Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

TIỂU LUẬN Học thuyết Nho giáo, quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo trong truyền thống văn hoá Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.92 KB, 68 trang )

I – Học thuyết Nho giáo, quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo trong
truyền thống văn hoá Việt Nam:
1- Sơ lược về học thuyết Nho giáo
Trung Quốc là trung tâm văn hoá lớn của nhân loại trong thời kỳ cổ trung đại trãi qua gần
bốn mươi thế kỷ phát triển liên tục, lịch sử triết học Trung Quốc bao hàm nội dung vô
cùng phong phú với những hệ thống triết học đồ sộ và sâu sắc.
Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc thời cổ đại đó là
những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức, thể chế cai trị vốn đã có cơ sở ở Trung Quốc từ
thời Tây Chu, đến cuối thời Xuân Thu (TKXI-TKV TCN) thì được Khổng Tử (551479TCN) và các mơn đệ của Ơng là Mạnh Tử (372-289 TCN) và Tuân Tử ( 313 -238
TCN) hệ thống hóa ổn định lại trong hai bộ kinh điển là Tứ Thư và Ngũ Kinh.
Tứ Thư gồm : Luận ngữ, Đại học, Trung Dung và Mạnh Tử, bộ sách này do các học trò
của Khổng Tử đã tập hợp những lời dạy của thầy mà soạn ra.
Ngũ Kinh[2]gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
Nội dung bộ sách này phần lớn có từ trước được Khổng Tử gia cơng san định, hiệu đính
và giải thích. Do Khổng Tử có cơng đầu trong việc phát triển tư tưởng của Chu Cơng, hệ
thống hóa lại và truyền bá nên ông được xem là người sáng lập Nho giáo.
Nho giáo từ Khổng Tử đến Mạnh Tử được coi là giai đoạn hình thành, giai đoạn này
được coi là Nho giáo nguyên thuỷ.
Năm 221TCN Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc và áp dụng chính sách cai trị
bằng pháp luật độc đoán khắt nghiệt đã dùng bạo lực tiêu diệt Nho giáo.
Khi Hán Vũ Đế lên ngôi (140-87 TCN), đã thực hiện những chính sách quan trọng, thực
hiện theo lời khuyên của Đổng Trọng Thư, khôi phục Nho giáo và đưa Nho giáo lên địa
vị Quốc giáo .
Nho giáo đời Hán (Hán Nho) đã được cải tạo, biến đổi, nhằm mục đích phục vụ vương
triều.
Do đó từ đời Hán Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống chi phối văn hoá Trung
Quốc và làm nền tảng cho việc xây dựng và bảo vệ chế độ phong kiến Trung Quốc suốt
hai ngàn năm lịch sử.
Ba cương lĩnh cơ bản của Nho giáo (Tam cương ) là:
- Đạo vua tôi (quân thần)
- Đạo cha con (phụ tử)




- Đạo vợ chồng (phu phụ)
Năm phép ứng xử luân lý và đạo đức (Ngũ thường ) Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín
Hạt nhân tư tưởng của triết học Nho giáo là Nhân và Lễ.
Nho giáo coi chữ Nhân là đạo đức hồn thiện nhất “Nhân dã, Nhân giả” (kẻ có nhân ấy,
ấy là con người vậy) “nhân giả ái nhân” (người có nhân thì u con người)
Để đạt chữ nhân, Khổng Tử chủ trương dùng lễ nhà Chu (Chu lễ) “Nhất nhật Khắc kỷ
phục lễ, thiên hạ quy nhân yên”(một ngày biết nén mình theo lễ thì thiên hạ quy về nhân
vậy). Nhà Nho đã từ hai chữ nhân và lễ mà suy diễn ra cả một hệ thống triết học chính trị,
triết học đạo đức và triết học lịch sử.
Trên cơ sở những tư tưởng triết học ấy đã hình thành mẫu người của Nho giáo là người
quân tử mà lý tưởng sống được thể hiện tập trung trong một hệ thống quan niệm về tu
thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ.
Giữa Khổng Tử và các học trị của Ơng có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí mâu
thuẩn với nhau như “Quan điểm về thế giới” nhưng nhìn chung có sự thống nhất. Sự
thống nhất đó thể hiện ở hệ thống quan điểm về đạo đức luân lý, chính trị - xã hội, trong
đó có sự thống nhất về các giá trị đạo đức, các mối quan hệ con người (ngũ luân), trật tự
đẳng cấp xã hội (chủ trương chính sách), sự tất yếu của chính quyền.
Trong triết học của Nho giáo với nội dung đạo đức, luân lý phong phú, thống nhất với
nhau và thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đây có lẽ là thành quả rực rỡ
nhất trong triết lý nhân sinh và có nhiều đóng góp hữu ích vào việc hoàn thiện và làm
phong phú kho tàng lý luận giáo dục đạo đức của nhân loại.
Do hạn chế về mặt lịch sử, triết học Khổng Tử chứa đựng các mâu thuẩn giằng co, đan
xen giữa những yếu tố duy vật, vô thần với những yếu tố duy tâm, giữa những tư tưởng
tiến bộ với những quan điểm bảo thủ, phản ánh tâm trạng giằng xé của Ông trước biến
chuyển của thời cuộc. Tính khơng nhất qn ấy là cơ sở để các thế hệ sau khai thác, bóp
méo theo khuynh hướng duy tâm, tơn giáo thần bí. Về mặt chính trị xã hội, Ơng dừng lại
trong lĩnh vực đạo đức, luân lý, không chú ý đến lĩnh vực sản xuất kinh tế và nhu cầu của
con người là cơ sở để phát triển của xã hội.

Tư tưởng Mạnh Tử tuy cịn nhiều yếu tố duy tâm thần bí, nhưng với tư tưởng dân quyền,
“nhân chính”, “bảo dân”… có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển
của lịch sử xã hội đương thời.
Tư tưởng của Tuân Tử có quan điểm duy vật về thế giới, nhưng khi lý giải về những vấn
đề xã hội có nhiều yếu tố duy tâm, thiếu khách quan khoa học vì liên hệ mật thiết với giai
cấp địa chủ mới và cung cấp cho giai cấp này căn cứ lý luận Với học thuyết “Chính danh
định mệnh” làm cho con người chấp nhận sự tồn tại lâu dài của chế độ phong kiến, là
nguyên nhân của sự trì trệ, chậm phát triển của các nước phuơng Đông.


Quan hệ của con người trong Tam cương có tính phiến diện. Mặc dù Nho giáo có nói đến
nghĩa vụ và cách đối xử của hai bên, nhưng thực tế thì trước sau chỉ lên án những kẻ làm
tơi, làm con, làm vợ mà thơi. Thực tế đó là mối quan hệ độc đốn một chiều. Hơn nữa,
quy tồn bộ quan hệ xã hội của con người vào Tam cương, Ngũ thường là không đủ, Đặc
biệt Nho giáo coi thường người phụ nữ, đã quy định trói buộc người phụ nữ vào người
đàn ông (coi trọng nam khinh nữ).
2. Quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo trong truyền thống văn hố Việt
Nam :
°Định nghĩa văn hóa :
Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa với nhiều phạm vi khác nhau trong tiếng Việt, văn hóa
được dùng theo nghĩa thơng dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống
văn hóa); Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn lịch sử (văn
hóa Đơng Sơn).
Định nghĩa văn hóa trong các từ điển hầu hết mở đầu bằng câu : “Văn hóa là tập hợp của
các giá trị…” ủy ban UNESCO của liên hợp quốc thì xếp văn hóa bên cạnh khoa học và
giáo dục, tức đặt hai lĩnh vực này ra ngồi khái niệm văn hóa, và đã định nghĩa văn hóa
như sau : “ Văn hóa là một phức thể, tổng thể các đặc trưng – diện mạo tinh thần, vật
chất, tri thức và tình cảm … Khắc họa lên bản sắc một cộng đồng gia đình, xóm làng,
vùng, miền, quốc gia, xã hội. Văn hóa khơng chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền

thống tín ngưỡng …”[3]
Theo Triết học Macxít thì : “Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của xã hội mà loài người
đạt được, bao gồm quan hệ con người với tự nhiên và xã hội, cả sự phát triển sáng tạo và
khả năng của cá nhân”.[4]
Phó giáo sư – Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm đã tổng kết và đưa ra định nghĩa văn hóa như sau :
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình”.
Định nghĩa vừa nêu trên có dụng ý chỉ ra bốn đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa đó
là tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh.
Văn hóa cịn đặc trưng cho nhận thức và hành vi của con người trong những lĩnh vực cụ
thể của đời sống xã hội, bao gồm : Văn hóa lao động, văn hóa nghệ thuật, văn hóa chính
trị, văn hóa ứng xử …
Văn hóa là một yếu tố nằm trong thượng tầng kiến trúc xã hội. Có thể chia văn hóa thành
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tương ứng với hai dạng sản xuất cơ bản đó là : Sản
xuất vật chất và sản xuất tinh thần.


