đã nắm
được nguồn gốc động lực của sự phát triển đó là q trình tích lũy về lượng để chuyển
hóa thành chất, là quá trình nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn khơng ngừng.
Hêghen đã trình bày sự vận động và phát triển một cách chi tiết và khoa học. Khác với
các nhà triết học siêu hình, Hêghen coi sự phát triển không chỉ là sự tăng giảm đơn
thuần về lượng, hay sự dịch chuyển vị trí của vật trong khơng gian. Ơng cho rằng: sự
phát triển là một q trình phủ định biện chứng, là sự ra đời của những cái mới thay
thế cho cái cũ trên cơ sở kế thừa những yếu tố của cái cũ mà chúng có khả năng thúc
đẩy sự phát triển. Sự phát triển của sự vật, hiện tượng là một quá trình vận động từ
chưa đầy đủ đến đầy đủ, từ thấp đến cao, là q trình tích lũy về lượng, khi lượng đổi
tới một giới hạn “độ” nhất định thì sự vật chuyển hóa về chất. Quan điểm của Hêghen
về sự phát triển là một cái nhìn mới trong triết học. Nhưng ông lại cho rằng những
biến đổi nói trên chỉ diễn ra trong q trình “tha hóa” của ý niệm tuyệt đối, diễn ra
trong khái niệm trừu tượng thuần túy... chứ không phải diễn ra trong các sự vật của thế
giới hiện thực.
Qua việc tìm hiểu các quan điểm của các nhà triết học trước Mác trên, cho ta
thấy vấn đề về sự phát triển đã có manh nha từ rất sớm. Mặc dù các quan điểm triết
học ấy đã trình bày sự phát triển dưới dạng vận động, một thuộc tính của vật chất

nhưng chưa có một nhà triết học nào đưa ra quan điểm một cách khoa học về sự phát
triển, họ chưa tìm thấy nguồn gốc, động lực, khuynh hướng của phát triển.Triết học Mác
đã khắc phục những vấn đề đó trên cơ sở sự kế thừa, chọn lọc và phát triển các quan điểm
trước đó để đưa ra được quan điểm khoa học về sự phát triển.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, mọi sự vật, hiện tượng tồn tại gắn
liền với sự vận động và phát triển, thông qua vận động, nhờ vận động mà các sự vật,
hiện tượng có sự biến đổi, trong đó có sự biến đổi về hình dạng, vị trí, kết cấu và biến
đổi về khuynh hướng. Trong sự biến đổi của sự vật, hiện tượng thì khuynh hướng vận
động đi lên chính là sự phát triển, là bước chuyển biến về chất. Với cách lập luận như
vậy, triết học duy vật biện chứng đã phủ định quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn


giáo về sức mạnh của thần linh và thượng đế... hay nói cách khác là phủ nhận sự tồn
tại của các lực lượng siêu nhân, phi vật chất nhưng lại có quyền quyết định sự biến đổi
của vật chất. Về thực chất, nguồn gốc của sự vận động nằm trong chính sự vật, hiện
tượng, vận động và phát triển vừa là tiền đề, đồng thời vừa là kết quả của sự thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Mỗi sự vật vừa tồn tại ở trong trạng thái tĩnh, vừa tồn tại ở trạng thái động.
Trong đó, trạng thái tĩnh chỉ là sự cân bằng tương đối, tạm thời của sự vật và nhờ đó
chúng ta phân biệt được sự vật này với sự vật khác. Mỗi sự cân bằng, ổn định được
xem là tạm thời, thoáng qua và nó ln có xu hướng bị phá vỡ để tạo nên sự biến đổi,
tạo nên sự khác biệt cơ bản. Trong những mặt khác biệt luôn tồn tại những mặt đối lập,
có xu hướng vận động trái ngược nhau, trong đó có những mặt tạo thành mâu thuẫn.
Sự xuất hiện của mâu thuẫn đã trở thành vật cản của sự phát triển, nhưng cũng chính
sự xuất hiện của mâu thuẫn đã đặt ra những đòi hỏi cần phải giải quyết, cần phải được
phá vỡ để không cản trở sự vận động. V.Lênin chỉ ra rằng: “Sự phát triển có thể nói là
theo đường trịn xoắn ốc chứ khơng theo đường thẳng, sự phát triển bằng nhảy vọt,
bằng sự đột biến, bằng những cuộc cách mạng; những bước gián đoạn của sự tiện tiến
dần dần; sự biến đổi thành chất, những kích thích nội tại theo hướng phát triển, những
kích thích gây ra bởi sự mâu thuẫn, bởi sự xung đột giữa những lực lượng và những xu

