Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

TIỂU LUẬN MÔN: NGHIÊN CỨU ASEAN Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc và tácđộng đến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.72 KB, 40 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ & NGOẠI GIAO
--------

TIỂU LUẬN
MÔN: NGHIÊN CỨU ASEAN

Đề tài:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc và tác
động đến Việt Nam
Sinh viên thực hiện: Nhóm lớp CT40H

Hà Nội – 2016


Danh sách thành viên
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Nguyễn Thị Hoài
: CT40H-103-1317
Nguyễn Thị Phương Loan
: CT40H-106-1317
Nguyễn Ngọc Mai
: CT40H-107-1317


Giàng A Tâu
: CT40H-134-1317
Nguyễn Thanh Thư
: CT40H-117-1317
Lò Nguyễn Thu Trang
: CT40H-120-1317
Bùi Hải Yến
: CT40H-119-1317

Mục lục


Lời mở đầu....................................................................................................................... 1
Phần 1: Lý thuyết khu vực mậu dịch tự do và tình hình quan hệ ASEAN - Trung
Quốc trước và sau năm 2000 đến nay..........................................................................4
1.1 Lý thuyết khu vực mậu dịch tự do............................................................................4
1.2 Tình hình quan hệ ASEAN - Trung Quốc trước và sau năm 2000 đến nay...............6

Phần 2: Quá trình hình thành và thực tế hoạt động của khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc...................................................................................................10
2.1 Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc.............................................................................................................................10
2.2 Quá trình hình thành của ACFTA...........................................................................11
2.3 Thực tế hoạt động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc....................12

Phần 3: Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đến Việt
Nam................................................................................................................................. 18
3.1 Tác động tích cực....................................................................................................18
3.2 Tác động tiêu cực....................................................................................................20
3.3 Một vài bài học rút ra cho Việt Nam.......................................................................25


Phần 4: Dự báo chiều hướng phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEANTrung Quốc.................................................................................................................... 29
Kết luận.......................................................................................................................... 33
Phụ lục............................................................................................................................ 35
Danh mục tài liệu tham khảo......................................................................................36


Lời mở đầu
Ngày nay, quá trình hội nhập kinh tế ngày càng lan rộng và thâm nhập sâu vào mọi
ngõ ngách kinh tế trên toàn cầu, một trong những biểu hiện của nó chính là sự xuất hiện
ngày càng nhiều các hiệp định kinh tế trong đó có việc thành lập các khu mậu dịch tự do
(FTA). Những khu mậu dịch tự do này đã có những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế
của các nước thành viên cũng khu vực kinh tế nói riêng, đồng thời cũng có những tác
động đến tình hình chính trị, xã hội của khu vực.
Trung Quốc – một đất nước rộng lớn, đông dân, với tốc độ phát triển nhanh chóng
trong những năm trở đây, đang ngày càng nâng cao vị thế ảnh hưởng của mình trên
trường quốc tế. ASEAN – một thị trường tiềm năng, một tổ chức duy nhất gắn kết 10
nước vừa và nhỏ ở khu vực Đông Nam Á cũng ngày càng khẳng định được vai trị của
mình trên thế giới. Sự xuất hiện của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
(ACFTA) đã tạo ra một bước đi lịch sử trong tiến trình hợp tác giữa ASEAN và Trung
Quốc, đồng thời cũng góp phần tạo nên tính năng động kinh tế trong khu vực Châu ÁThái Bình Dương.
Từ những điều nêu trên đã thơi thúc nhóm quyết định chọn đề tài “ Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN – Trung Quốc và tác động đến Việt Nam” .
Tháng 9-2000, tại Hội nghị cấp cao ASEAN-Trung Quốc lần thứ 4 diễn ra tại
Singapore, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã nêu sáng kiến thành lập Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc, và nhận được sự hoan nghênh và đồng thuận của
các nước ASEAN. Do đó, bài nghiên cứu sẽ lấy mốc thời gian từ năm 2000 cho đến nay.
Với đối tượng nghiên cứu là khu vực mậu dịch tự do ACFTA và kinh tế, chính trị
Việt Nam dưới tác động của ACFTA, nhiệm vụ đưa ra là làm rõ những nhân tố tác động
đến sự hình thành, quá trình phát triển của ACFTA và những tác động đến Việt Nam, mục

đích bài nghiên cứu là phân tích để làm rõ chiều hướng phát triển của ACFTA để thấy

4


những cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam, từ đó chúng ta có những định hướng để
phát triển thực lực của mình.
Bằng các biện pháp thống kê, phân tích, so sánh, ngồi các phần mở đầu, phụ lục
và kết luận, bài tiểu luận sẽ bao gồm các phần sau:
Phần 1: Lý thuyết khu vực mậu dịch tự do và tình hình quan hệ ASEAN - Trung
Quốc trước và sau năm 2000 đến nay.
Phần này sẽ gồm hai nhiệm vụ chính, thứ nhất là điểm lại bối cảnh thế giới và tình
hình quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong thời điểm đưa ra sáng kiến thành lập khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và so sánh mối quan hệ này trong giai đoạn trước
đó với giai đoạn từ sau năm 2000 đến nay; nhiệm vụ thứ hai là giải thích các khái niệm
khu vực mậu dịch tự do, khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, đồng thời chỉ ra
những mục đích và lợi ích của các khu vực mậu dịch tự do nói chung.
Phần 2: Q trình hình thành và thực tế hoạt động của khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc.
Những nhân tố nào đã tác động đến sự hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN
- Trung Quốc, sự phát triển của nó ra sao và thực tế hoạt động có những điểm gì đáng lưu
ý? Đó là những mục tiêu sẽ làm rõ trong phần thứ hai này, đồng thời phần này cũng sẽ
chỉ ra một cách khái quát những thành công và hạn chế mà khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc đã đạt được.
Phần 3: Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đến Việt Nam
Việc thành lập và thực hiện những quy định trong hiệp định thương mại này, có
ảnh hưởng to lớn đến cả kinh tế và chính trị Việt Nam, chính vì thế phần này sẽ đi phân
tích và làm rõ những tác động cả tích cực và tiêu cực khu vực mậu dịch tự do ASEAN –
Trung Quốc đem lại cho Việt Nam, đồng thời sẽ đưa ra một vài khuyến nghị cho chính
sách kinh tế của Việt Nam.