Ta thấy khái niệm văn hóa có mặt trong mọi phạm vi xã hội và gắn liền với một xã hội,
một dân tộc, một cộng đồng và một cá thể trong từng thời điểm lịch sử nhất định. Văn
hóa là một nhân tố chủ quan của con người tác động trở lại quá trình phát triển khách
quan của lịch sử. Ngày nay nhân tố con người ngày càng trở nên quan trọng, nhất là trên
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
°Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo việt nam :
•Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được du nhập vào Việt nam từ lâu và đã có vai trị đáng
kể trong đời sống tinh thần của nhân dân. Những trào lưu ấy được cải biến cho phù hợp
với truyền thống văn hóa của nhân dân và nhu cầu của đất nước và đã trở thành nhân tố
của nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam. Nghiên cứu về Nho giáo ở Việt
Nam khơng thể tách rời nó với truyền thống Việt Nam.
• Nho giáo ở dạng Hán nho được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên,

Lý Thiện, Sĩ Nhiếp.. tích cực truyền bá từ cơng nguyên. Nhưng Phật giáo đã có ưu thế
hơn Nho giáo rất nhiều. Trong khi Nho giáo chỉ dừng lại ở tầng lớp quan lại xung quanh
chính quyền ngoại bang thì Phật giáo đã thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân ở mọi
miền đất nước. Có thể nói rằng suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ
đứng trong xã hội Việt Nam.
• Đến thời Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ cho xây cất Văn Miếu thờ Chu Cơng, Khổng Tử
(1076), mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính thức. Chính vì vậy mà Nho
giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho (Nhà Lý cùng thời với nhà Tống ở Trung Hoa) chứ
khơng phải Hán Nho, Đường Nho…
• Vào năm 1232 vua Trần đã đặt ra học vị đầu tiên cho thi cử Nho giáo ở nước ta, đó là
học vị Thái học sinh (về sau đổi thành tiến sĩ) và có Chu Văn An đỗ thái học sinh nhưng
không ra làm quan mà mở trường dạy học, đào tạo được khá đơng học trị. Các nhà Nho
thời kỳ này ra sức bài xích Phật giáo để khẳng định chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, đến
cuối đời Trần, Nho giáo vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. (Khơng cứ gì ở nơi nơng
thơn, ngay ở chốn triều đình, các tập tục, lề lối của khuôn mẫu Nho giáo cũng rất xa lạ
với ta. Một lần có người đề nghị cải tổ triều đình theo khn mẫu Phương Bắc đã bị vua
Trần cự tuyệt và nói rằng ta có cách của ta).
•Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, các nhà Nho, đứng đầu là Nguyễn Trãi, tập
hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn. Với sự lớn mạnh của Nho
giáo Việt nam, với nhu cầu cải cách đất nước đã dẫn đến việc triều Lê chủ động đưa Nho
giáo thành Quốc giáo; Nho giáo giữ địa vị độc tơn. Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước
thăng trầm của các triều đại phong kiến. Nhà Nguyễn lên cầm quyền, địa vị của Nho giáo
một lần nữa khẳng định để rồi tàn lụi dần khi phải đối mặt với sự tấn cơng của văn hóa
phương Tây.
II - Sự tiếp thu Nho giáo trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt Nam :


Nét độc đáo của văn hoá Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai, nó tiếp nhận từng yếu tố
riêng lẻ và Việt Nam hoá để rồi cấu tạo lại theo cách của mình.
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác những

yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước.
Trước hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã học tập rất
nhiều ở cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử để chọn người tài
bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt Nam vận dụng ngay từ
đầu thời Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê. Chữ cổ đã mai một và
mất hẳn thì người Việt sử dụng chữ Hán (chữ Nho) làm văn tự chính thức trong giao dịch
hành chính, trên cơ sở chữ Hán, từ cuối thời Bắc thuộc, người Việt đã tạo ra chữ Nôm
dùng trong sáng tác văn chương. Thời Tây Sơn vua Quang Trung đã mở rộng sử dụng
chữ Nôm trong lĩnh vực hành chính và giáo dục.
Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù hợp với truyền
thống của văn hoá dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách hiểu thì đã khác
nhiều”.
. Về chữ Trung và Hiếu:
Trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn giữa Vua và đất nước với
dân tộc, thì đất nước dân tộc luôn là cái quyết định, được đặt lên trên hết. Tư tưởng Trung
quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh
thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung quân” gắn liền với “Ái quốc”.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nguời con tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, đã kế
thừa và phát huy những giá trị tinh tuý nhất của Nho giáo trong cuộc đời cách mạng của
mình, đưa dân tộc đi lên con đường phát triển mới của thời đại. Chữ Trung trong thời đại
Bác Hồ mang nội dung mới hồn tồn: Khơng phải “Trung với Vua” mà là “Trung với
nước” và chữ Hiếu với nội dung được mở rộng đến vơ cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ
khơng cịn hạn hẹp như khái niệm của Nho giáo xưa kia.
Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du” tức là: cha mẹ còn con không được
đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”.Tức là: Có ba tội bất hiếu, tội khơng có con
nối dõi là tội nặng nhất.
Chính vì đặt đất nước lên hết, mà một người dòng dõi Nho gia như Hồ Chí Minh dám đi
ngược lại giáo huấn của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân tộc, người tạm thời gác bỏ chữ hiếu
theo nội dung hạn hẹp của Nho gia, để ra đi tìm đường cứu nước. Người khơng lập gia
đình để hy sinh tất cả cho đất nước, non sông. Như vậy, chữ hiếu đã được mở rộng vượt

ra ngồi khn khổ chật hẹp của Nho giáo, hồ với chữ Trung là một,và chữ Trung cũng
mang một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy của Bác đối với quân đội cách mạng.
Trung với Đảng, hiếu với dân


Nhiệm vụ nào cũng hồn thành
Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Trung và hiếu hai khái niệm hạn hẹp của Nho gia ngày xưa, nay đã được mở rộng, gắn
liền với khái niệm nhân dân, đất nước. Người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc, vị lãnh tụ vĩ đại
Hồ Chí Minh của chúng ta vốn xuất thân từ dòng dõi Nho gia nhưng đã vượt qua khỏi
vòng cương toả khắc nghiệt của Nho gia, hiến trọn đời mình vì nước vì dân, nên trở thành
bất tử.
…Người khơng con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi người là Bác
Cuộc đời Người là của nước non

2/ Trọng dụng người tài:
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng người hiền tài”
.
… “Hiền tài là ngun khí của quốc gia
Ngun khí mạnh thì quốc gia thịnh
Ngun khí yếu thì quốc gia suy”…
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay từ những năm
sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đãcó một tầm nhìn rộng lớn, đề ra và
giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Ngưới thấu hiểu vai trò của trí thức, đã trân
trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất nước.
Ngay từ năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi tuyên bố độc lập
4/10/1945 Người phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống nạn thất học.
Người khuyên bảo thầy trị ngành giáo dục “Dù khó khăn gian khổ đến đâu, cũng phải

tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”…
Suốt cuộc đời mình lúc nào Người cũng hết mực chăm lo thế hệ tương lai của đất
nước.Trước lúc phải đi xa, Bác vẫn khơng qn dặn dị chu đáo trong di chúc của
Người:


…Bồi dưỡng cách mạng đời sau là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Đảng phải chăm
lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ để họ trở thành…vừa hồng vừa chuyên…
Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một trong những
mục tiêu quan trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các quỹ học bổng , quỹ
khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở học sinh, sinh viên nghèo hiếu học, và đó
cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng người hiền tài trong xã hội ngày nay.
“ Ngun khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó khơng chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc,từng quốc gia,mà cịn ln ln
mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ chức,thậm chí đúng cả ở
phạm vi gia đình là tế bào của xã hội.
Một thực tế mà chúng ta đã biết Bình Dương xưa vốn là một tỉnh giàu tìm năng về mọi
mặt, nhưng do cơ chế cũ, nên nghèo nàn lạc hậu chậm phát triển.Từ khi có chủ trương
“Chiêu hiền đãi sĩ” “Trãi chiếu hoa mời gọi đầu tư”đã trở thành một tỉnh công nghiệp
phát triển giàu và mạnh.
3/Chữ Nhân, Lễ ,trí, dũng .
Xin nhắc lại đơi nét về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chử
Nhân chính là lịng thương người, là cách sống đối với mình, đối với người:
“Mình muốn lập thân thì cũng giúp cho người khác lập thân; Mình muốn thành đạt thì
cũng giúp cho người thành đạt, những gì mình khơng muốn thì chớ đem đối xử với
người” (kỷ sở bất dục,vật thị ư nhân)…
Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm đắc và nó
trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta.
Trong xã hội ngày nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống:

“Mình vì mọi người ,mọi người vì mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh,
văn hoá, phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hố
“Ơngbà, cha mẹ mẫu mực con cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong
xã hội như “ Lá lành đùm lá rách”… Đó chính là biểu hiện tốt đẹp của chữ Nhân trong
cả phạm vi rộng và hẹp của xã hội ngày nay.
Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người cai trị phải có đầy đủ
các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa,Trí, Tín,Dũng…
Chữ Nhân phải gắn liền với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình để trị nước,
muốn đạt được đức Nhân thì cần phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ.Theo Khổng Tử Lễ
chính là những quy phạm, những nguyên tắc đạo đức của nhà Chu: Vua cho ra vua, tôi


cho tôi, cha cho ra cha, con cho ra con…phải dùng lễ để khôi phục trật tự, phép tắc luân
lý xã, khiến mọi người phải trở về đạo và nhân, trở thành chính danh.. Lễ và Nhân là hai
yếu tố có quan hệ mật thiết khơng thể tách rời nhau; Nhân là chất, là nội dung là linh hồn
của lễ, lễ là hình thức biểu hiện của Nhân.
Người muốn đạt được đức Nhân, theo Khổng Tử, phải là người có Trí và Dũng.
Nhờ có Trí con người mới sáng suốt,minh mẫn để hiểu biết đạo lý,xét đoán được sự vịêc,
phân được phải trái, thiện ác để trao dồi đạo đức và hành động hợp lý với thiên lý.Nhưng
muốn đạt được chữ Nhân,có trí thơi chưa đủ mà cần phải có dũng,dũng khơng phải ỷ vào
sức mạnh, chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà suy nghĩ và hành động bất chấp cả đạo lý.Người
Nhân có Dũng phải là: “ Người có thể tỏ rõ ý kiến mình một cách cao minh,có thể hành
động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc,khi người đời gặp phải hoạn nạn…”
Ngưới Nhân có Dũng mới làm chủ được mình,mới quả cảm xả thân vì Nhân Nghĩa mới
có thể “Lập thân” và “ Đạt Nhân”;Khi gặp cơn thiếu thốn,cực khổ không nao núng làm
mất nhân cách của mình;khi đầy đủ, sung túc khơng ngã nghiêng xa rời đạo lý hơn người
Nhân có Dũng sẽ sẵn sàng “Vì Nhân mà sát thân ,chứ khơng giữ mạng sống của mình mà
hại Nhân”.
Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để giáo hóa con
người góp phần ổn định và phát triển xã hội . Nhạc chính trực. trang nghiêm, hồ nhã có

tác dụng di dưỡng tính tình cảm hố lịng người, hướng tâm người ta tới cái chân, thiện,
mỹ do sự ứng cảm trong tâm tư với sự hài hoà của âm nhạc.
Khổng Tử cho rằng: “Hưng khởi là nhờ thi tạo lập là nhờ lễ, thành đạt là nhờ nhạc…”
Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: Người cai trị, người quân tử phải là
người có một vốn văn hố tồn diện.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong giáo dục và đào
tạo.Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài và Đức, Hồng
và Chuyên. Hồ chủ tịch dạy.
... “Người có tài mà khơng có đức là người vơ dụng. Người có đức mà khơng có tài làm
việc gì cũng khó”.
Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải được rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ,
khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt gặp câu khẩu hiệu: “Tiên học lễ hậu
học văn” trong các trường học, cùng với năm điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng
Yêu Tổ quốc yêu đồng bào
Học tập tốt lao động tốt
Đoàn kết tốt kỷ luật tốt