thế khác nhau đang tác động vào một vật thể xác định, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết…quy định q trình vận động có tính chất thế giới,
thống nhất và có quy có quy luật đó là một số điểm về phép biện chứng, tức là học
thuyết về sự phát triển” [25, tr.65].
Qua đó ta thấy rằng, khi đứng ở gốc độ khác nhau thì con người sẽ có những
cách nhìn, sự đánh giá khác nhau. Những người theo quan điểm duy tâm hoặc quan
điểm tôn giáo thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh, thượng đế, các lực
lượng siêu nhiên hay ở ý thức của con người.
Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển đơn giản chỉ là sự tăng lên hay giảm
đi đơn thuần về mặt lượng, khơng có sự thay đổi về chất của sự vật. Những người theo
quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật khơng có sự thay đổi gì trong q trình
tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì tồn bộ q trình tồn tại
của nó vẫn được giữ nguyên hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi
ấy cũng chỉ diễn ra trong một vịng khép kín, coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt


lượng của từng loại mà sự vật đang có chứ khơng có sự sinh thành ra cái mới với
những chất mới. Có nghĩa là nó đi tìm nguồn gốc của sự phát triển ở bên ngoài sự vật
(ở các sự vật khác hoặc ở các thế lực siêu tự nhiên, thần thánh) chứ khơng phải ở chính
sự vật, ở các mặt đối lập của sự vật đó. Những người theo quan điểm siêu hình cịn
xem sự phát triển là một q trình tiến lên liên tục khơng có những bước quanh co,
thăng trầm, phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển
dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên:từ
trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái
niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói chung; đó
khơng phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi
tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn
thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.Phát triển cũng là quá trình phát
sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là q trình

thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ
sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
Trên cơ sở lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Phát triển
là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động đi lên theo khuynh hướng từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, trong
đó sự xuất hiện cái mới – tiến bộ là tiêu chuẩn nói lên sự phát triển.
1.1.2. Tính chất của sự phát triển
1.1.2.1. Sự phát triển có tính khách quan
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động
và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ sự vận động nội tại của bản thân sự vật,
hiện tượng; là quá trình tự giải quyết mâu thuẫn trong bản thân của sự vật, hiện tượng;
làm cho chính bản thân sự vật ln có sự tác động và biến đổi, chuyển hóa khơng
ngừng và q trình vận động đó có tính khách quan, độc lập với ý muốn với con
người, độc lập với các lực lượng siêu nhiên, khơng mơ hồ, khơng thần bí và dù muốn
hay khơng thì sự phát triển của thế giới vẫn cứ diễn ra theo quy luật vận động của tự
nhiên, xã hội và con người. Sự vận động vốn có trong sự vật làm cho chính bản thân
sư vật ln ln biến đổi, chuyển hóa khơng ngừng đến một trình độ cao hơn. Đó là


quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động
của sự vật, hiện tượng.
Thế giới khách quan nên sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới cũng
mang tính khách quan. Trong sự vật ln ẩn dấu những thuộc tính, đặc điểm, những
quá trình, những biến đổi trái ngược nhau tạo thành những mâu thuẫn biện chứng. Các
mâu thuẫn này tồn tại khách quan trong các sự vật, hiện tượng và giữa chúng có mối
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Chính sự tác động của q trình giải quyết liên tục
các mâu thuẫn đã phá vở sự cân bằng tương đối của sự vật, làm cho sự vật phát triển.
Quá trình phá vở sự cân bằng lại làm nảy sinh những mâu thuẫn mới và kết quả của sự
giải quyết mâu thuẫn chính là sự thay đổi của sự vật với những mặt, những yếu tố cản
trở, những yếu tố khơng cịn phù hợp với sự vật bị thủ tiêu và biến mất. Chỉ những cái