5


Phần 4: Dự báo chiều hướng phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung
Quốc
Dựa theo những đánh giá về tình hình thực hiện hiệp định của các nước và tác
động từ mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc, phần IV này sẽ đưa ra ba kịch bản có thể xảy
ra đối với khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và một vài nhận xét chủ quan
của nhóm.
Do đề tài nghiên cứu cịn tương đối mới nên chưa có nhiều tài liệu tham khảo
chuyên sâu, đồng thời trình độ kiến thức cịn hạn hẹp nên bài tiểu luận sẽ có nhiều sai sót,
rất mong cơ sẽ có đóng góp ý kiến chỉnh sửa cho nhóm.

6


Phần 1: Lý thuyết khu vực mậu dịch tự do và tình hình quan hệ ASEAN Trung Quốc trước và sau năm 2000 đến nay
1.1 Lý thuyết khu vực mậu dịch tự do
Cho tới nay khung khái niệm về các cấp độ hội nhập hay liên kết kinh tế mà nhà kinh
tế học người Hungary Béla Balassa (1928 – 1991) đưa ra trong cơng trình “Lý thuyết về
hội nhập kinh tế” năm 1961 vẫn được các nghiên cứu về hội nhập kinh tế sử dụng như là
khung khái niệm chung trong q trình phân tích những vấn đề hội nhập kinh tế, cho dù
cơng trình đi theo hướng của những người mở đường như Viner (1950) và Meade (1955).
Cơng trình của ơng trình bày năm hình thức liên kết và hội nhập kinh tế khu vực xét theo
cấp độ cam kết tự do hóa thương mại và liên kết kinh tế.
1. Thỏa thuận Thương mại ưu đãi (Preferential Trade Arrangement/PTA): Các bên
tham gia thỏa thuận hạ thấp một phần hàng rào thương mại hàng hóa cho nhau và duy trì
hàng rào đó với các bên thứ ba khơng tham gia thỏa thuận.
2. Khu vực Thương mại Tự do (Free Trade Area/FTA): Các bên tham gia thỏa thuận

xóa bỏ hầu hết hàng rào thương mại, thuế quan và phi thuế quan cho nhau nhưng vẫn duy
trì chính sách thuế quan riêng của mỗi bên đối với các nước ngoài FTA.
3. Liên minh Thuế quan (Custom Union/CU): Các bên tham gia hình thành FTA và có
chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài liên minh.
4. Thị trường Chung (Common Market/CM): Các nước tham gia hình thành Liên
minh Thuế quan đồng thời cho phép sự dịch chuyển tự do của các nhân tố sản xuất là vốn
và lao động.
5. Liên minh Kinh tế (Economic Union/EU): Các bên tham gia hình thành thị trường
chung đồng thời xây dựng chính sách kinh tế chung tồn liên minh bằng cách hài hịa hóa
các chính sách tài khóa và tiền tệ quốc gia.
Theo nghiên cứu của El-Agraa (1999) thì tiếp cận hội nhập khu vực trên cả góc độ
chính trị và trình bày hệ thống năm cấp độ hội nhập khu vực nhìn từ mức độ cam kết
chính sách và thể chế chung như Bảng 1 dưới đây. Tổng kết của El-Agraa cho thấy cấp
7


độ liên kết khu vực là “nông” hay “sâu” tùy thuộc vào mức độ hội nhập chính sách và
hợp nhất thể chế các quốc gia thành viên.
Bảng 1: Các cấp độ hội nhập chính sách kinh tế khu vực
Hình

thức Thương

liên

Chính sách Dịch

kết mại tự do thương mại chuyển

kinh tế


nội khối

chung

Chính sách Một

chính

tiền tệ và tài phủ

nhân tố sản khóa chung
xuất tự do

Khu

vực Có

Khơng

Khơng

Khơng

Khơng



Khơng


Khơng

Khơng





Khơng

Khơng

minh Có







Khơng

minh Có










mậu dịch tự
do
Liên

minh Có

thuế quan
Thị trường Có
chung
Liên
kinh tế
Liên

chính trị
Nguồn: El-Agraa, Ali M. (1999), “Regional Integration: Experience, Theory and
Measurement”, London, Macmilan Press, Bảng 1.1 tr.2

Trong 5 hình thức mà Viner (1950) đưa ra thì hai hình thức đầu tiên hình thành PTA
và FTA được coi là cấp độ hội nhập “nông”, nghĩa là mới điều tiết những vấn đề thuế
quan tại biên giới và tự do hóa thương mại thuần túy, ba hình thức cịn lại được phân loại
vào nhóm thỏa thuận hội nhập “sâu”, bao hàm các nội dung về hài hịa hóa các vấn đề
chính sách trong biên giới quốc gia thành viên, điều phối và xây dựng chính sách chung
8


cho tồn nhóm thành viên và ở mức độ nào đó là hình thành những thể chế khu vực có tư
cách pháp lý cao hơn thể chế quốc gia thành viên.
Nghiên cứu của Shibata năm 1967 đưa ra định nghĩa về Khu vực Thương mại Tự do