Gữi gìn vệ sinh thật tốt
Khiêm tốn thật thà dũng cảm
Đó chính là nội dung giáo dục tồn diện đối với thế hệ trẻ Việt Nam
Đối với người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở thành con người toàn
diện phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Hồ chủ Tịch dạy phải cần kiệm liêm chính,
phải chí cơng vơ tư, xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân.
4-Tư tưởng Nhân chính, Bảo dân.
Mạnh Tử là người kế thừa chính thống học thuyết của Khổng Tử. Trên cơ sở học thuyết
về “tính thiện’’ và “Nhân trị” của Khổng Tử, Ông đề ra tư tưởng “Nhân chính” trong
phương pháp trị nước. Đặc biệt Ơng có quan niệm mới mẻ và hết sức sâu sắc về vấn đề
dân quyền:
… “Dân di quý, xã tắc thứ chi qn vi khinh”

Vì theo Ơng, có dân mới có nước, có nước mới có vua thậm chí dân quan trọng hơn
vua.Nếu khơng có sự ủng hộ của dân, thì chế độ sớm muộn sẽ sụp đổ; Vua nếu khơng
hợp lịng dân và ý trời, thì trước sau cũng sẽ bị phế bỏ…
Mạnh Tử cũng chủ trương một chế độ “Bảo dân’’ người cai trị phải lo cái lo của dân,vui
cái vui của dân,tạo cho dân của cải ruộng đất, sản nghiệp và cuộc sống bình yên no
đủ.Việc vua Nghiêu,Vua Thuấn được thiên hạ là do được lòng dân. Còn Vua Kiệt,Vua Trụ
mất thiên hạ là do mất lòng dân.
Học thuyết về chính trị, xã hội với tư tưởng nhân chính, bảo dân có ý nghĩa tiến bộ phù
hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lực lượng xã hội. Chính vì vậy một số học giả
coi Mạnh Tử là người có tư tưởng dân chủ.
Từ mấy trăm năm trước, Nguyễn Trãi cũng từng nói :
… “ Lật thuyền mới biết dân như nước”
Cách đây vài mươi năm, đồng chí Trường Chinh một trong những vị lãnh đạo cao cấp
của Đảng cũng đã chỉ ra rằng phải lấy dân làm gốc trong sự nghiệp đổi mới…
5- Thuyết chính danh
Thuyết chính danh xưa của Nho gia, nếu xét theo những khía cạnh tiến bộ và tích cực của
nó vẫn hết sức cần thiết trong xã hội hiện nay
Theo Khổng Tử xã hội loạn lạc do Danh –Thực rối loạn,dẫn đến xã hội xa rời đạo lý và
nhân nghĩa.Ông chủ trương phải giáo hoá đạo đức và thực hiện chủ nghĩa “ chính


danh,định phận’’, vì mọi người, mỗi vật sinh ra đều có địa vị, cơng dung nhất định, ứng
với một tên gọi nhất định
… “Chính danh là làm việc cho ngay thẳng”
… “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy;
Trên dưới, vua tơi cha con, trật tự phân minh”
… “Danh khơng chính thì ngơn khơng thuận;
… Ngơn khơng thuận thì việc khơng thành”
Vì vậy từ cán bộ lãnh đạo cho đến thứ dân,người nào cũng phải trọn trách nhiệm của
người ấy,cho đúng với danh vị và chức phận của mình

Nếu mọi người trong xã hội chúng ta ngày nay đều xứng đáng,đều tuân thủ đúng với
danh vị và chức phận của mình thì xã hội tất sẽ khơng rối loạn khơng có nạn tham
nhũng,hối lộ, tham ơ và khơng có những tệ nạn tiêu cực, xấu xa hủ bại.
Biết bao thế hệ thầy và trị đã trưởng thành,đã đóng góp tài năng,trí lực,và cả xương máu
của mình vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Ngành giáo dục
thực sự đã có cơng rất lớn trong việc đào tạo ra những thế hệ xứng đáng với dân tộc
chúng ta.
Khi chiến tranh chấm dứt đã được khá lâu ,chuyện trường và lớp vẫn chưa được biến đổi
nhiều. Đó là do hậu quả của chiến tranh,và còn rất nhiều nguyên nhân quan trọng
khác.Nhưng có điều đáng nói là ở chổ ;chữ Tài và chữ Đức trong trường học và trong
nhiều lãnh vực…gây nhiều mối lo ngại cho các bậc phụ huynh và cho tồn xã hội. Việc
học sinh bỏ học,vơ lễ,thậm chí phạm pháp…gần như diễn ra ở rất nhiều nơi…Chữ Lễ đã
mất đi giá trị đích thực của nó. Do những chuyện tiêu cực trong việc dạy và học còn tồn
tại khá nhiều, cho nên dẫn đến việc trò chưa đạt chất lựơng.Thầy chưa đạt chuẩn hố. Đã
có một thời gian dài việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cho học sinh là vấn đề hàng đầu
mà ngành giáo dục phải quan tâm.
Trong những năm gần đây,vai trò và vị trí của giáo dục đã nhìn nhận đúng với vị trí đích
thực của nó, giáo dục trở thành quốc sách, được Đảng và nhà nuớc và toàn xã hội đặc biệt
quan tâm. Sự biến đổi về trường và lớp là điều dễ nhận thấy nhất: Những ngôi trường già
nua,những lớp học giột nát…dần đã biến mất,hàng loạt các ngôi trường cao tầng khang
trang, sạch đẹp với những tiện nghi đầy đủ,hiện đại đạt chuẩn quốc gia đã mọc lên hầu
hết khắp các địa phương trong cả nước. Ai cũng sung sướng và yên tâm khi nhìn thấy con
em mình được học tập trong những điều kiện thuận lợi. Như vậy vấn đề trừơng cho ra
trường,lớp cho ra lớp là yêu cầu đã đang và sẽ trở thành hiện thực.Việc còn lại phải làm
sao để “Thầy cho ra thầy, trò cho ra trị” Việc chuẩn hố đội ngũ giáo viên, việc đổi mới
phương pháp giảng dạy và học tập để biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo…


trong tất cả các ngành học, cấp học…tuy khó khăn và gian khổ nhưng sẽ dần giải quyết
được vấn đề chất lượng.

Trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho giáo đã bộc lộ
những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho giáo ở Việt
Nam khơng cịn trạng thái nguyên sơ của nó nữa.
° Những điểm tương đồng đã được chú trọng phát huy :
a. nét tương đồng lớn nhất là sự trọng tình người. Vì trọng tình người vốn là truyền thống
lâu đời của nền văn hóa Việt Nam, cho nên khi tiếp nhận Nho giáo, người Việt Nam tâm
đắc với chữ “Nhân” hơn cả. Nhưng ở đây là lòng thương người “Tấm lòng đã thấu trời
xanh. Bán mình là hiếu, cứu người là nhân” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Nhân nghĩa
trong Nho giáo là tình cảm, nghĩa vụ của bầy tôi đối với nhà Vua, của con đối với cha,
của vợ đối với chồng, nhưng ở Nguyễn Trãi và các nhà trí thức Việt Nam thì “Điều cốt
yếu ở nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình và đạo quân chính
nghĩa nhằm tiêu diệt những qn tàn bạo” (Bình Ngơ Đại Cáo). Đối với người bình dân,
“Nhân” cịn đồng nghĩa với “Tình” các từ nhân tình, nhân ngãi, nhân duyên trong tiếng
Việt là nói về tình u trai gái.
b. Nét tương đồng lớn thứ hai là xu hướng ưa ổn định : Truyền thống văn hóa nơng
nghiệp ln chỉ muốn có cuộc sống ổn định. Mục đích của Nho giáo nguyên thủy là tạo
ra một xã hội ổn định. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, các triều đại phong kiến chỉ dùng Nho
giáo để giữ Ngai vàng, cịn đối ngoại ln bành trướng, xâm lăng. Ở Việt Nam, nhu cầu
duy trì ổn định khơng chỉ có ở dân mà ở cả Triều đình, khơng chỉ ở đối nội mà ở cả đối
ngoại. Các cuộc chiến tranh mà người Việt Nam từng thực hiện đều mang tính tự vệ.
c. Nét tương đồng thứ ba là xu hướng trọng văn : Trọng văn là truyền thống văn hóa nơng
nghiệp Việt Nam. Nho giáo cũng rất trọng vẻ sỹ, trọng văn, trọng văn hóa. Xã hội Trung
Hoa sau thời đại nhà hán có trọng văn, nhưng nhìn chung cũng chỉ ngang hàng quan võ.
Cịn ở Việt Nam thì trọng văn hơn cả võ. Việt Nam chiến tranh liên miên, thế nhưng
người Việt ít ai biết đến các kỳ thi võ mà chỉ lo nấu sử sơi kinh. Nhà cầm quyền Việt Nam
nhìn thấy ở Nho giáo một cơng cụ cai trị, cịn người bình dân thì thấy ở Nho giáo một
cơng cụ văn hóa, một con đường làm nên nghề nghiệp lớn :”Chẳng tham ruộng cả ao
liền, tham vì cái bút cái nghiêng anh đồ”.
° Những luận điểm của Nho giáo được Việt Nam vận dụng khai thác :
a. Nhà nước quân chủ Việt Nam, đặc biệt là triều Lê và triều Nguyễn đã học tập rất nhiều

cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật triều đình Nho giáo Trung Hoa. (Nhà Vua
tập trung trong tay mình quyền uy tuyệt đối và bộ máy quan liêu do nhà Vua sắp xếp từ
trung ương đến địa phương. Trong chế độ cống nạp, Nhà nước là kẻ hưởng đại bộ phận
thặng dư lao động của cả nước, giới quan lại, do đó cũng trở nên giàu có và có thế mạnh
nhất trong xã hội. Làm quan là địa vị nhiều người mơ ước, chế độ quan liêu ấy ngày một
thối nát, đã thực tế kìm hãm sự phát triển về mọi mặt của xã hội Việt Nam.