phù hợp, tiến bộ, những yếu tố không gây ra sự ngăn cản cho quá trình tiến lên của sự
vật được giữ lại. Trong quá trình phát triển của mình, bản thân sự vật sẽ dần hình
thành những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi các mối liên hệ, cơ cấu,
chức năng, phương thức tồn tại và vận động vốn có theo chiều hướng ngày càng hồn
thiện hơn. Sự phát triển có thể coi là khuynh hướng tất yếu của sự vật. Sự phủ định
biện chứng dẫn đến ra đời cái mới thay thế cho cái cũ, là quá trình chuyển hóa của sự
vật, hiện tượng từ hình thái thấp sang hình thái cao hơn. Quá trình trên diễn ra một
cách tự nhiên mang tính quy luật vốn có của nó. Sự phủ định đó là tự phủ định bản
thân, làm kết thúc một trạng thái, một kết cấu vật chất bởi những lực lượng bên trong
của sự vật. Chẳng hạn, trong mỗi chế độ xã hội có một hình thức sở hữu đặc trưng.
Nhưng trong tiến trình phát triển, hình thức sở hữu đặc trưng này dần khơng còn phù
hợp, gây ra những trở ngại cho sản xuất, buộc nó phải thay thế một hình thức cao hơn,
hợp lý hơn. Chế độ công hữu củathời đại nguyên thủy được thay thế chế độ tư hữu, đó
là thời kì phong kiến hay tư bản, nhưng khi chế độ tư hữu cũng khơng cịn hợp lý nữa,
nó cũng được thay thế trở lại chế độ công hữu của một chế độ mới – chủ nghĩa cộng sản.
Tuy nhiên, chế độ công hữu không như ở thời nguyên thủy mà ở yêu cầu cao hơn là do
điều kiện khách quancủa lịch sử, sự phát triển đó tuân theo các quy luật của xã hội.
Việc giải quyết các mâu thuẫn của sự vật theo phương thức phủ định biện
chứng ở đây không phụ thuộc vào ý thức con người mà nó phụ thuộc vào tính chất,
đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Sự tác động biện chứng đó diễn ra trong hiện thực,
tuỳ theo hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất. Chính vì vậy, mỗi loại sự vật có


phương thức phủ định riêng của nó, do đó mà có sự phát triển. Điều này, địi hỏi khi
xem xét sự phát triển của sự vật, chúng ta phải nhìn thấy được các mâu thuẫn, cũng như
sự vận động của các mối liên hệ trong bản thân sự vật, tránh cách nhìn phiến diện, cơ lập
như Ăngghen đã nói về các nhà triết học siêu hình trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”:
Tóm lại, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển
nằm trong chính bản thân sự vật; phát triển là quá trình giải quyết liên tục những mâu
thuẫn nảy sinh trong tồn tại và vận động của sự vật, đó cũng là q trình tự thân của

mọi sự vật. Vì vậy, sự phát triển mang tính khách quan.
1.1.2.2. Sự phát triển có tính phổ biến
Thế giới chúng ta đang sống tồn tại rất nhiều các sự vật, hiện tượng và cũng
chính vì vậy mà có rất nhiều mối liên hệ đa dạng, phong phú trong chính bản thân mỗi
sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng khác với nhau. Do đó, khi nhận thức
về các sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm tồn diện để thấy rõ tính đa
dạng, nhiều chiều của nó, tránh quan điểm phiến diện chỉ xem xét sự vật, hiện tượng
trong tương quan của một mối liên hệ nhất định nào đó và vội vàng kết luận về bản
chất hay về tính quy luật của chúng. Sự phát triển không chỉ diễn ra trong tự nhiên mà
cả trong xã hội lẫn tư duy.
Trong tự nhiên, sự phát triển của giới vô cơ biểu hiện dưới dạng biến đổi các
yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại giữa chúng trong những điều kiện nhất
định sẽ làm nảy sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó làm xuất hiện các vật chất ban đầu tiền đề của sự sống. Sự phát triển của giới hữu cơ thể hiện khả năng thích nghi trước
những thay đổi phức tạp của mơi trường, sự hồn thiện thường xuyên giữa quá trình
trao đổi chất trong bản thân sự vật và giữa cơ thể với môi trường, khả năng tựsản sinh
ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn để từ đó xuất hiện ngày càng nhiều
giống, lồi mới phù hợp với mơi trường sống. Sự phát triển trong tự nhiên được
Ph.Ănghen chứng minh bằng các luận điểm ở các tác phẩm của mình. Trong “Biện
chứng của tự nhiên”, khi phân tích vấn đề sựsống, Ph.Ănghen cho rằng: “sự sống là
sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên, với những điều kiện
thuận lợi tích tụ trong q trình các chất ngun sinh sống ban đầu đã hình thành. Sự
sống xuất hiện cũng là lúc lịch sử của nó bắt đầu và trải qua một thời kỳ tiến hóa. Mầm
mống của sự sống đầu tiên là các thể anbuminchưa có kết cấu tế bào, qua nhiều lần
phân hóa hàng tỷ năm đã hình thành nên các tế bào đầu tiên nhờ “một cái nhân và một