(Free Trade Area) như sau: “Một Khu vực Mậu dịch Tự do (FTA) là một nhóm nước với
nhau, trong đó mỗi nước đồng ý miễn thuế quan và các hạn chế định lượng thường áp
dụng với các sản phẩm nhập khẩu hay bộ phận cấu thành các sản phẩm này, có xuất xứ
hoặc được sản xuất tại vùng lãnh thổ của các thành viên khác trong nhóm nước hình
thành nên FTA đó”.
Như vậy có thể thấy rằng, khu vực mậu dịch tự do là nền tảng của các hình thức liên
kết kinh tế trên thế giới hiện nay.
1.2 Tình hình quan hệ ASEAN - Trung Quốc trước và sau năm 2000 đến nay
Quan hệ ASEAN - Trung Quốc trước năm 2000
 Về hợp tác chính trị:
Hai bên tiến hành nhiều cuộc trao đổi phái đoàn cấp cao. Chỉ riêng 6 tháng đầu
năm 1993, năm Trung Quốc phát động chiến dịch ngoại giao “Láng giềng tốt” với Đông
Nam Á, các nhà lãnh đạo ASEAN đã lần lượt tới thăm Trung Quốc. Các cuộc tiếp xúc
giữa nhân dân với nhân dân cũng được thúc đẩy mạnh mẽ.
Với việc trao đổi quan điểm về các vấn đề cùng quan tâm, ASEAN và Trung Quốc
đã có cơ hội hiểu biết sâu hơn về lập trường và quan điểm của nhau về các vấn đề khu
vực và quốc tế cùng quan tâm. Điều này đã góp phần xóa bỏ dần nghi kỵ và xây dựng
lòng tin giữa hai bên. Kết quả là vào tháng 7 năm 1996, Trung Quốc đã được công nhận
là đối tác đối thoại thứ 9 của ASEAN.
Tuy nhiên quan hệ chính trị giữa ASEAN và Trung Quốc vẫn còn nhiều căng
thẳng do các hoạt động của Trung Quốc ở biển Đông. Do vậy trong phát triển hợp tác
9


quan hệ với Trung Quốc, ASEAN vẫn duy trì mở rộng quan hệ với những cường quốc
khác nhằm sử dụng các mối quan hệ đó để kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc trong
khu vực.
 Về hợp tác kinh tế:
Trong lĩnh vực kinh tế, hợp tác ASEAN – Trung Quốc đưa lại những kết quả đáng
khích lệ, đặc biệt là về mậu dịch. Hai bên tăng cường trao đổi buôn bán hàng hóa, Trung

Quốc, trở thành thị trường xuất nhập khẩu lớn của ASEAN. Trong lĩnh vực đầu tư, hợp
tác ASEAN – Trung Quốc chưa đáp ứng được mong đợi của hai bên.
Từ thực tế hợp tác ASEAN – Trung Quốc trong những năm nửa đầu thập kỷ 90 thế
kỷ trước đến trước năm 2000 có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, hợp tác ASEAN – Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở chia sẻ những
lợi ích chung về hịa bình và phát triển của hai bên ở thời kỳ chiến tranh.
Thứ hai, mặc dù phải vượt qua nhiều trở ngại do di sản nặng nề của chiến tranh
lạnh và những vấn đề do lịch sử để lại, quan hệ hệ ASEAN – Trung Quốc trong những
năm đầu thập kỷ 90 đã khá phát triển. Thông cáo báo chí chung của Hội nghị đầu tiên của
Ủy ban ASEAN – Trung Quốc họp tại Bắc Kinh tháng 2-1997 viết: “Đã có những tiến bộ
đáng kể và tạo ra trong quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc cũng như quan hệ giữa các
nước thành viên ASEAN với Trung Quốc. Trao đổi và thăm cấp cao diễn ra thường
xuyên, tiếp xúc kinh tế và mậu dịch chặt chẽ, hợp tác toàn diện trong các lĩnh vực khác
đang được mở rộng. Đối thoại chính trị ở cấp cao, các cơ chế hợp tác kinh tế, mậu dịch,
khoa học và công nghệ đã bắt đầu trôi chảy. Hai bên cũng đã phối hợp và ủng hộ lẫn nhau
trong các vấn đề khu vực và quốc tế, và duy trì được đà hợp tác đáng khích lệ”.

10


Quan hệ ASEAN - Trung Quốc từ năm 2000 đến nay.
Từ năm 2000 đến nay, một số nước ASEAN và Trung Quốc tuy vẫn còn tồn tại
một số bất đồng về biên giới lãnh thổ, tuy nhiên xu thế hợp tác cùng phát triển vẫn là chủ
yếu.
 Về hợp tác chính trị an ninh:
Để xây dựng một nền tảng vững mạnh cho hợp tác lâu dài, ASEAN và Trung
Quốc đã ký một số văn kiện chính trong lĩnh vực chính trị và an ninh, bao gồm Tuyên bố
chung của ASEAN và Trung Quốc về Hợp tác trong lĩnh vực Vấn đề An ninh Phi truyền
thống (năm 2002), Tuyên bố về Cách Ứng xử giữa các Bên trên Biển Đông (DOC),
Tuyên bố chung về Quan hệ đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc vì Hịa bình và