b. Hệ thống thi cử của Nho giáo đã được nhà nước phong kiến vận dụng ngay từ đầu triều
Lý. Từ kỳ thi đầu tiên năm 1075.
c. Người Việt Nam cũng đã sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức trong giao dịch.
Trong tâm thức người Việt Nam, chữ Hán và Nho giáo không tách rời nhau, chữ Hán
được coi là cái thiêng liêng nhất “chữ Thánh hiền”. Trên cơ sở chữ Hán người Việt đã
sáng tạo ra chữ Nôm dùng trong sáng tác văn chương.
° Những tư tưởng Việt Nam đã bổ sung, phát triển vào Nho giáo :
Ở Nho giáo, tư tưởng trung qn đóng vai trị quan trọng, cịn tư tưởng u nước thì
khơng được đề cập đến. Trong khi đó thì ở Việt Nam tinh thần yêu nước Và tinh thần dân
tộc, là truyền thống rất mạnh. Người Việt Nam tiếp thu tư tưởng trung quân Nho giáo trên
cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có, khiến có cái trung quân bị biến đổi.
Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa Vua với đất nước, thì đất nước, dân tộc là cái quyết định.
Lê Hồn thay nhà Đinh; Lý Cơng Uẩn thay nhà Lý … Khi triều đại cũ khơng cịn đủ
năng lực để lãnh đạo đất nước. Nên đều được quân dân ủng hộ. Nguyễn Trãi theo Lê Lợi
và không theo con cháu nhà Trần, Ngô Thời Nhậm theo Tây Sơn mà không theo nhà Lê;
các nhà Nho yêu nước cuối thế kỷ XIV từ Trương Định trở đi không theo triều đình nhà
Nguyễn đầu hàng giặc, mà tiến hành khởi nghĩa chống giặc (và chống triều đình) đều vì
đặt nước trên Vua.
Truyền thống dân chủ của văn hóa nơng nghiệp ở nước ta đã làm “mềm” đi sự độc tài hà
khắc của nhà nước Hán Nho. (Thật sự Nho giáo nguyên thủy cũng có yếu tố dân chủ,
nhưng đến Hán Nho đã bị loại trừ hẳn.
Tâm lý khinh rẻ nghề bn là sản phẩm truyền thống của văn hóa nơng nghiệp, của tính

cộng đồng và tính tự trị. Nó đã bám rễ vào mọi người, khiến cho nghề buôn trong lịch sử
Việt Nam khơng thể phát triển được, nó cịn được khái quát thành đường lối trọng nông
ức thương (trong Nho giáo cũng có tư tưởng xem nhẹ nghề bn, nhưng đó chỉ là sản
phẩm của quan điểm coi trọng “đạo” và “đạo đức”. Thật ra Khổng Tử cũng khuyến khích
làm giàu nếu khơng trái lễ. Mạnh Tử cũng đã từng bàn đến các vấn đề trao đổi hàng hóa,
giá cả, chính sách thu thuế chợ, đường … Chính vì vậy mà ở Trung Hoa, Nho giáo không
hề cản trở nghề buôn phát triển), “truyền thống” này, kết hợp với Nho giáo khiến cho Việt
Nam nơng nghiệp âm tính vốn đã thiên về ổn định, lại càng thêm trì trệ. Đến nay, ta hầu
như dứt bỏ được quan niệm khinh rẻ nghề thương nghiệp, nhưng để dứt bỏ hết những hậu
quả của nó cịn cần phải có thời gian.
III - Nho giáo trong q trình xây dựng nền văn hóa mới ở việt nam ngày nay.
1- Nho giáo trong giai đoạn cách mạng đã qua :
Cách mạng Tháng tám là một cuộc cách mạng triệt để đã lật đổ chế độ phong kiến kéo
dài hàng ngàn năm và chế độ thực dân thống trị gần một thế kỷ. Cách mạng Tháng Tám
đã đối xử với Nho giáo như thế nào ?


Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình Nho giáo yêu nước, sống giữa một quê
hương đã bao đời theo Nho học, từng chứng kiến những tinh thần u nước và chống
giặc đầy nhiệt tình và khí phách của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chứng kiến
sự bất lực của Nho giáo trước sự tấn công của chủ nghĩa Đế quốc và đã vượt qua Nho
giáo để đi tìm đường cứu nước. Sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với chủ
nghĩa Marx sáng tạo cũng là sự phủ định đối với Nho giáo giáo điều. Sự phủ định này thể
hiện tính khoa học trong sự gạt bỏ và giữ lại đối với di sản của quá khứ. Người đã cương
quyết gạt bỏ cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo để rồi sau đó giữ gìn và phát huy những
nhân tố hợp lý của Nho giáo. Trên tinh thần đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lật ngược học
thuyết Nho giáo như trước nay K.Marx đã lật ngược học thuyết của Hegel.
Ở Nho giáo, Vua là bậc chí tơn đứng trên đầu của xã hội còn nhân dân là tầng lớp thấp
kém đáng khinh rẻ và cần được “Chăn dắt”. Cách mạng thắng lợi đã làm lật ngược lại, lật
đổ tầng lớp vua chúa và đưa quần chúng nhân dân lên địa vị người chủ đất nước.

• Chính Nho giáo (ngun thủy) đã coi “nhân dân là gốc”. Nhưng điều quan trọng
nhất đối với nhân dân là quyền dân chủ, quyền bình đẳng của xã hội, quyền tự do của mỗi
người thì Nho giáo lại khơng thừa nhận, khơng coi nhân dân là lực lượng chính làm nên
lịch sử. Cách mạng đã đặt lại vị trí của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, đem lại cho
nhân dân những quyền lợi cơ bản, xây dựng được khối đoàn kết toàn dân, nhân dân trở
thành sức mạnh vô địch chiến thắng những kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của thế kỷ.
• Nho giáo với tinh thần “Trọng nam khinh nữ”, trói buộc người phụ nữ trong bếp núc
gia đình, gạt bỏ phụ nữ khỏi công việc chung của xã hội Cách mạng đã xóa bỏ tư tưởng
lạc hậu đó, mở cửa cho người phụ nữ ra xã hội cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh
vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất nước.
• Nho giáo ln hồi niệm về quá khứ, đời nay không bằng đời xưa, người ít tuổi
khơng bằng người nhiều tuổi. Cách mạng thì ngược lại, ln ln nhìn về phía trước, đặt
niềm tin vào thanh niên và là tiền đồ của dân tộc.
• Cách mạng luôn coi trọng truyền thống dân tộc. Với tinh thần đó, cách mạng khơng
xóa bỏ tồn bộ nội dung của Nho giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu
chữ Nho của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều
biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để giáo dục cán bộ, động viên nhân
dân tự giác tham gia chiến đấu giành độc lập tự do với một khí phách kiên cường, mưu trí
và sáng tạo.
• Nho giáo đặt sự tu dưỡng đạo đức lên hàng đầu. Trong sự nghiệp cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng coi “Đạo đức là gốc”. Người nói : “Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa”. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới
hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang”. Người lấy câu nói của Mạnh Tử để nêu lên khí
phách của người chiến sĩ cách mạng. “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó khơng
thể chuyển lay, uy lực khơng thể khuất phục”. (Lời ra mắt Đảng lao động Việt Nam,
1951), “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” – (Thiên đằng


văn Cơng – Hạ). Cách mạng địi hỏi mọi người ln rèn luyện đạo đức, thường xun
phê bình và tự phê bình.

2- Nho giáo trong giai đoạn cách mạng hiện nay :
• Sau hai cuộc kháng chiến, nhân dân ta giành được độc lập và thống nhất. Tổ quốc bước
vào thời kỳ mới. Nho giáo vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều bài
học cả về chính diện và phản diện. Nho giáo nhiều lúc nêu lại lời hay ý đẹp như đổ thêm
dầu vào lửa tạo thuận lợi cho cỗ xe cách mạng tiến về phía trước, nhưng lại có trường
hợp Nho giáo thọc gậy vào bánh xe. Không thể phủ nhận di sản của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó trong đầu óc người Việt Nam hơm nay, mặc dù ít ai nghĩ rằng ý nghĩa và
việc làm của mình lại chính là Nho giáo.
Ngày nay, đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường phát
triển tất yếu của cách mạng Việt Nam. Do trình độ lực lượng sản xuất rất thấp lại tồn
đọng nhiều tàn dư quan hệ xã hội, ý thức tư tưởng, tâm lý của chế độ thực dân, phong
kiến cũ để lại đã tạo ra những khó khăn trở ngại trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một xã
hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại. Để chuẩn bị tiền đề kinh tế trong thời gian
quá độ cần có sự phát triển nhất định nhân tố tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ này, Đảng ta
chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước. Bên cạnh những thành tích phấn khởi đã đạt được, trong cán
bộ và nhân dân lại có những biểu hiện tiêu cực ở trong cả nhận thức, tình cảm và hành
động. Tư tưởng thực dụng chạy theo đồng tiền làm cho một số bộ phận xa rời lý tưởng,
suy thoái về phẩm chất đạo đức. Nạn tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính và nhiều
tệ nạn xã hội khác đang phát triển nghiêm trọng.
Trong chủ trương biện pháp nhằm khắc phục những tình trạng nói trên, khơng thể khơng
đụng chạm đến khá nhiều vấn đề của Nho giáo.
• Nho giáo và tính bảo thủ của nó ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, thể hiện nghiêm
trọng ở : Chủ nghĩa quan liêu trong giới cầm quyền, chủ nghĩa bình quân trong nơng dân,
chủ nghĩa giáo điều trong giới trí thức. Việc khắc phục những bệnh này, cần phải có thời
gian và những biện pháp tích cực.
• Trong mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa. Nho giáo khẳng định vai trò nhân
nghĩa trong cuộc sống con người. Khổng Tử nói : “Thà ăn cơm thừa, uống nước lã, có
cánh tay gối đầu mà lấy làm vui, chứ không do bất nghĩa mà được giàu sang, thì sự giàu
sang ấy coi như đám mây nổi”, (Luân ngữ – Thuật nhi -5). Sau khi đã khẳng định vai trò

nhân nghĩa trong cuộc sống con người. Khổng Tử cổ vũ việc làm giàu khi nước có
“Đạo”, nghĩa là được phát triển lành mạnh có thể làm giàu một cách chính đáng, khơng
làm giàu được cũng là một điều đáng xấu hổ. Cách mạng ngày nay cũng khẳng định và
vận động nhân dân làm giàu, dân có giàu thì nước mới mạnh, nhưng phải làm giàu một
cách chính đáng và phải biết kết hợp giữa quyền lợi cá nhân phù hợp với quyền lợi của
tập thể, của Tổ quốc. Kinh tế phát triển mà vẫn giữ được truyền thống đạo đức của dân
tộc là yêu cầu tất yếu.