cái màng bọc bên ngoài”. Nhưng với cái tế bào đầu tiên ấy thì cơ sở cho sự cấu thành
hình thức của thế giới hữu cơ cũng đã có” [28, tr. 480]. Quá trình vận động trong
những đơn bào làm cho q trình phân hóa cứ thế tiếp tục diễn ra phát triển thành
những sinh vật đa bào. Từ đó, các sinh vật đa bào hình thành nên các lồi thực vật đầu

tiên, một số bộ phận khác tạo nên các động vật ban đầu và tiếp tục phân hóa thành lớp,
bộ, họ, giống... Sự phát triển của sự sống từ kết cấu đơn giản cho đến phức tạp, từ bậc
thấp lên bậc cao, từ động vật không xương sống đến động vật có xương sống. Và kết
quả vĩ đại nhất của tự nhiên là sự tiến hóa từ động vật có vú đến việc hình thành và
xuất hiện lồi người sở hữu bộ não phát triển, đã mở ra những trang sử đầu tiên về
loài người. Giới tự nhiên đã có q trình phân hóa vơ cùng vơ tận, mọi thứ vẫn cứ thế
biến chuyển, phát triển để hình thành nên những sản phẩm khác hơn, những sản phẩm
tiến bộ theo tiến trình lịch sử.
“Tất cả những gì sinh ra đều đáng bị phải diệt vong”, mọi sự vật đều có tính
hữu hạn của nó, có sinh ắt có diệt và tất cả phải đặt trong quá trình “tuần hồn vĩnh
cửu và phát triển vơ hạn”. Giới tự nhiên vận động không ngừng. Xét về mặt lượng, vận
động của vật chất khơng thể tự nhiên mà có, cũng khơng thể tự nhiên mất đi; về mặt
chất, vật chất có khả năng chuyển từ một hình thức vận động này sang một hình thức
vận động khác, khả năng đó tồn tại mãi mãi, khơng bao giờ mất đi. Từ đó có thể thấy,
q trình phát triển của giới tự nhiên là q trình khơng có điểm kết thúc, các hình
thức tồn tại của vật chất là hữu hạn, “ tổng thể vật chất và các quy luật vận động của
nó mới vĩnh hằng”.[26, tr.876]
Trong xã hội, sự phát triển được biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và
cải biến xã hội cũng như bản thân con người. Sự vận động và phát triển của xã hội
được đánh dấu bởi sự thay thế về hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã
hội cao hơn: Từ chế độ công xã nguyên thủy lên xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội
phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa và chính nhờ vào nguyên lý về sự phát triển mà
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã khẳng định sẽ có một hình thái kinh tế xã hội
cao hơn thay thế cho hình thái kinh tế xã hội tư bản. Các ơng gọi đó là hình thái kinh
tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đây là hình thái kinh tế xã hội cao nhất trong lịch sử loài
người, là xã hội phát triển đồng bộ trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa
học kỹ thuật.... Trong “Tư bản”, C.Mác đã phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa với tính cách là một cơ thể đầy đủ, trọn vẹn đang vận động, phát sinh, phát triển