Thịnh vượng (năm 2003), các Tuyên bố chung của Hội nghị Cấp cao Kỷ niệm ASEANTrung Quốc năm 2006 và 2011, và các văn kiện quan trọng khác.
ASEAN và Trung Quốc tiếp tục tăng cường thắt chặt quan hệ đối tác chiến lược
thông qua đối thoại và tham vấn thường xuyên, như Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung
Quốc, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN - Trung Quốc, Cuộc họp Tham vấn Quan chức Cao
cấp ASEAN - Trung Quốc và các cuộc họp liên quan khác về các vấn đề song phương,
khu vực và toàn cầu cùng quan tâm. Trung Quốc ủng hộ ASEAN đóng vai trị là động lực
chính của các tiến trình khu vực do ASEAN khởi xướng như ASEAN+3, Diễn đàn Khu
vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng (ADMM +) và
Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS).
Trung Quốc là Đối tác Đối thoại Đầu tiên của ASEAN tham gia vào Hiệp ước
Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) tại Hội nghị Cấp cao ASEAN - Trung Quốc
lần thứ 7 vào tháng 10 năm 2003 tại Bali, góp phần nâng tầm Hiệp ước TAC với tư cách
là một bộ quy tắc ứng xử cho quan hệ giữa các nước trong khu vực.
 Về hợp tác kinh tế:
Quan hệ kinh tế thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đã được phát triển nhanh
chóng trong những năm qua, đặc biệt là sau khi ký kết Hiệp định khung về Hợp tác kinh
11


tế toàn diện vào tháng 11 năm 2002 để thành lập Khu vực Thương mại Tự do ASEAN Trung Quốc (ACFTA).
Nhằm triển khai thành lập ACFTA, các Hiệp định Thương mại Hàng hóa, Thương
mại trong Hiệp định và Hiệp định đầu tư theo Hiệp định khung hợp tác kinh tế toàn diện
đã lần lượt được ký vào ngày 29 tháng 11 năm 2004, ngày 14 tháng 1 năm 2007 và ngày
15 tháng 8 năm 2009. Hội nghị Tham vấn Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Trung Quốc
(AEM - MOFCOM) họp vào ngày 10 tháng 8 năm 2011 tại Manado, Indonesia, thông
qua việc thành lập Ủy ban hỗn hợp ACFTA với nhiệm vụ chính là giám sát, giám sát,
điều phối và kiểm điểm việc thực hiện các Hiệp định.
Từ khi khởi động FTA vào năm 2003, thương mại của ASEAN với Trung Quốc đã
đi lên với tăng trưởng trung bình hàng năm là 26%, kết quả là tăng hơn ba lần thương mại
của ASEAN với Trung Quốc. ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Trung Quốc,

chiếm 9,8% tổng giá trị thương mại của Trung Quốc. Trong nửa đầu năm 2011, ASEAN
đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc.
ASEAN và Trung Quốc cũng đã ký một Biên bản ghi nhớ về Hợp tác nông nghiệp
giai đoạn 2007-2011 bên lề của Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc lần thứ 10 tại Xêbu, Phillippin vào tháng 1 năm 2007 sau khi Biên bản ghi nhớ trước đã hết hạn cuối năm
2006. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc lần thứ 13 trong tháng 10 năm
2010 tại Hà Nội, Trung Quốc cam kết sẽ thiết lập 20 hệ thống giám sát kiểm dịch động
vật xuyên biên giới, 3 trung tâm giới thiệu kỹ thuật canh nông và 20 trạm thử nghiệm và
cơ sở giới thiệu các giống cây trồng cải tiến tại các nước thành viên ASEAN vào năm
2015.

12


Phần 2: Quá trình hình thành và thực tế hoạt động của khu vực mậu dịch tự
do ASEAN - Trung Quốc
2.1 Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành của khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc
 Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA) trên toàn cầu
Từ những năm đầu của thập niên 1990, song song với q trình tồn cầu hố, chủ
nghĩa khu vực (regionalism) đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về lượng và về chất. Trước
đó, chủ nghĩa khu vực thường mang hình thái khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area)
nhưng kể từ thập niên 1990, hình thái FTA (Free Trade Agreement) song phương hoặc
nhiều bên trở nên phổ biến hơn, với phạm vi hợp tác rộng hơn, không chỉ giới hạn trong
việc thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ mà cịn cả xúc tiến và tự do hố
đầu tư, hợp tác chuyển giao cơng nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, xây dựng năng lực
và nhiều nội dung mới khác như lao động, môi trường. Thành công của những khu vực
mậu dịch tự do trên thế giới như Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Liên
minh Châu Âu (EU) được hình thành trước đó càng góp phần thúc đẩy nhanh hơn quá
trình hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN.

 Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của khu vực kinh tế năng

động ASEAN
Trung Quốc là một quốc gia lớn, đông dân nằm ngay sát khu vực ASEAN, nhiều
nước trong khu vực ASEAN đã có những chính sách ngoại thương truyền thống với
Trung Quốc trong lịch sử thông qua việc giao dịch, trao đổi hàng hóa đa dạng ví dụ như
Việt Nam, Thái Lan,… Như vậy, xét về góc độ địa lý, việc hình thành Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN-Trung Quốc như một quy luật tất yếu trong quá trình phát triển đi lên của
AFTA.
Sức mạnh kinh tế của Trung Quốc ngày càng trở nên rõ rệt, từ một nước đang phát
triển vào đầu thế kỉ 21, giờ đây Trung Quốc đang có nhiều bước tiến lớn hơn về kinh tế
và nó thực sự trở thành một thị trường thu hút sự chú ý của các thị trường xung quanh
trong đó có ASEAN.
13