• Nho giáo nhấn mạnh sản xuất đi đôi với tiết kiệm. Khổng Tử nói : “Đạo lớn làm ra
của cải là : số người làm việc sinh lợi ngày càng nhiều, số ăn tiêu phung phí ngày càng ít,
số người làm ra của cải phải mau mắn, siêng năng, những người tiêu dùng phải thư thả từ
từ. Như vậy của cải luôn luôn đủ”. (Đại học – 10). Ngày nay, Đảng và Nhà nước khẳng
định tiết kiệm là quốc sách, tiết kiệm trong nhân dân, trong bộ máy nhà nước, trong các
xí nghiệp.
Qua phân tích ta thấy, những tư tưởng Khổng Mạnh trên đây, nếu chúng ta biết khai thác
và vận dụng hợp lý trong sự nghiệp đổi mới của đất nước thì nhất định chúng ta có thể
đưa văn hóa vào kinh doanh và hướng kinh doanh khơng chỉ vào việc tăng trưởng kinh tế
mà còn xây dựng một xã hội có văn hóa.
• Nho giáo trong gia đình : Nho giáo coi : “Gốc của nước là nhà”, bởi vậy muốn trị
nước phải yên nhà. Bậc quân tử trước hết phải “tu thân”, “tề gia” rồi mới “trị nước” và
“bình thiên hạ”. Nho giáo xây dựng mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình. “Cha ra cha,
con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là đạo gia chính” trong
các mối quan hệ đó được tiêu biểu bằng hai chữ “hiếu” và “để”. Theo đó chữ hiếu là “nết
đầu trong trăm nết”, chữ hiếu được đề cập đến một cách sâu sắc, đầy đủ và cụ thể. “Hiếu
chẳng những phải ni nấng, phụng dưỡng cha mẹ mà cịn phải kính trọng và giữ gìn
thanh danh cho gia tộc. Đề cao vai trị của gia đình, vì thế rất coi trọng việc giáo dục
trong gia đình. Nho giáo khẳng định rằng sự giáo dục từ trong gia đình có tác động mạnh
mẽ, thậm chí quyết định sự thành cơng trong việc trị nước. Thậm chí chỉ cần mọi người
đều yêu thương cha mẹ, bà con mình, kính trọng trưởng thượng của mình. Tự nhiên thiên

hạ sẽ được thái bình”(Mạnh Tử – Ly Lâu – Thượng -11). Nho giáo nguyên thủy đề ra bổn
phận về cả hai bên của các mối quan hệ trong gia đình : phụ từ, tử hiếu, … Những điều
trên là những nhân tố hợp lý cần phát huy trong việc xây dựng gia đình văn hóa mới hiện
nay.
Trong vấn đề gia đình, Nho giáo có những kiến giải hợp lý, nhưng cũng có khơng ít tiêu
cực, gây tác hại khơng nhỏ trước đây và cịn để lại hậu quả cho đến ngày hôm nay. Trên
thực tế, Nho giáo tuyệt đối hóa quyền của nhà Vua trong xã hội và của người cha trong
gia đình, cha khơng từ, nhưng con không thể không hiếu. Xuất phát từ quan điểm huyết
thống và từ thái độ coi rẻ phụ nữ, Nho giáo đặt tình nghĩa anh em cao hơn tình nghĩa vợ
chồng, phụ nữ là người phải hứng chịu nhiều nhất những đau khổ, thiệt thòi do chế độ hà
khắc, bất cơng và bất bình đẳng trong xã hội, trong gia đình gây nên. Theo đạo lý về “tiết
hạnh”, người đàn ơng có thể năm thê bảy thiếp nhưng đàn bà thì khơng được lấy hai
chồng, cũng ví như bậc trung thần không thể thờ hai vua, kể cả những bà góa, nghèo đói
khơng nơi nương tựa nhưng cũng khơng được đi bước nữa.
Ngày nay, pháp luật ta đòi hỏi chế độ một vợ một chồng, nêu lên trách nhiệm của hai phía
trong các mối quan hệ trong gia đình. Mọi thành viên trong gia đình đều phải được tơn
trọng và tơn trọng lẫn nhau, mỗi thành viên đều có tính độc lập tương đối trong cơng việc
của mình. Tuy nhiên, không thể chấp nhận sự tự do tùy tiện theo ý muốn riêng của mỗi
người, vì như thế gia đình khơng thể tồn tại được mà cần có sự hội ý và nhất trí trong tập
thể gia đình dưới sự điều hành dân chủ của một người chủ chốt trong gia đình, thường là
người chồng, người cha. Như vậy, cần phải xóa bỏ sự độc đốn của người cha, đồng thời


giao cho người cha trách nhiệm về hạnh phúc gia đình, đó cũng là một truyền thống của
dân tộc ta. Ngồi ra, mọi thành viên trong gia đình cũng phải đặt lợi ích của gia đình
mình phù hợp với lợi ích của xã hội, của Tổ quốc. Tránh chủ nghĩa gia đình căn bệnh đó
bám rễ sâu trong xã hội cũ. Ngồi ra, thanh niên trong gia đình khi đã trưởng thành cần
phải có sự tự do để tự khẳng định mình đứng lên gánh vác sứ mạng của mình đối với gia
đình và Tổ quốc.
• Vai trị quan trọng của lễ : Đối với Nho giáo “Lễ” có vai trị đặc biệt quan trọng. Lễ là

tồn bộ các quy tắc ứng xử lớn nhỏ mà mọi người nhất thiết phải tuân theo, “Lễ” là hình
thức biểu hiện, rèn luyện và giữ gìn đạo đức của người quân tử, “Lễ” là một phương thức
giáo dục hiệu quả, tạo ra sợi dây vơ hình ràng buộc nhân dân vào chế độ Phong kiến
Phương Đơng. Có thể nói “lễ” là cơ sở pháp luật của Nho giáo. Cho nên, khẩu hiệu của
Nho giáo trong giáo dục là “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Trong những năm gần đây, nhà trường đã phục hồi khẩu hiệu đó. Điều này cho thấy ta đã
bắt đầu thấy lại vai trò của “Lễ” trong đời sống xã hội, trong công cuộc xây dựng xã hội
mới của nước ta ngày nay.
C – PHẦN KẾT LUẬN
Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc từ thời cổ đại,
tư tưởng triết học Nho giáo của Khổng Mạnh chiếm địa vị đặc biệt quan trọng trong lịch
sử tư tưởng, nó ảnh hưởng sâu sắc trong mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc suốt
hơn hai ngàn năm lịch sử.
Do vị trí địa lý và điều kiện lịch sử, Nho giáo đã thâm nhập và bén rễ sâu vào các tầng
lớp nhân dân Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Nó ảnh đến hầu như tất cả các lĩnh vực
tâm lý, văn hoá, xã hội.
Học thuyết Nho giáo được nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận để khai
thác những yếu tố được coi là thế mạnh, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước.
Theo tâm lý thường tình của những người ít đi sâu tìm hiểu về Nho giáo, người ta thường
nghĩ rằng, Nho giáo là cổ hủ, là khắt khe là lạc hậu…
Chúng ta không thể phủ nhận rằng Nho giáo đã tham gia góp phần vào sự đúc nặn nên
diện mạo tinh thần dân tộc và văn hóa dân tộc. Dù có những điểm chưa tích cực nhưng
trãi qua năm tháng sàn lọc những tư tưởng triết học của Nho giáo đã thấm nhuần trong
lòng con người Việt Nam Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của ngày xưa cho đến nay vẫn là một
nét đẹp đáng trân trọng ở góc nhìn đúng đắn. Trí và Dũng ngày nay cịn được các nhà
quản trị tài ba vận dụng vào các chiến lược kinh doanh. Còn những quan niệm về Nhân,
Lễ, Nghĩa thì càng được phát huy theo những mặt tích cực, xây dựng nên những mặt phát
triển góp phần thúc đẩy cho kinh tế phát triển.
Không biết sự ảnh hưởng sâu rộng của Nho giáo đến nền văn hóa dân tộc như thế nào
nhưng cho đến nay tính cộng đồng ln được đề cao, cịn trong gia đình thể hiện rõ nhất



vẫn là những người phụ nữ, hình tượng người phụ nữ mẫu mực vẫn là những người đằm
thắm chịu thương, chịu khó. Nét đẹp đó đã trở thành nét đặt trưng của người phụ nữ Việt
Nam nói riêng và người phụ nữ Á đơng nói chung.
Sự du nhập của Nho giáo với những tư tưởng triết học tích cực, qua thời gian vẫn cịn đó
những giá trị bất biến góp phần tạo nên những nét đẹp cho văn hóa dân tộc Việt.
Chúng ta nên có một cái nhìn mới, cách hiểu mới thật đúng đắn, phải tiếp thu một cách
có chọn lọc, không phủ định sạch trơn đối với một số khái niệm tưởng chừng như đã cũ.
Đó cũng chính là việc kế thừa và phát huy tinh hoa và bản sắc văn hoá cổ của dân tộc và
nhân loại một cách tích cực theo quan điểm của Đảng ta.
Ngày nay, với sự giao lưu văn hóa trên tồn cầu, mỗi dân tộc có thể tiếp thu nhiều giá trị
văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới. Mặt khác, truyền thống văn hóa dân tộc cũng
được đặc biệt đề cao. Bằng một cách nhìn khoa học, tránh thành kiến, tránh cực đoan,
chúng ta tiếp thu một cách có chọn lọc những giá trị văn hóa phù hợp với truyền thống
dân tộc và với yêu cầu của một xã hội văn minh hiện đại. Khi quay lại với cội nguồn dân
tộc, ta thấy các giá trị đạo đức cơ bản truyền thống vơ cùng quan trọng.Vì vậy, ngồi việc
giáo dục lý tưởng cách mạng, bồi dưỡng trình độ chính trị trong cán bộ và nhân dân, vấn
đề giáo dục đạo đức “cơ bản” cần phải được quan tâm đúng mức, nhất là đối với thế hệ
tương lai.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, vấn đề kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,
dân tộc và quốc tế đang đặt ra cấp thiết. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, văn
hóa Việt Nam vẫn khẳng định sự độc đáo của mình, đồng thời mở rộng giao lưu tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú thêm truyền thống văn hóa dân tộc.
Đảng, Nhà nước và nhân dân đang ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải thường
xuyên cảnh giác các thế lực phản động từ bên ngồi. Trong khi đó, những tiêu cực bên
trong cũng tác động nguy hiểm khơng kém. Vì vậy, vấn đề xây dựng một xã hội văn hóa
mới, gia đình văn hóa mới, nếp sống văn hóa mới cũng phải được quan tâm đúng mức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
***