và tiêu vong. Sự phân tích của C.Mác “phát hiện trong các hiện tượng đơn giản ấy
(trong cái “tế bào” ấy của xã hội tư sản) tất cả những mâu thuẫn của xã hội hiện đại.
Sự trình bày tiếp theo vạch cho chúng ta thấy sự phát triển của các mâu thuẫn ấy và cái
xã hội ấy” [25, tr.380]. Sự phân tích của C.Mác cho thấy, xã hội tư bản khơng phải là
một “vật kết tinh cứng đờ” mà có khả năng tiến triển và chuyển hóa thường xuyên với
sự đầy đủ tất cả các quy luật nội tại của nó bằng cơ sở, cách thức, con đường đi đến sự
phát triển hình thành một chất mới, một phương thức sản xuất mới. Cũng phải khẳng
định rằng, sự tiến lên từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội là kết quả tất yếu không
thể tránh khỏi sự phát triển của phương thức tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển trong lĩnh vực xã hội còn thể hiện qua sự thay đổi của cơ cấu xã
hội như: Giai cấp, nghề nghiệp, sự biến đổi của lực lượng sản xuất (bao gồm tư liệu
sản xuất và người lao động), sự biến đổi của các quan hệ sản xuất (bao gồm: Quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức và quản lý lao động xã hội, quan hệ về
phân phối sản phẩm). Nói chung, sự phát triển biểu hiện rõ nét nhất ở khả năng chinh
phục tự nhiên và cải tạo xã hội để dần tiến đến một xã hội hoàn thiện, phù hợp hơn.
Trong tư duy, sự phát triển được thể hiện qua quá trình nhận thức của con người
ngày một hoàn thiện hơn, sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực tự nhiên và
xã hội. Ngay cả các khái niệm, phạm trù phản ảnh thế giới hiện thực cũng nằm trong
quá trình vận động và phát triển và trên cơ sở phát triển của tư duy mà các khái niệm,
phạm trù mới có thể phản ảnh đúng đắn hiện thực ln vận động và phát triển. Đó
chính là q trình tìm hiểu, khám phá, nắm bắt bản chất sự vật, hiện tượng xung quanh
từ hình thức bên ngồi đến nội dung bên trong, từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết
nhiều... để từ đó tác động vào tự nhiên, chinh phục tự nhiên.
Sự phát triển của mỗi con người biểu hiện ở khả năng tự hồn thiện mình cả về
thể chất và tinh thần, sao cho phù hợp với sự vận động và phát triển của mơi trường
mà trong đó con người sống và hoạt động. Hay nói cách khác, sự phát triển được thể
hiện ở việc tăng cường khả năng thích nghi của cơ thể con người trước sự thay đổi của
môi trường, ở khả năng khám phá và chinh phục thế giới với trình độ khoa học kỹ thuật
ngày càng hoàn thiện hơn, cao hơn để phục vụ cho chính cuộc sống của con người.
Như vậy, sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tất cả các lĩnh

vực tự nhiên, xã hội, tư duy và trong bản thân con người. Điều đó chứng tỏ rằng sự
vận động và phát triển không phải chỉ diễn ra ở một sự vật, hiện tượng đơn lẽ hay ở


một q trình vận động riêng biệt mà nó diễn ra ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong
không gian rộng và thời gian dài với sự ra đời của sự vật mới thay thế cho sự vật cũ và
có khuynh hướng chung là vận động đi lên ở mọi sự vật, hiện tượng. Vậy, chúng ta có
thể khẳng định sự phát triển mang tính phổ biến.
1.1.2.3. Sự phát triển có tính đa dạng, phong phú
Trong thế giới hiện thực luôn tồn tại rất đa dạng, phong phú các sự vật, hiện
tượng và chúng không đồng nhất với nhau về kết cấu, tổ chức. Vì vậy, chúng khơng
đồng nhất về sự tác động, chi phối lẫn nhau và ở mỗi sự vật, hiện tượng thì có các
phương thức, con đường giải quyết mâu thuẫn khác nhau, bao gồm cả giới tự nhiên, xã
hội loài người và cả trong tư duy. Tính đa dạng trong sự phát triển cịn biểu hiện ở các
sự vật luôn sự khác nhau về nhịp độ, về quy mô của bước nhảy vọt.
Phát triển là khuynh hướng chung cho mọi sự vật, hiện tượng. Song các sự vật,
hiện tượng có q trình phát triển khơng giống nhau. Sự biến đổi thường xuyên và
tuyệt đối đã trở thành căn ngun cho tính đa dạng. Cịn sự ổn định tương đối là cơ sở
của tính lặp lại của quy luật. Sự phát triển mang tính đa dạng phong phú bởi tính lặp
lại của thế giới sự vật, mỗi sự vật và hiện tượng cùng một lúc vừa tồn tại trong q
trình vận động nói chung, vừa tồn tại trong sự vận động tạm thời và trong không gian
khác nhau, thời gian khác nhau nên sự vật sẽ phát triển khác nhau.
Bên cạnh đó, trong q trình phát triển các sự vật, hiện tượng còn chịu sự tác
động, chi phối của các sự vật, các hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện
xung quanh. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật đơi
khi nó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật và thậm chí cịn làm cho
sự vật có bước thụt lùi. Như vậy, sự phát triển diễn ra hết sức quanh co và phức tạp
khơng phải theo một trình tự cố định nào hay tốc độ ổn định. Có thể nói, sự phát triển
của các sự vật, hiện tượng mang tính phong phú, đa dạng bởi chúng phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Trong đó có yếu tố tồn tại của chính bản thân sự vật trong tự nhiên và