Môi trường kinh tế ASEAN ngày càng năng động hơn. ASEAN là tổ chức đầu tiên
tại Đông Á thực hiện các FTA khu vực, đầu tiên là dưới hình thức PTA (Thỏa thuận
thương mại ưu đãi) rồi sau đó là khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) để đáp lại các
thách thức của các thị trường đang được toàn cầu hố nhanh chóng. ASEAN ln theo
đuổi chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu và tỷ lệ tăng trưởng cao nói đơn giản
hơn tức là AFTA đưa ra mục tiêu làm tăng khối lượng buôn bán trong nội bộ ASEAN
cũng như giữa các nước ASEAN với các nước ngoài khu vực. Và đó cũng chính là mục
tiêu theo đuổi của Trung Quốc trong tự do hóa thương mại.
2.2 Quá trình hình thành của ACFTA
Ý tưởng về việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa Trung Quốc và
ASEAN xuất phát từ đề xuất của Cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ tại Hội nghị
thượng đỉnh không chính thức ASEAN lần thứ 4 tổ chức vào tháng 11 năm 2000. Trong
năm này, Trung Quốc còn thoả thuận sẽ tăng cường hợp tác và đưa ra những hạng mục
hợp tác cụ thể như khai thác sông Mekong, xây dựng tuyến đường sắt xuyên Á.
Đến năm 2001, những thoả thuận này giữa Trung Quốc và ASEAN đã có những
bước tiến mới. Trung Quốc ủng hộ nỗ lực của ASEAN thiết lập khu vực khơng có vũ khí

hạt nhân, xem xét ký kết Hiệp định hợp tác hữu nghị Đông Nam Á, cam kết đầu tư 5 triệu
USD để nạo vét sơng Mekong và tài trợ 1/3 chi phí xây dựng tuyến đường cao tốc
Bankok - Côn Minh. Đặc biệt, tại Hội nghị giữa những nhà lãnh đạo ASEAN - Trung
Quốc tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 2001 tại Banda Seri Begawan (Brunei), các nhà
lãnh đạo Trung Quốc và 10 nước ASEAN đã đi đến nhất trí về việc thành lập Khu mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) trong vịng 10 năm, đồng thời chính thức uỷ
quyền cho các bộ trưởng và quan chức của hai bên đàm phán về vấn đề này.
Từ sau khi đạt được thỏa thuận thành lập ACFTA, hai bên đã nỗ lực xúc tiến các
cơng tác thúc đẩy tiến trình ra đời của ACFTA. Các tổ chức như Uỷ ban đàm phán
thương mại ASEAN - Trung Quốc (TNC - Trade Negotiation Committee) và Hội đồng
thương mại ASEAN - Trung Quốc đã được thành lập. Đồng thời các cuộc gặp giữa các
14


nhà lãnh đạo hai bên để đàm phán về phát triển hợp tác kinh tế thương mại đã diễn ra liên
tục trong năm qua như: Cuộc gặp giữa các quan chức kinh tế cao cấp ASEAN - Trung
Quốc (SEOM - Senior Economic Officials Meeting) lần thứ 3 hồi tháng 5 năm 2002 tại
Bắc Kinh, Hội thảo quốc tế về hợp tác trong thương mại, đầu tư và phát triển ASEAN Trung Quốc diễn ra vào tháng 6 năm 2002 tại Côn Minh Trung Quốc, Diễn đàn về hợp
tác ASEAN - Trung Quốc vào tháng 8 năm 2002 tại Kuala Lumpur (Malaysia), Hội nghị
bộ trưởng kinh tế ASEAN - Trung Quốc lần thứ nhất vào tháng 9 tại Brunei, cuộc gặp
giữa các quan chức kinh tế cấp cao của hai bên vào tháng 10 tại Singapore,…
Bên cạnh đó, cịn có rất nhiều các cuộc viếng thăm của các nhà lãnh đạo cũng như
của các nhóm khảo sát của hai bên đến cả Trung Quốc và ASEAN để tìm hiểu tình hình
thị trường và tìm kiếm cơ hội hợp tác.
Với những nỗ lực của cả hai bên, ngày 4 tháng 11 năm 2002, tại Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN lần thứ 8 diễn ra ở thủ đô Phnompenh (Campuchia), các nhà lãnh đạo
ASEAN và Trung Quốc đã chính thức ký bản hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn
diện ASEAN - Trung Quốc (Framework Agreement on Asean–China Comprehensive
Economic Cooperation - FAACCEC), mở đường cho việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) trong 10 năm sau đó. Đây là một sự kiện quan trọng,

đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong thế kỷ này.
2.3 Thực tế hoạt động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
 Các cam kết trong khuôn khổ ACFTA
Thuế quan:
Các quốc gia tham gia đều phải cam kết loại bỏ một cách cơ bản thuế quan đối với tất
cả các hàng hóa giao thương. Việc loại bỏ thuế quan được tiến hành trong một khoảng
thời gian nhất định. Cho ASEAN 6 và Trung Quốc, thời gian cho việc hủy bỏ các dòng
thuế là từ năm 2005 đến 2010. Các quốc gia được phép bảo hộ cho một số lượng giới hạn