Lê Sĩ Thắng - Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập hai) – NXB KHXH – 1997
PGS.TS Trần Ngọc Thêm - Cơ sở văn hóa Việt Nam – Trường Đại học Tổng
hợp Tp. Hồ Chí Minh – 1996.
PGS Viện Sĩ Trần Ngọc Thêm - Tìm về bản sắc văn hố việt Nam –NXB thành
phố Hồ Chí Minh.- 2001
Vũ Khiêu - Nho giáo và phát triển ở Việt Nam – NXB KHXH – 1997
Tổng cục chính trị - Một số vấn đề lịch sử văn hóa Việt Nam -Cục tư tưởng văn
hóa - 1993

6 – Vũ Khiêu - Nho Giáo xưa và nay-NXB KHXH – 1979


7 –Trần Quốc Vượng –Văn hố Việt Nam tìm tịi và suy ngẫm
Văn học -2003
8 – Lê Khắc Thuần – Đại cương lịch sử văn hoá Việt Nam – Tập 3
NXB Giáo Dục -2001.
9 – TS Nguyễn Hồng Sơn – Văn Hóa và phát triển sự nhận thức và vận dụng trong thực
tiễn – chính trị quốc gia -2004 .
10 – Trần Văn Giàu - Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách
mạng tháng tám – NXB KHXH – Hà Nội - Tập 1 – 1973.
11 - Trần Văn Giàu - Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách
mạng tháng tám – NXB KHXH – Hà Nội - Tập 2 – 1975
12- GS.TS. Đỗ Huy - Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội nhập
và phát triển – NXB TT và TrT- 2013

13- Nguyễn Khắc Thuần- Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam tập 3- NXB Thời đại2012
14- TS sử học - Huỳnh Cơng Bá Cơ sở văn hóa Việt Nam-NXB Thuận Hóa-2012
[2]Thực ra là Lục kinh, nhưng vì kinh Nhạc nay đã thất truyền, cho nên chỉ cịn có Ngũ
Kinh
[3]Văn hóa đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam – NXB khoa học-xã hội -1996.
[4]Từ điển bách khoa triết học – Maxcơva – 1989 – trang 924 – tiếng Nga

Về phương pháp quản lý xã hội của Nho
giáo
Khổng Tử (551 - 479 TCN) - người sáng lập ra học thuyết Nho giáo, là một nhân vật kiệt
xuất trong số những vĩ nhân mà nhân loại đã sản sinh ra. Ông là nhà tư tưởng, nhà văn
hoá, nhà giáo dục, nhà chính trị đã để dấu ấn đậm nét trong lịch sử của nhiều nước Á
Đông suốt hai ngàn năm trăm năm qua. Dĩ nhiên, tư tưởng của ơng có khơng ít những
khiếm khuyết mà trước hết là do hạn chế của thời đại đưa lại. Nhưng quả thật, ông là một
con người có nhiều đóng góp cho thời đại ông và cho nhân loại. Được mệnh danh là "tập
đại thành" của tri thức cổ đại Trung Hoa, tư tưởng của Khổng Tử đã là một học thuyết


tương đối hồn chỉnh về nhiều mặt: chính trị, đạo đức, triết học, giáo dục… Trong số
những tư tưởng ấy thì quan niệm của Khổng Tử về phương pháp quản lý xã hội là quan
niệm nền tảng, cơ sở cho nhiều quan niệm khác. Góp phần làm sáng tỏ hơn quan niệm
này để kế thừa những giá trị lâu đời trong việc xây dựng nền dân chủ mới là mục đích
của bài viết này.
Trước hết, về phương châm quản lý xã hội. Khổng Tử đề cao việc thâu phục nhân tâm
chứ không phải đề cao việc cai trị thông qua sự nơ dịch thân xác bằng hình phạt. Vì vậy,
Nho giáo đề cao "đức trị" và khơng đồng tình với chủ trương "pháp trị" của Pháp gia.
Nho giáo cho rằng, trị nước bằng "đức trị" thì đã nắm được cái cốt lõi, cái sâu kín trong
nhân tâm con người rồi, đó là sự "liêm sỉ" (sự hổ thẹn, tự vấn của lương tâm). Và điều đó
giúp cho phương pháp này tự hiện hữu trong mọi suy nghĩ và hành vi của con người mà
không cần bất cứ biện pháp "giám sát" nào. Khổng Tử nói: "Nếu nhà cầm quyền chuyên

dùng pháp chế, cấm lệnh mà dắt dẫn dân chúng; chuyên dùng hình phạt mà trị dân, thì
dân sợ mà chẳng phạm pháp đó thơi, chứ họ chẳng biết hổ ngươi. Vậy, muốn dẫn dắt dân
chúng, nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh; muốn trị dân, nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết, thì chẳng những dân biết hổ ngươi, họ lại cịn cảm hố mà trở nên tốt lành"(1) (Luận
ngữ, thiên Vi Chính).
Khẳng định tính chính nghĩa của đường lối "đức trị", Khổng Tử cho rằng, nhà cầm quyền
mà theo đường lối “đức trị”, lấy cái đức của mình mà cảm hố mọi người thì cũng giống
như sao Bắc đẩu tuy ở yên một chỗ mà mọi sao khác đều chầu về.
Như vậy, ý nghĩa của quan niệm này là ở chỗ: Nho giáo đã nhìn thấy mối quan hệ giữa
nhận thức đạo đức và hành vi đạo đức cũng như vai trò sức mạnh của ý thức đạo đức cá
nhân trong cộng đồng. Xã hội sẽ ổn định, thịnh trị khi nền "đức trị" được thực thi từ
"thiên tử" đến "thứ dân". Để củng cố "đức trị", Khổng Tử yêu cầu phải "chính danh". Và
"chính danh" là biện pháp thực thi đức trị trong tình hình mới. Đức trị nhưng khơng mâu
thuẫn với hình phạt, khơng phủ nhận hình phạt mà thừa nhận hình phạt có điều kiện. Ơng
nói: "Danh bất chính, tắc ngơn bất thuận; ngơn bất thuận, tắc sự bất thành; sự bất thành,
tắc lễ nhạc bất hưng; lễ nhạc bất hưng, tắc hình phạt bất trúng; hình phạt bất trúng, tắc
dân vơ sở thố thủ túc"(2). Ở đây, điều kiện của đức trị là hình phạt phải đúng. Cụ thể, ông
chủ trương "khoan khắc đắc chúng" (khoan dung thì được lịng người); đồng thời, kêu gọi
nhà cầm quyền phải nghiêm khắc với dân, tránh để cho dân nhờn. Khoan dung và nghiêm
khắc được ông coi như những biện pháp bổ trợ lẫn nhau trong việc cai trị và làm cho nền
chính trị được hài hồ.
Như vậy, trước đây có quan điểm cho rằng, Khổng giáo đã đề cao “đức trị” và cho đó là
một quan điểm phiến diện, thiếu thực tế trong một xã hội đầy biến động, vơ đạo. Nhận
định đó chưa hẳn đã hồn toàn đúng. Khổng Tử cho rằng: “Đức trị” nhưng cần có sự bổ
trợ của “pháp trị”. Rõ ràng, tư tưởng này của Khổng Tử cùng với đường lối “pháp trị”
của Pháp gia được các triều đại phong kiến Trung Hoa sau này vận dụng trong thuật trị
nước, như "Âm Pháp, Dương Nho", "Ngoại Nho, Nội Pháp"… và cho đến tận ngày nay,
chúng ta vẫn còn thấy những ý nghĩa rất thời sự của chúng.


Tuy vậy, tư tưởng này của Nho giáo mang tính chất khơng tưởng. Bởi lẽ trong xã hội có

bóc lột, áp bức giai cấp thì những lời tuyên bố của nền “đức trị”, như "coi dân như con",
"đối xử với dân như với bản thân mình", “lấy tâm của dân chúng làm tâm của người cầm
quyền” thật là sáo rỗng và nguỵ biện. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong một số nền chuyên
chế phong kiến trước đây, mặc dù đề cao “đức trị” song lại xử phạt tuỳ tiện, thiếu nghiêm
minh. Giai cấp thống trị đều dựa vào quyền lực và xuất phát từ lợi ích giai cấp để xử lý
mọi vấn đề chứ chẳng theo tôn chỉ của nền "đức trị".
Để tạo lập cơ sở cho phương châm "đức trị", Khổng Tử đề ra đường lối xây dựng và
củng cố đạo đức từ gia đình cho tới ngồi xã hội. Bởi ơng cho rằng, xã hội có đạo (có đạo
đức) thì mới thi hành được "đức trị", cịn xã hội vơ đạo thì tất sẽ loạn và "đức trị" khó bề
thực hiện. Mơ hình xã hội theo quan niệm của Nho giáo có thể hình dung như sau:
Thiên hạ
ê
Nước
ê
Cá nhân -

Nhà

gia đình

gia tộc
Trong hệ thống tổ chức xã hội, theo quan niệm của Nho giáo, "nhà" là trọng điểm và
cũng là cơ sở của hệ thống nhà - nước - thiên hạ. Ở đây, “nhà” mang hai nghĩa: gia đình
và gia tộc. Vì thế, nhà được nhìn nhận như một "xã hội" thu nhỏ, được coi như "môi
trường" thử thách đầu tiên của mỗi cá nhân. Trong môi trường thu nhỏ này, Nho giáo đã
đặt ra một loạt những chuẩn mực, những yêu cầu để bảo đảm nền "đức trị". Đó là, mỗi cá
nhân phải đảm bảo hiếu thảo với cha mẹ, hội đủ ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín),
thực hiện tam cương (cha - con, chồng - vợ, anh - em). Vì thế, cá nhân trong quan niệm
Nho giáo là cá nhân gắn liền với gia đình, gia tộc. Cá nhân nghĩa vụ chứ khơng phải cá
nhân tự do.

