Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CỦA MARX-LENIN VỀ CON NGƯỜIVÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰNGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TAHIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.16 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------***--------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CỦA MARX-LENIN VỀ CON NGƯỜI
VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ
NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Vũ Yến Ngọc
Mã sinh viên: 1913320046
Lớp: Anh 01 – NGHG
Lớp tín chỉ: TRI114.8
STT: 75
Giáo viên hướng dẫn: TS Đào Thị Trang

Hà Nội, ngày 04 tháng 12 năm 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------***--------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CỦA MARX-LENIN VỀ CON NGƯỜI
VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ
NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Vũ Yến Ngọc
Mã sinh viên: 1913320046
Lớp: Anh 01 – NGHG


Lớp tín chỉ: TRI114.8
STT: 75
Giáo viên hướng dẫn: TS Đào Thị Trang
Hà Nội, ngày 4 tháng 12 năm 2019


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Trong khi thế giới đã trải quan hai cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật vĩ đại,
tại sao chúng ta lại phải nghiên cứu về phạm trù con người và vấn đề về con người
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước? Phải chăng phương thức
duy nhất để phát triển nền kinh tế thế giới đó là cơng nghiệp hố, hiện đại hố?
Nhưng quan trọng hơn cả, phải chăng chính con người là chủ thể, là mấu chốt, là
điểm khởi đầu cũng như là cái đích của q trình lâu dài này?
Trước hết có thể nói rằng xã hội hai nguồn tài nguyên: thiên nhiên và con
người là hai nguồn tài nguyên mà loài người tồn tại và phát triển dựa vào. Theo
quan niệm cổ điển, mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên đều có hạn và đều có thể bị
khai thác cạn kiệt. Song, sự hiểu biết của con người đã, đang và sẽ không bao giờ
chịu dừng lại, nghĩa là nguồn tài nguyên trí tuệ khơng có giới hạn. Kể từ thập niên
60 của thế kỷ XX, kiến thức khoa học của nhân loại chỉ cần khoảng thời gian dưới
7 năm để tăng gấp đôi. Và thời gian ấy càng ngày càng được thu ngắn. Tính vơ tận
của nguồn tiềm năng trí tuệ là nền tảng để con người nhận thức tính vơ tận của thế
giới vật chất, tiếp tục nghiên cứu những nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa được
khai thác và sử dụng, phát hiện ra những tính năng mới của những dạng tài nguyên
đang sử dụng,… nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội trong những điều kiện
mới. Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con người là nguồn lực vô tận của sự phát triển xã
hội. Đồng thời, nguồn lực phát triển của xã hội, quan trọng hơn cả cũng chính là
con người- nguồn tiềm năng sức lao động. Con người đã làm nên lịch sử của chính

mình bằng lao động được định hướng bởi trí tuệ đó.
Chính vì những điều trên mà em quyết định chọn đề tài “Quan điểm triết học
của Marx-Lenin về con người và vấn đề xây dựng nguồn nhân lực con người trong
4


sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận
của mình với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. Tuy nhiên trong q
trình làm bài, dù em đã có rất nhiều cố gắng nhưng vì lượng kiến thức và hiểu biết
có hạn nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, do đó em rất mong cơ và các bạn
có thể thông cảm và giúp đỡ em nhiều hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn cô ạ.

5


I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI

1.1. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử:
1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây

Trong triết học phương Tây có hai khuynh hướng cơ bản là duy vật và duy
tâm trong quan niệm về con người. Các nhà duy vật từ cổ đại đã khẳng định bản
chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong tự
nhiên khơng có gì là thần bí. Tiêu biểu là quan niệm duy vật theo tinh thần ngun
tử luận của Đêmơcrít về con người. Ông cho nguyên tử là cơ sở để tạo nên thể xác
và linh hồn con người.
Đến thời kỳ phục hưng và cận đại con người được đề cập một cách hiện thực
hơn mặc dù cịn mang tính cơ học. Các nhà duy tâm thì ngược lại, chú trọng hoạt
động lý tính của con người. Họ coi con người là sản phẩm của những lực lượng

siêu tự nhiên.
Nhìn chung, các quan niệm trước và ngoài Mác xem xét con người phiến
diện, nhìn nhận con người cịn trừu tượng, chung chung, phi thực tiễn, phi lịch sử,
phi giai cấp.
1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông

Trong triết học Trung Hoa cổ đại, vấn đề bản tính con người được quan tâm
hàng đầu. Nho gia cho rằng bản tính con người là thiện, Pháp gia cho rằng bản tính
con người là bất thiện,cịn Đạo gia nhấn mạnh bản tính tự nhiên của con người. Từ

6


sự khác nhau về quan niệm của các trường phái về bản chất con người đã dẫn đến
những quan điểm khác nhau về các vấn đề chính trị, đạo đức, xã hội.
Triết học Ấn Độ cổ đại cũng có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất con
người. Phật giáo khẳng định bản tính vơ ngã (khơng có cái tơi), vơ thường (ln
thay đổi) và tính hướng thiện của con người. Các trường phái khác đề cập nhiều tới
con người tâm linh.
1.2. Quan điểm triết học của Marx-Lenin về con người
1.2.1. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Thực tế, nếu khơng có tự nhiên, khơng có lịch sử - xã hội thì khơng thể có
con người. Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu
sinh, nhưng con người luôn là chủ thể lịch sử - xã hội, được thể hiện ở chỗ:


Các cá nhân con người chủ động lựa chọn sự tác động của xã hội đối
với mình, khơng chịu khuất phục trước mơi trường, điều kiện khách




quan, mà chủ động tác động, cải tạo điều kiện khách quan.
Nhờ hoạt động thực tiễn mà con người cải tạo tự nhiên đồng thời làm
nên lịch sử của mình. Do vậy chính con người đã sáng tạo ra lịch sử.
Thơng qua hoạt động thực tiễn của mình con người thúc đẩy xã hội
phát triển từ thấp đến cao.

Con người không những là sản phẩm của xã hội mà con người còn là chủ thể
cải tạo chúng. Bằng mọi hoạt động lao động sản xuất con người sáng tạo ra tồn bộ
nền văn hố vật chất, tinh thần. Bằng hoạt động cách mạng. Con người đánh dấu
thêm các trang sử mới cho chính mình mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động
theo những quy luật khách quan song q trình vận động của con người ln xuất
phát từ nhu cầu, động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do

7


đó đã tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng cuả quy luật cho phù hợp
với nhu cầu và mục đích của mình.

8


1.2.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội

Xuất phát từ con người hiện thực, C.Mác đã nhận thấy lao động đóng vai trị
quyết định trong việc phân chia ranh giới giữa con người và động vật. Vì lao động
là hoạt động xã hội nên mọi sự khác biệt giữa con người và động vật đều là kết quả
của cuộc sống con người trong xã hội. Cá nhân là thực thể xã hội và bản chất con

người có tính lịch sử cụ thể. Điều đó quy định sự khác nhau của con người trong
các thời đại khác nhau, sự khác nhau này tuỳ thuộc vào sự phát triển của xã hội, sự
thay đổi các quan hệ xã hội và giao tiếp. Vì vậy, bản chất con người là tổng hồ các
mối quan hệ xã hội, khơng chỉ tổng hồ các mối quan hệ trong hiện taị mà cả trong
quá khứ.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác khẳng định: “Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực,
không phải là tự nhiên mà là lịch sử, khơng phải là cái vốn có trong mỗi cá thể
riêng lẻ mà là tổng hịa của tồn bộ quan hệ xã hội. Rõ ràng, con người là con
người hiện thực, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể, trong một thời đại xác
định. Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn
vận động và biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không
phải là một hệ thống đóng kín, mà là một hệ thống mở, tương ứng với điều kiện
tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, con người có vai
trị tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thơng qua đó,
bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng mỗi sự
vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp)
với sự vận động và biến đổi của bản chất con người
9


Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản
chất con người, song khơng có nghĩa là triết học Mác-Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên,
phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Ở đây, con người
với tư cách là sản phẩm của tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt
xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với

mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Khơng có hoạt động của con người thì
cũng khơng tồn tại quy luật xã hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ lịch
sử xã hội lồi người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính là tồn
bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thơng qua đó con người tiếp cận hồn cảnh một cách tích cực và tác động trở
lại hồn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng
xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các
quy luật nhận thức hướng con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của
lịch sử xã hội loài người.
1.2.3. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt
xã hội
Kế thừa những điểm tiến bộ trong lịch sử triết học về con người triết học
Mác-Lênin khẳng định con người là sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội,
là một thực thể sinh vật - xã hội.