cịn do sự tác động của yếu tố bên ngồi, q trình phát triển chính là q trình giải
quyết các mâu thuẫn nảy sinh để lọc bỏ những yếu tố khơng cịn phù hợp, giữ lại và
điều chỉnh những yếu tố phù hợp để tạo nên bước nhảy vọt về chất.
1.1.2.4. Sự phát triển có tính kế thừa
Bản chất của sự phát triển là sự diệt vong cái cũ và làm nảy sinh cái mới. Quá
trình triệt tiêu cái cũ diễn ra càng nhanh, càng triệt để thì sự phát triển diễn ra càng


nhanh chóng và vững chắc. Với sự ra đời của sự vật mới, một kết cấu mới được xác
lập, kết cấu đó khơng phủ định tồn bộ kết cấu cũ, nó vẫn kế thừa những mặt, những
yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, đồng thời loại bỏ những mặt, những yếu tố khơng
cịn phù hợp, ngăn cản sự vật phát triển. Vì thế sự phát triển tạo ra sự vật mới với hình
thức cao hơn, nội dung phong phú và có sức sống mãnh liệt hơn. Tính kế thừa của sự
phát triển gắn liền với quá trình cái mới, cái phù hợp phủ định cái cũ, cái khơng thích
hợp và những tàn tích của kết cấu cũ để cho ra đời một sự vật mới với kết cấu mới. Sự
phát triển cịn là một q trình tích lũy về lượng đến một giới hạn nhất định và khi
vượt qua giới hạn đó thì chất cũ bị biến mất, một chất mới ra đời thay thế cho chất cũ.
Sự biến đổi về lượng đã tạo ra xu hướng biến đổi về chất và ngược lại là đòi hỏi khách
quan, có tính phổ biến, nó là quy luật cơ bản của phép biện chứng.
Sự phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra một cách đơn giản mà diễn ra
một cách phức tạp, theo con đường dích dắc, vừa đi lên vừa có bước thụt lùi và cái
mới phủ định cái cũ đều ở một trình độ cao hơn trong q trình cải tiến đó. Sự phát
triển của sự vật, hiện tượng ln có tính kế thừa, sự ra đời của một sự vật, hiện tượng
mới không phải là ngẫu nhiênmà trái lại nó được hình thành và phát triển trên sự kế
thừa có chọn lọc những yếu tố hợp lý trong các mặt, các yếu tố của sự vật cũ. Trong đó
những mặt những yếu tố khơng hợp lý được phủ định, loại trừ. Đó là quá trình vận
động đi lên, là quá trình đan xen giữa tích luỹ dần về lượng với những bước nhảy vọt
về chất.
Chính nhờ những yếu tố kế thừa mà sự phủ định lần hai xuất hiện với tư cách là
tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã phát triển từ trước, có nội dung phong phú

hơn cái khẳng định ban đầu, góp phần quy định khuynh hướng phát triển của sự vật,
hiện tượng. Hay nói cách khác, q trình phát triển là sự thống nhất giữa cái cũ và cái
mới với tính cách là hai mặt đối lập nhau, cái mới ra đời là một biểu hiện tất yếu, hợp
với quy luật của sự vật, hiện tượng, là: “Sự phát triển dường như diễn lại những giai
đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác nhau ở một trình độ cao hơn, sự phát
triển không phải theo một đường thẳng tắp mà theo một đường xốy ốc” [23, tr.65].
Chính vì vậy, khi xem xét một sự vật, hiện tượng xã hội nào trong q trình phát triển,
chúng ta ln tìm thấy trong đó những vết tích của q khứ, những cơ sở của hiện tại
và những mầm mống của tương lai.


×