Nhà là nơi mỗi cá nhân tự tu dưỡng theo những chuẩn mực bắt buộc và cũng là cầu nối
giữa cá nhân và cộng đồng lớn hơn. Vì thế, Nho giáo yêu cầu với bậc cai trị phải thực
hiện cho được: Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình Thiên hạ. Khổng Tử cho rằng, "Tề gia"
cũng chính là "Trị quốc". Ơng nói: "Duy kẻ nào có hiếu với cha mẹ, thuận với anh em,
mới thi hành việc chính trị từ nơi nhà mình. Đó cũng là làm việc chính trị rồi"(3).
Như vậy, Nho giáo đã đề ra phương pháp quản lý xã hội xuất phát từ mỗi tế bào, từ tổ
chức nhỏ nhất của xã hội, đó là gia đình - gia tộc. Điều đó đã tạo ra một môi trường tu
thân ổn định, bền vững cho mỗi cá nhân; đồng thời trong môi trường đó, cá nhân ln ý
thức được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, trước hết là đối với bản thân, gia đình, gia tộc


và cao hơn nữa là với cộng đồng. Sự gắn kết bền vững giữa cá nhân và gia đình - gia tộc
đã tạo nên sức bền vững bên trong, sự ổn định từ cơ sở cho những triều đại tôn sùng tư
tưởng trị nước của Nho giáo. Tuy nhiên, đóng góp này của Nho giáo cũng có mặt khiếm
khuyết. Xã hội, theo quan niệm của Nho giáo, là một tổ hợp nhiều dịng họ. Vì thế, tư
tưởng gia trưởng, chủ nghĩa gia đình trị ngày càng phát triển trong xã hội phong kiến và
nó cịn để nhiều di hại cho đến tận hôm nay.
Để thực hiện phương châm "đức trị" về phương thức tổ chức bộ máy cai trị, Nho giáo chủ
trương phải thâu nạp được những người có đức, có tài. Thiên "Tử Lộ" có ghi lại rằng, khi
Trọng Cung làm quan tể tướng cho họ Quý hỏi về cách cai trị, Khổng Tử trả lời rằng:
"Nhà cầm quyền nên thi hành ba việc này: Một là, trước hết nên phân phát công việc cho
các vị hữu tư, tức là những quan chức phụ thuộc với mình, họ làm xong thì mình xem xét
lại; Hai là, những ai phạm lỗi nhỏ thì dung thứ cho họ; Ba là, cử dùng những người hiền
- đức và tài cán"(4). Như vậy, biết sắp đặt công việc, dung thứ và cử hiền tài là những
phẩm chất cốt lõi của bậc trị nước, trong đó cất cử người hiền tài là gốc của mọi vấn đề.
Vì vậy, Trọng Cung lại hỏi tiếp: "Làm sao biết được những người hiền đức và tài cán mà
cử dùng". Khổng Tử đáp: "Những người mà ngươi biết, hãy cứ dùng trước đi. Cịn những
người mà ngươi khơng biết, người ta há bỏ mà chẳng chỉ cho sao"(5). Theo ông, nếu nhà
cầm quyền không biết cất cử người hiền tài thì đã khơng hồn thành nhiệm vụ. Ơng gọi
đó là kẻ "thiết vị" (ăn trộm chức vị). Ơng phê bình: "Tang Văn Trọng là kẻ ăn trộm chức

vị chứ gì? Người ấy biết rõ ơng Huệ xứ Liễu hạ là bực hiền, thế mà chẳng tiến cử ông ấy
đứng vào triều đình với mình"(6).
Hơn nữa, bậc cai trị ngồi việc cất nhắc những người có đức, có tài còn phải miễn chức,
loại khỏi hàng ngũ những kẻ kém đức, hèn tài. Ơng nói: "Như bực quốc trưởng cứ dùng
những bực chính trực, bỏ phế những kẻ cong vạy, thì dân phục. Cịn như cứ dùng những
kẻ cong vạy, bỏ phế những kẻ chính trực, thì dân chẳng phục"(7).
Như vậy, biết cất cử hiền tài vào bộ máy cai trị thì chẳng những nền "đức trị" của xã hội
được ổn định, mở mang mà ngay cả bộ máy trị vì xã hội cũng ngày càng vững mạnh. Vì
thế, các triều đại phong kiến của nhiều nước Á Đông rất chú trọng việc này. Họ lập ra
chế độ thi cử rất chặt chẽ để tuyển lựa những người có đức có tài, làm cho mạnh bộ máy
cai trị mạnh lên. Và đây cũng được coi là một trong những sáng tạo của dân tộc Trung
Hoa đã cống hiến cho nhân loại.
Về phẩm chất của người cai trị: Trong yêu cầu hiền tài, Khổng Tử bao giờ cũng đặt hiền
trước tài. Ông cho rằng, hiền là gốc của tài, nếu có tài trí mà khơng có đức nhân thì tài
cũng mất. Ơng nói: "Mình có đủ trí - thức để hiểu đạo trị dân theo Thánh hiền, nhưng
mình chẳng có đủ lịng nhân để giữ gìn, dẫu mình có được đạo ấy, rồi cũng mất đi"(8). Và
đức nhân của nhà cầm quyền rất quan trọng đối với dân, thiết yếu hơn nước và lửa. "Đức
nhân cần yếu cho dân còn hơn nước và lửa"(9). Vậy muốn trở nên nhà cai trị tồn thiện,
mình nên có đủ những đức: trí, nhân, trang, lễ"(10) (Trí để hiểu đạo trị dân; nhân để giữ
gìn đạo ấy; dung mạo đoan trang để dân kính trọng; lễ tiết là chỗ dựa của việc trị vì). Bên
cạnh đó, ơng cịn cho rằng, muốn dân phục tùng làm theo điều thiện, quy phục nhà cai trị
thì trước hết, nhà cầm quyền phải biết nêu gương. Ơng nói: "Nhà cầm quyền tự mình giữ


theo chính đạo, chẳng đợi ra lệnh, dân cũng ăn ở trúng phép; cịn như tự mình chẳng giữ
theo chính đạo, dẫu mình có ra lệnh buộc dân theo, họ cũng khơng theo"(11).
Có thể thấy, Khổng Tử đã đặt ra được những vấn đề cơ bản về phẩm chất, yêu cầu đối với
người quản lý xã hội. Điều mấu chốt là, Khổng Tử cho ta thấy rằng, đạo đức của nhà cai
trị là đầu mối của mọi sự ổn định, trật tự trong xã hội. Mặc dầu quan điểm này của ơng
mang tính giai cấp và chưa chỉ ra được sự biến đổi của mọi trật tự xã hội là từ sự biến

động những quan hệ lợi ích nhưng ơng cũng đã nhìn thấy một cách đúng đắn vấn đề đạo
đức của người cai trị và vai trị của nó đối với sự thịnh trị của một chế độ.
Mục đích cao nhất của nền "đức trị", theo Nho giáo, là "thế giới đại đồng". Tư tưởng về
thế giới đại đồng đã có từ thời cổ đại trong xã hội chưa có giai cấp như thời Nghiêu,
Thuấn nhưng nó được trình bày có hệ thống ở thiên Đại đồng trong sách Lễ vận với hơn
100 chữ. Chế độ xã hội lý tưởng đó được khắc hoạ như sau:
Một là, thiên hạ vi công (Thiên hạ là của chung);
Hai là, tuyên hiền nhiệm năng (lựa chọn người hiền đức, tài năng để giao trách nhiệm);
Ba là, các tận kỳ năng (ai nấy dốc hết năng lực của mình);
Bốn là, các đắc kỳ sở (mỗi người, mỗi vật đều có được vị trí xứng đáng);
Năm là, giảng tín tu mục (trọng điều tín nghĩa và chăm lo sự hoà mục)…
Đây là xã hội lý tưởng, khát vọng chính trị của Nho giáo nhưng tiếc thay, nó chỉ là lý
tưởng khơng hiện thực trong thời bấy giờ. Bởi trong xã hội có giai cấp và sự phân hoá
giai cấp đang diễn ra mạnh mẽ thì khơng thể tránh khỏi sự xung đột, sự tranh giành lợi
ích và sự nơ dịch con người… Hạn chế của Khổng Tử và tư tưởng của ông, trước hết, là
hạn chế do thời đại và do vị trí giai cấp đưa lại. Tất nhiên, trong một xã hội chứa chất đầy
bất ổn thì lý tưởng chính trị của Khổng Tử rất đáng trân trọng.
Ngày nay, chúng ta tìm hiểu Nho giáo không phải chỉ để thấy được sự vĩ đại của vĩ nhân
mà mục đích thiết thân hơn là để tiếp tục phát huy kinh nghiệm mà cha ông ta đã đối xử
với Nho giáo trong việc giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, vận dụng
những tư tưởng tích cực của Nho giáo trong cơng cuộc đổi mới. Trong việc kế thừa
những tư tưởng Nho giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho chúng ta một bài học lớn. Người
đã phê phán rất triệt để những tư tưởng lạc hậu, ấu trĩ của Nho giáo. Song, Người cũng
rất tài tình, khoa học và cách mạng trong việc gạn lọc những hạt nhân hợp lý của nó.
Về quan niệm quản lý xã hội của Nho giáo, có thể nói rằng, bên cạnh những hạn chế, cịn
ẩn chứa nhiều vấn đề hợp lý và trong thời đại ngày nay vẫn cịn giữ ngun tính thời sự.
Thứ nhất, chủ thể quản lý xã hội sẽ tốt hơn, nếu mỗi người ln tâm niệm "tu thân" trong
hồn cảnh mới. Cụ thể, luôn giữ vững những phẩm chất: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm với
nội dung mới.



Thứ hai, gia đình sẽ n ấm, hồ thuận, sẽ là "pháo đài" vững chắc trước mọi "làn gió"
độc khi gia đình có kỷ cương, mọi người đều biết u thương, giúp đỡ, có trách nhiệm
với nhau, biết nghĩa vụ và làm trịn bổn phận của mình với gia đình.
Thứ ba, ngày nay chúng ta đang quản lý đất nước bằng pháp luật thông qua bộ máy công
quyền ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên, một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam sẽ hoàn chỉnh, tốt đẹp hơn nếu cùng với nó và bên cạnh nó chúng ta tiến hành
xây dựng củng cố một nền đạo đức mới được chắt lọc và phát triển những tinh hoa đạo
đức của dân tộc, trong đó có những giá trị đạo đức được hun đúc, thẩm thấu giá trị quan
của Nho giáo.
Bộ máy Nhà nước sẽ được hoàn thiện nhanh chóng hơn khi chúng ta biết mở mang việc
học, cơng bằng chặt chẽ trong tuyển dụng và đặc biệt biết tiến cử người có đức, có tài;
đồng thời, miễn chức, sa thải những kẻ tha hoá, biến chất.
Nền pháp trị của chúng ta ngày càng được củng cố nếu mọi sự trừng trị, hình phạt đều
đúng người, đúng tội, và ngày càng thống nhất giữa tình và lý.