15


các mặt hàng mang tính nhạy cảm với nền kinh tế. Tuy nhiên, thuế quan áp dụng cho hầu
hết các mặt hàng nhạy cảm này phải được cắt giảm đến 0 - 5% vào năm 2018.
Các chương trình cắt giảm hoặc hủy bỏ thuế quan của các quốc gia thành viên sẽ lấy
các mức thuế quan áp dụng MFN cho các dòng thuế đang dần dần được cắt giảm hoặc
hủy bỏ.
Thuế quan ưu đãi:
Trung Quốc đã đàm phán với ASEAN, Trung Quốc bắt đầu thực hiện Hiệp định Thu
hoạch sớm nằm trong khuôn khổ hợp tác kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc cho 593
dòng thuế.
Quy tắc xuất xứ:
Quy chế xuất xứ trong bối cảnh ACFTA đảm bảo rằng chỉ những hàng hóa đáp ứng
các tiêu chuẩn của điều khoản Quy chế xuất xứ của ACFTA mới đủ điều kiện tham gia
vào thuế quan ưu đãi. Điều này áp dụng cho các hàng hóa được quy định trong Chương
trình Thu hoạch sớm và Hiệp định Thương mại hàng hóa. ASEAN và Trung Quốc đã
đồng ý các tiêu chuẩn để hưởng mức thuế quan ưu đãi phải là hàng hóa có toàn bộ nội
dung và giá trị gia tăng dựa trên ít nhất 40% hàm lượng giá trị nội dung của quốc gia
thành viên hoặc các quốc gia trong khu vực.
Các quốc gia đang đàm phán cho các điều khoản khác như là việc thông qua các quy

định dệt may CEPT vào điều khoản Quy chế xuất xứ của ACFTA. Các tiêu chuẩn về nội
dung và giá trị gia tăng là tương tự với điều khoản Quy chế xuất xứ của AFTA.
Các biện pháp phi thuế quan:
Các quốc gia có quyền được bảo hộ để chống lại sự tổn thương đến nền công nghiệp
trong nước gây ra bởi sự tự do hóa thương mại hàng hóa theo các điều khoản sử dụng các
biện pháp tự vệ của ACFTA.

16


Các quốc gia thành viên sẽ xác định các hàng rào phi thuế quan (hơn là các biện pháp
hạn chế định lượng) để có thể hủy bỏ sớm nhất có thể sau khi hiệp định này có hiệu lực.
Khung thời gian cho việc hủy bỏ các hàng rào phi thuế quan sẽ được sự đồng ý lẫn nhau
của các quốc gia thành viên.
Cấm/Hạn chế định lượng nhập khẩu:
Từng quốc gia thành viên cam kết khơng duy trì bất kỳ các biện pháp hạn chế định
lượng tại bất kỳ thời điểm nào trừ khi các biện pháp này được cho phép dưới các nguyên
tắc của WTO.
Tự vệ:
Liên quan đến các biện pháp tự vệ của ACFTA, các quốc gia có quyền khởi động
biện pháp tự vệ cho một hàng hóa trong một khoảng thời gian chuyển tiếp cho hàng hóa
đó. Thời gian chuyển đổi này sẽ được bắt đầu từ ngày hiệp định ACFTA có hiệu lực và
kết thúc sau 5 năm từ ngày hoàn thành các việc hủy bỏ hoặc cắt giảm thuế quan cho hàng
hóa đó.
Một quốc gia sẽ được tự do tiến hành các biện pháp tự vệ ACFTA nếu có những tác
động mà quốc gia đó phải gánh chịu bao gồm các ưu đãi thuế quan của chương trình Thu
hoạch sớm theo Hiệp định khung hoặc theo Hiệp định Thương mại hàng hóa; hoặc là kết
quả của sự phát triển không lường trước và của các tác động của những nghĩa vụ mà quốc
gia đó phải gánh chịu; hoặc là các tác động của việc nhập khẩu hàng hóa nhất định tăng
về mặt định lượng tuyệt đối hoặc tương đối so với hàng hóa trong nước và dưới những

điều kiện này đã gây ra hoặc đe dọa làm tổn thương nghiêm trọng các ngành trong nước
của quốc gia nhập khẩu mà sản xuât những sản phẩm giống hoặc cạnh tranh trực tiếp.
 Cam kết của Việt Nam trong ACFTA
Nội dung cam kết cắt giảm thuế của Việt Nam trong khuôn khổ Khu vực Mậu dịch
Tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) được điều chỉnh bởi Hiệp định Khung về Hợp tác
Kinh tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc được các nhà lãnh đạo Thượng đỉnh ASEAN và
17


Trung Quốc ký ngày 4 tháng 11 năm 2002 tại Campuchia (gọi tắt là Hiệp định Khung),
Hiệp định Thương mại Hàng hoá ASEAN - Trung Quốc được ký kết ngày 29 tháng 11
năm 2004 tại Lào, và Biên bản ghi nhớ giữa Việt Nam-Trung Quốc ký ngày 18 tháng 7
năm 2005 tại Trung Quốc. Theo đó, việc cắt giảm và tự do hóa thuế quan của Việt Nam
trong ACFTA được chia thành 3 danh mục hàng hoá: Thu hoạch sớm, thơng thường và
nhạy cảm, cụ thể như sau:
Chương trình thu hoạch sớm (EHP): gồm hầu hết các mặt hàng nông sản và thuỷ
sản từ Chương 1-8 của Biểu thuế nhập khẩu. Các mặt hàng hiện đã được thực hiện giảm
thuế từ năm 2004 và xoá bỏ thuế vào 2008 theo lộ trình sau:
Bảng 2: Lộ trình giảm thuế của Danh mục EHP
Thuế suất MFN