10


Mặt sinh vật thể hiện ở chỗ, cũng giống như những động vật khác, con
người cũng chịu sự quy định của các quy luật sinh học, của tự nhiên như quy luật
đồng hoá và dị hoá, quy luật biến dị và di truyền, v.v. Mặt sinh vật có những tương
đồng với động vật cao cấp những đã được người hoá, nhân tính hố.
Mặt xã hội của con người thể hiện ở chỗ, con người là một loại động vật có
tính chất xã hội. Toàn bộ đời sống và hoạt động của con người là do hoàn cảnh xã
hội quyết định. Con người chỉ trở thành người đích thực khi sống trong xã hội và
có hoạt động xã hội cho mình, cho đồng loại. Trước hết, đó là hoạt động sản xuất
vật chất. Chính hoạt động sản xuất vật chất biểu thị bản chất xã hội của con người.

Hai mặt này có quan hệ khắng khít khơng thể tách rời nhau, trong đó mặt
sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố
quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định
bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động
sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình
thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong
cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người ln ln bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng
thống nhất với nhau:




Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể
Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức.
Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.

Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên thể thống nhất trong đời
sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ giữa sinh học
và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội

11


trong đời sống con người như nhu cầu ăn, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu
tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng các giá trị tinh thần.
Với phương pháp duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
sinh học với mặt xã hội cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi
con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn

mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh
học phải được nhân hóa để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu
cầu xã hội khơng thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống
nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự
nhiên – xã hội.

II. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
2.1. Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Theo quan điểm của Đảng ta xác định cơng nghiệp hóa là q trình chuyển
đổi căn bản, tồn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh
tế xã hội từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động
xã hội cao.
Cơng nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm phải gắn liền với hiện đại hóa bởi vì
cuộc cách mạng khoa học hiện đại đã và đang diễn ra một số nước phát triển bắt
đầu nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Do đó chúng ta cần phải
tranh thủ ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tiếp cận với nền

12


kinh tế tri thức để hiện đại hóa những ngành, những khâu những lĩnh vực có điều
kiện nhảy vọt.
Ở nước ta cơng nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc. Mục tiêu tổng qt
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam xác
định tại Đại hội lần thức VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là “Đưa

nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại hóa”
2.2. Vai trị của nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghệ hóa – hiện đại hóa
đất nước
2.2.1. Con người là nhân tố chủ chốt, sử dụng các nguồn lực khác phục
vụ cho quá trình CNH –HĐH .

Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên... nó đều chỉ tồn tại ở
dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi kết
hợp với nguồn lực con người thông qua sự hoạt động ý thức của con người. Bởi lẽ
con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết lợi dụng các
nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác
động vào q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Các nguồn lực khác chịu sự cải
tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích
của con người nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu
tố thì yếu tố con người quan trọng nhất. Chẳng hạn như vốn, tài nguyên là những
nguồn lực để tiến hành CNH-HĐH nhưng chúng chỉ trở thành nguồn lực quan
trọng và cấp thiết cho sự phát triển khi nằm trong tay của người biết khai thác và

13


sử dụng chúng. Thiếu sự hiện diện của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vơ
nghĩa .

2.2.2. Trí tuệ con người có sức mạnh vơ cùng to lớn
Một khi nó được vật thể hố để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự
phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang
dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế

trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng
phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám
chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia.
Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người
có thể tạo ra những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ
của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật cơng nghệ hiện đại do chính
bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần
kỳ trong lịch sử phát triển của mình.
Nguồn lực con người khơng chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà
còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội nếu biết
chăm lo, bồi dưỡng hợp lý. Đó là cơ sở để làm cho năng lực và hoạt động thực tiễn
của con người phát triển như một q trình vơ tận. Nhờ vậy con người đã từng
bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều
công cụ sản xuất mới, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao .
2.2.3. Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt cịn
nguồn lực con người là vô tận
Nguồn lực con người không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà
cịn tự đổi mới khơng ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội nếu biết
14


chăm lo, bồi dưỡng hợp lý. Đó là cơ sở để làm cho năng lực và hoạt động thực tiễn
của con người phát triển như một q trình vơ tận. Nhờ vậy con người đã từng
bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều
công cụ sản xuất mới, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao .
2.2.4. Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn

Từ sự nghiệp đổi mới của chính nước ta trong những năm qua cho thấy, sự
thành cơng của cơng nghiệp hố - hiện đại hố phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định
đường lối chính sách, cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực

nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Khơng có những nhà chính khách,
các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học cơng nghệ... thì khó có thể có
được những chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn. Khơng có những nhà
kinh doanh tài ba thì cũng sẽ khơng có người sử dụng một cách có hiệu quả các
nguồn vốn, tài ngun, cơng nghệ.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy được rằng, nguồn lực con
người là nguồn lực có vai trị quyết định sự thành cơng của q trình cơng nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước. Do vậy muốn cơng nghiệp hố - hiện đại hố được
thành cơng thì phải đổi mới, quan tâm đến các chính sách đầu tư cho các ngành
khoa học, văn hoá, giáo dục nhằm phát triển nguồn lực con người.
2.3. Thực trạng việc sử dụng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay

Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong
thời kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là
nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược phát
triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội Đảng XI thông qua ngày

15


16/2/2011. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn thấp và
cần phải được cải thiện càng sớm càng tốt.
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ
thơng và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đơng,
trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của
Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng
cao. Không thể nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại học
còn thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém; tỷ lệ lao động mới qua đào tạo mới chỉ
có từ 30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng máy tính, cơng nghệ
thơng tin kém…

Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo
trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng
cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở
lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ
cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại
học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi
trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao
động có trình độ tay nghề, cơng nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân
lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì
chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á
tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia
là 5,59; Thái Lan là 4,94… Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất
cân đối.
Các ngành kỹ thuật – cơng nghệ, nơng – lâm – ngư nghiệp ít và chiếm tỉ
trọng thấp, trong khi đó các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ… lại quá cao.
16


Nhiều ngành nghề, lĩnh vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh
vực hiện đang thiếu lao động như: kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm tốn,
cơng nghệ thơng tin, điện tử, viễn thơng, cơ khí chế tạo…

17


2.4. Một số giải pháp để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực hiệu quả ở
nước ta hiện nay
2.4.1. Nâng cao trình độ văn hóa, thúc đẩy mạnh cải cách giáo dục




Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề và đào
tạo chuyên nghiệp. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới



trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước.
Xây dựng nền giáo dục theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội



hóa”.
Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học.
Cải cách mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết
quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,
đồng thời nâng cao chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và



cơng nghệ vào giáo dục và đào tạo.
Thiết lập được hệ thống thông tin thị trường lao động để cung cấp, xử
lý thông tin tạo cơ sở tin cậy xác định nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng,



gắn sử dụng nhân lực với việc làm.
Coi trọng hướng nghiệp, dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực.

2.4.2. Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực


Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân
lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt
động bộ máy quản lý về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu
trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa
bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã
hội.

18


2.4.3. Đảm bảo nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực

Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia
đến năm 2020. Vì vậy, cần tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và
tỷ trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ
ngân sách nhà nước theo hướng tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm
vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào
tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa, cho các đối tượng là người dân
tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…).
Thêm vào đó, cần đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường huy động các nguồn
vốn cho phát triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các
nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình
thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hóa, thể
dục thể thao. Góp vốn, mua cơng trái, hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân
lực. Cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo
điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng,
dạy nghề nói riêng .


19


III. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006, Giáo trình Triết học (dùng cho học viên
cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), NXB Lý luận
Chính trị, Hà Nội
3.Phạm Minh Hạc,1996, Vấn đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. Bách khoa tồn thư mở Wikipedia
5. Quan điểm triết học mác-lênin về con người .Phúc triết học blog
/>6. Tình hình kinh tế - xã hội năm 2010. Tổng cục thống kê
/>
20


LỜI KẾT

Cơng nghiệp hố- hiện đại hố là q trình tất yếu. Và sự nghiệp cơng
nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu cần thiết cần phải có
nhân tố con người có tri thức, kỹ năng, phẩm chất để phục vụ sự nghiệp phát triển
đất nước. Ở hầu hết các nước phát triển, nguồn nhân lực là một trong những mối
quan tâm hàng đầu và tất cả các nước đều coi trọng yếu tố con người, đồng thời có
những chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã xác định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới cũng là thành cơng của q
trình xây dựng và phát triển con người mang tính tồn diện, là một trong những

nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nước
ta một nước cơng nghiệp, theo hướng cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa.
Hiện nay đất nước ta đang đi lên cơng nghiệp hố- hiện đại hoá. Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương lớn của Đảng ta, là con
đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Chính vì vậy, việc giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ln là nhiệm vụ, u cầu cấp thiết, lâu dài
của tồn Đảng và tồn hệ thống chính trị ở nước ta.

21


22



×