(*) Tiến sĩ triết học, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Luận ngữ (Đồn Trung cịn dịch và chú tích). Nxb Trí Đức, Sài Gịn, 1950,. tr .15.
(2) Luận ngữ. Sđd., tr. 198.
(3) Luận ngữ. Sđd., tr. 27.
(4) Luận ngữ. Sđd., tr.197.
(5) Luận ngữ. Sđd., tr.197.
(6) Luận ngữ. Sđd., tr.245.
(7) Luận ngữ. Sđd., tr. 25.
(8) Luận ngữ. Sđd., tr. 251.
(9) Luận ngữ. Sđd., tr. 253.
(10) Luận ngữ. Sđd., tr. 253.
(11) Luận ngữ. Sđd., tr. 201.



Quan niệm về tính người của Nho giáo
nhìn từ góc độ triết học
Triết học Trung Quốc từng xuất hiện vô số cách nhìn nhận, bàn luận khác nhau về tính
người mà chúng ta không thể đơn giản nhận xét cách nào đúng, cách nào sai. Trong Luận
Ngữ, Khổng Tử từng xem vấn đề này thuộc hình nhi thượng, chỉ dành cho những bậc từ
trung trí trở lên. Cịn Vương Dương Minh thì lại cho vấn đề này thuộc về “tính và mệnh”.
Các nhà sáng lập Nho giáo đã đưa ra các hướng giải quyết vấn đề bản tính con người,
vạch ra phương pháp cơ bản cho việc tìm tịi về mặt lý luận cũng như trên thực tế.
Từ trước tới nay, ở trong và ngồi nước, đã có nhiều cơng trình bàn về vấn đề này. Tuy
nhiên, việc làm rõ thêm về mặt triết học vấn đề bản tính người mà các nhà Nho tiêu biểu
của Trung Quốc đặt ra và giải quyết, theo chúng tôi, là cần thiết. Với mục đích như vậy,
chúng tơi khảo sát tư tưởng của các nhà Nho tiêu biểu thời Tiên Tần.
“Tính” theo chữ tượng hình của Trung Quốc là tập hợp hai ký tự là “tâm” (tim, trung
tâm) và “sinh” (cuộc sống, sinh thành); cịn theo từ ngun học thì từ này dùng để chỉ
trung tâm của sức sống hoặc cơ sở tâm - sinh lý của sinh thể. Trong các hệ thống triết
học, “tính” cá nhân con người thường được liên hệ với khái niệm “thiện”, “ác”, “tâm”,
“mệnh”, “tình”, “lý”. Trong các văn bản của Phật giáo, “tính” tương ứng với các thuật
ngữ “svabhâva” (bản chất của ngã), “pracriti” (bản chất, vật chất), “pradhâna” (bản chất
khơng tiến hố).
Trong Luận Ngữ, tư tưởng của Khổng Tử về tính người “vốn gần nhau, do tập tính mà xa
nhau” (tính tương cận dã, tập tương viễn dã - Luận Ngữ, XVII, 2)(1) đã gây ra nhiều
cách giải thích và cách hiểu khác nhau. Rất nhiều nhà nghiên cứu và những nhà chú giải
tác phẩm này dựa vào luận điểm xuất phát của Khổng Tử về “tính trời phú” đã đương
nhiên cơng nhận tính người mà Khổng Tử đề cập “vốn thiện”. Trên thực tế, Khổng Tử
khơng hề nói bản tính “trời phú” đó là “thiện” hay “ác”. Vì thế, học thuyết của Khổng Tử
về tính người, theo A.I.Cốpdép, có thể xem như là “mặt bằng”(2) mà từ đó, các quan
niệm khác sử dụng để đối chiếu. “Tử Cống nói rằng, “Phu Tử nói về văn chương, chúng
ta thường được nghe. Phu Tử nói về bản tính (chữ in đậm do chúng tơi nhấn mạnh –
N.T.T.M) và đạo trời, chúng ta không thường được nghe” (Tử Cống viết: “Phu tử chi văn
chương khả đắc nhi văn dã. Phu tử chi ngơn tính dữ thiên đạo bất khả đắc nhi văn dã!” –

Luận Ngữ, V, 12). Cho nên, theo chúng tôi, cần làm rõ tư tưởng của Khổng Tử về tính
người có phải là “trung gian” trong quan hệ với “thiện” và “ác” hay khơng, có phải hai
tính cách này chỉ có về sau do tập tính của con người sinh ra bởi tác động của hoàn cảnh
hay khơng?
Mặc dù trong Luận Ngữ, Khổng Tử chỉ nói đến tính người có hai lần mà chúng tơi vừa
trích dẫn ở trên, nhưng lại nói nhiều đến các “hạng người” với những phẩm cách khác
nhau: “Người quân tử có khi mắc phải điều bất nhân chăng? Chưa hề có kẻ tiểu nhân làm
điều nhân bao giờ” (Quân tử nhi bất nhân giả, hữu hĩ phù! vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả
dã - Luận Ngữ, XIV, 7); “Người quân tử đạt tới chỗ cao thượng, kẻ tiểu nhân đạt tới chỗ


thấp hèn” (Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt – Luận Ngữ, XIV, 24); “Đối với những
người từ bậc trung trở lên, có thể dạy bảo về phần hình nhi thượng; đối với những người
từ bậc trung trở xuống, khơng thể dạy bảo về phần hình nhi thượng vậy” (Trung nhân dĩ
thượng, khả dĩ ngứ thượng, trung nhân dĩ hạ, bất khả dĩ ngứ thượng dã - Luận Ngữ, VI,
19).
Tử Tư (483 – 402 TCN.), trong sách Trung Dung, đã dẫn lời Khổng Tử như sau: “Hoặc
sinh ra đã biết, hoặc phải học mới biết, hoặc phải cố công gắng sức mới biết, nhưng kể về
hiểu biết thì như nhau” (Hoặc sinh nhi tri chi, hoặc học nhi tri chi, hoặc khốn nhi tri chi,
cập kỳ tri chi, nhất dã - Trung Dung, 20). Như vậy, Khổng Tử và cháu của ơng vừa muốn
phổ qt hố các phẩm cách khác nhau của con người, vừa muốn nhất thể hoá về mặt lý
luận các phẩm cách đó. Điều đó được thể hiện rõ nét qua việc nêu mối quan hệ giữa các
hạng người về năng lực trí tuệ với tính người.
Khơng nghi ngờ gì nữa, sự lý giải của Khổng Tử về vấn đề nhân tính, tuy hết sức ngắn
gọn, song đã vượt lên trên các nhà tư tưởng thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Các nhà tư
tưởng trước Khổng Tử cũng như đương thời, khi nhắc đến tính người thường khơng luận
chứng một cách có cơ sở, cịn Khổng Tử đã đặt nó vào mệnh đề “tính tương cận”, kết hợp
tính với thiên đạo (tính dữ thiên đạo). Càng quan trọng hơn, việc ông đặt vấn đề theo
cách này đã thể hiện sự tự giác của con người, con người tự phản ánh bản chất người của
chính mình, đưa vấn đề tính người thành một trong những vấn đề cơ bản nhất của đời

sống con người.
Vậy cái “tính tương cận” của Khổng Tử là thiện hay là ác? Chu Hi cho rằng, tính mà
Khổng Tử đề cập ở đây khơng thiện cũng khơng ác. Ơng viết: “Chữ tính trong Luận Ngữ
có cái nghĩa gồm cả khí chất, vậy thì có thiện có ác, nhưng xét lúc đầu thì tính mỗi người
không xa nhau mấy”(3). Nhưng theo chúng tôi, trong mệnh đề “tính tương cận dã, tập
tương viễn dã”, hiểu một cách lơgíc, thì cái tính tương cận đó khơng thể khơng là thiện,
vì cái làm người ta xa nhau khơng thể là thiện được. Hay nói cách khác, nếu cái “tính
tương cận” đó là ác, thì chúng ta sẽ khơng giải thích được cái ác trong xã hội từ đâu mà
ra, vì “tập tương viễn” chính là rời xa, hay ngược lại với cái “tính tương cận” đầu tiên rồi.
Học giả Trần Trọng Kim, khi trích bàn một số câu trong Kinh Dịch, đã cho rằng Khổng
Tử có hàm ý chủ trương thuyết tính thiện. Ơng viết: “... Khổng Tử cốt lấy sự sinh làm
trọng hơn cả. Ngài cho sự sinh của vạn vật là theo lẽ tự nhiên. Ta có thể ngắm cảnh tạo
hố trong vũ trụ, chỗ nào cũng thấy đầy những sinh ý và xuân khí thì biết cái đức của trời
rộng lớn là dường nào. Khổng Tử lấy bốn cái đức của trời: nguyên, hanh, lợi, trinh của
quẻ Kiền mà nói rõ sự sinh thành của vạn vật. Ngài nói rằng: Nguyên là đầu của các điều
thiện, hanh là hội hợp các cái tốt đẹp, lợi là sự hoà hợp với điều nghĩa, trinh là cái gốc
của mọi sự (Nguyên giả thiện chi trưởng giả, hành giả gia chi hội dã, lợi giả nghĩa chi
hoà dã, trinh giả sự chi cán dã - Dịch: Văn ngôn truyện). Cái đức nguyên là cái khởi đầu
sự sinh vạn vật, cái đức lợi là sự thoả thích của sự sinh vạn vật, cái đức trinh là sự thành
tựu của sự sinh vạn vật. Vậy đạo trời đất là chủ ở sinh vạn vật, mà sự sinh ấy là đầu cả
các điều thiện”(4). “Sinh” chính là thiện, và tính, do đó, cũng chính là thiện. Cái gọi là
“Tính là cái sinh ra đã như thế hoặc Tính là cái trời sinh ra” (Tính giả, sinh dã) chính là
mang nghĩa như vậy.


×