Mức thuế EHP qua các năm
2004
2005
MFN > 30%
20%
15%
15 < MFN 10%
10%


2006
10%
5%

2007
5%
5%

30%
MFN < 15%

0-5%

0-5%

5%

5%

Nguồn: Hiệp định Khung ASEAN-Trung Quốc

Danh mục nhạy cảm (ST):
Nếu xét với Việt Nam thì Danh mục nhạy cảm của Việt Nam gồm 388 nhóm mặt
hàng ở cấp độ HS 6 số (Phụ lục III của Biên bản ghi nhớ), chủ yếu là các sản phẩm như:
trứng gia cầm, đường, thuốc lá, động cơ, phương tiện vận tải (ô tô, xe máy), xăng dầu, sắt
thép, vật liệu xây dựng, sản phẩm điện tử điện lạnh, giấy, dệt may....Những mặt hàng
thuộc Danh mục nhạy cảm không có lịch trình giảm thuế cụ thể theo từng năm nhưng bị
giới hạn mức thuế suất cuối cùng và năm cuối cùng thực hiện.
Danh mục thông thường:


18


Bao gồm các mặt hàng còn lại trừ các mặt hàng thuộc các danh mục nêu trên. Hiện
nay, về cơ bản các nước ASEAN 6 và Trung Quốc đã thống nhất được về mơ hình giảm
thuế. Theo quy định của Hiệp định khung, các nước CLMV sẽ được hưởng sự đối xử đặc
biệt và khác biệt khi tham gia giảm thuế trong ACFTA và sẽ giảm tất cả các dòng thuế về
0% vào năm 2015 (các nước ASEAN 6 là 2010).
Bảng 3: Lộ trình giảm thuế của Danh mục thơng thường (ACFTA)
X = thuế suất Mức thuế suất ACFTA
tại thời điểm Tại thời điểm không muộn hơn ngày 1/1 của năm
2005
2006
2007
2008
2009
2011
2003
X > 60%
45% < X < 60%
35% < X < 45%
30% < X < 35%
25% < X < 30%
20% < X < 25%
15% < X < 20%
10% < X < 15%
7% < X < 10%
5% < X < 7%
X < 5%


60
50
40
35
35
30
30
25
25
20
20
15
15
10
10
10
7
7
5
5
Giữ nguyên

40
35
30
25
20
15
10
10

7
5

30
30
25
20
15
15
10
10
7
5

25
25
20
17
15
15
10
8
5
5

15
15
15
10
10

10
5
5
5
5

2013

201

10
10
5
5
5
0-5
0-5
0-5
0-5
0-5

5
0
0
0
0
0
0
0
0

0
0
0

Nguồn: Hiệp định Thương mại Hàng hoá ASEAN-Trung Quốc

 Thực tế thực hiện cam kết của các nước thành viên
Ngày 1 tháng 1 năm 2004, Chương trình thu hoạch sớm của ACFTA chính thức
thực thi, thuế suất hàng nơng sản đã giảm mạnh. Cuối năm 2004, hai bên đã ký kết “Hiệp
19


định thương mại hàng hoá” và “Hiệp định về cơ chế giải quyết tranh chấp”, đánh dấu
việc xây dựng Khu vực mậu dịch tự do bước vào giai đoạn thực chất.
Tháng 4-2005, trong chuyến thăm các nước Brunei, Indonexia và Phillipin, Chủ
tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã đề xuất đến năm 2010, nâng kim ngạch thương mại hai
chiều giữa Trung Quốc và ASEAN lên tới 200 tỷ USD. Ngày 20 tháng 7 năm 2005 bắt
đầu thực thi chương trình giảm thuế của “Hiệp định thương mại hàng hoá ACFTA”, có
7000 mặt hàng giữa hai bên đã giảm thuế suất mới mức lớn, đi vào thị trường đối phương
một cách thuận tiện hơn trong khi xoá bỏ hạn ngạch và điều kiện thâm nhập thị trường
được cải thiện đáng kể. Việc này có lợi cho sản phẩm của các nước ASEAN đi vào thị
trường Trung Quốc, cũng góp phần cho doanh nghiệp Trung Quốc nhập khẩu nguyên vật
liệu, linh phụ kiện và thiết bị từ các nước ASEAN với giá thành rẻ hơn.
Ngày 15-8-2009, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế -Thương mại Trung Quốc-ASEAN
lần thứ 8 diễn ra tại Thủ đô Băng Cốc của Thái Lan. Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc
Trần Đức Minh và Bộ trưởng Kinh tế-Thương mại của 10 nước ASEAN đã ký kết “Hiệp
định đầu tư Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc”. Việc này đánh dấu hai bên
đã hoàn thành các đàm phán quan trọng của Hiệp định về khu vực mậu dịch tự do,
ACFTA sẽ hoàn thành toàn diện vào năm 2010.
Xóa bỏ các rào cản thương mại, chun mơn hóa và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Điểm cốt yếu của Hiệp định thương mại hàng hóa là khơng quy định giới hạn về số lượng
và loại bỏ các rào cản phi thuế quan, nhờ đó làm giảm chi phí trong giao dịch thương
mại. Hơn nữa, nó sẽ làm tăng giao dịch thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc, nâng
cao hiệu quả kinh tế của các nước, khi mà chi phí nhập khẩu trong khu vực mậu dịch tự
do giữa các nước giảm, chun mơn hóa sản xuất theo đó mà hình thành và do đó làm
tăng thu nhập cho cả các nước ASEAN và Trung Quốc.
Theo “Hiệp định khung hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc” ký kết
năm 2002, ngồi một số ít sản phẩm ra, 6 nước thành viên cũ của ASEAN tương đối phát

20


triển, 4 nước thành viên mới và Trung Quốc sẽ thực hiện thuế quan 0% vào năm 2010 và
2015, liên quan tới hơn 7000 mặt hàng.
Ngày 1 tháng 1 năm 2010, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc đã tạo
ra cơ hội thương mại vô tận và tương lai phát triển rộng lớn cho các nước ASEAN và
Trung Quốc. Cải thiện tình hình đầu tư trong khu vực: Việc hình thành ACFTA sẽ tạo
điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư giữa các nước ASEAN, giữa ASEAN và Trung Quốc
đồng thời giảm thiểu được các rủi ro thị trường. Điều này cũng sẽ hấp dẫn các công ty
của các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu xâm nhập vào thị trường châu Á.

Phần 3: Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đến Việt
Nam
3.1 Tác động tích cực
 Tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ,
thúc đẩy sự phát triển thương mại
Việc thực hiện Chương trình thu hoạch sớm của ACFTA từ tháng 01 năm 2004
cũng như thực hiện kế hoạch cắt giảm thuế quan theo những điều khoản đã được ký kết
trong Hiệp định thương mại về hàng hóa từ giữa năm 2005 là những cơ hội để gia tăng
giá trị trao đổi hàng hóa của Việt Nam sang các nước ASEAN và Trung Quốc. Việt Nam

có cơ hội để mở rộng xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thủy sản, may mặc, giày dép, thủ
công mỹ nghệ, các hàng hóa sử dụng nhiều lao động.
Hơn nữa, thơng qua ACFTA, Việt Nam có thể mở rộng quan hệ thương mại với
các nước khắp các châu lục trên thế giới.
Vấn đề đặt ra hiện nay cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN - Trung
Quốc là cân đối lại mức nhập siêu và kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam cần gia tăng mức
xuất khẩu vào khu vực thay vì nhập siêu tới 81% với các nước ASEAN. Điều đáng chú ý
nữa là tuy các nước ASEAN đã giảm thuế nhập khẩu để thực hiện cơ chế mậu dịch tự do
21


theo ACFTA nhưng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này lại không tăng so với
cách đây ba năm; các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng tốt cơ hội từ chính AFTA.

 Nhờ xóa bỏ rào cản thương mại, chun mơn hóa sản xuất và nâng cao hiệu quả
kinh tế trong khu vực, hàng Việt Nam vào Khu mậu dịch tự do sẽ có tính cạnh
tranh cao hơn nhờ giảm được chi phí vận tải và gần gũi về văn hóa
Châu Á, đặc biệt là khu vực ASEAN, là thị trường lớn nhất trong các châu lục
nhập khẩu hàng của Việt Nam. Đây là thị trường có vị trí địa lý thuận lợi, chi phí vận
chuyển thấp nên Việt Nam cần khai thác triệt để lợi thế này. Hơn nữa, đây là thị trường có
nhu cầu, thị hiếu về chất lượng, chủng loại, giá cả khá tương đồng so với hàng xuất khẩu
của Việt Nam. Đây là cơ hội mà các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng để tăng cường
khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, phấn đấu giảm giá thành, nâng cao chất
lượng sản phẩm trên thị trường.

 Tăng cường thu hút đầu tư nước ngồi vào Việt Nam
Sự hình thành Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ tạo điều kiện thúc đẩy
hoạt động đầu tư đối với các nước ASEAN, trong đó có nước ta. Mặc dù trong bối cảnh
vẫn còn những bất cập như lạm phát cao, tệ quan liêu, tham nhũng… nhưng các nhà đầu
tư nước ngoài vẫn nhìn thấy lợi ích lâu dài khi quyết định đầu tư vào khu vực. Với một

thị trường rộng lớn hơn, sự cạnh tranh sẽ càng mạnh mẽ hơn, đồng thời cũng có điều kiện
thu hút được thêm nhiều nhà đầu tư hơn.
Với việc hình thành ACFTA, Việt Nam có rất nhiều cơ hội để tăng cường thu hút
đầu tư nước ngoài nếu chúng ta sớm cải thiện được rõ rệt môi trường đầu tư, vận hành
hiệu quả hơn nền kinh tế, cải cách và hồn thiện hệ thống tài chính và pháp lý, đặc biệt là
thực hiện nghiêm túc và triệt để hơn cuộc chiến chống tham nhũng và thất thốt, lãng
phí...

 Tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp thu khoa học - công nghệ mới, tiếp thu kiến thức và
kinh nghiệm quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh từ ngay các nước phát triển
năng động và có hiệu quả trong khu vực
Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam sớm dứt bỏ kiểu làm ăn không
theo đúng quy tắc nếu muốn tồn tại và phát triển ngay chính trên "sân nhà" của mình.
22


 Nâng cao vị thế của Việt Nam trong các vòng đàm phán song phương và đa
phương
Việc Việt Nam tham gia vào ACFTA sẽ giúp cho Việt Nam có thêm nhiều kinh
nghiệm trong đàm phán thương mại và cho phép Việt Nam có sức mạnh lớn hơn trong
việc tạo ảnh hưởng đối với các chương trình nghị sự thương mại quốc tế nói chung và
việc đàm phán thương mại đa phương nói riêng.
Hơn nữa, việc tham gia của Việt Nam vào ACFTA sẽ hỗ trợ quá trình xin gia nhập
WTO của Việt Nam và làm tăng lòng tin của các nhà đầu tư trong trường quốc tế. Tham
gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam dẩy nhanh tốc độ cơ
cấu lại nền kinh tế, cải cách hệ thống thương mại và pháp lý cho phù hợp với yêu cầu của
kinh tế thị trường. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc Việt Nam sớm gia nhập WTO và
các thể chế quốc tế khác.
3.2 Tác động tiêu cực


 Chịu tác động của vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc
Thâm hụt thương mại của Việt Nam và Trung Quốc ngày càng lớn.
Nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội do FTA với Trung
Quốc mang lại. Trong khi đó, thực hiện giảm thuế đối với các mặt hàng công nghiệp và
nông sản theo cam kết ACFTA đã tạo điều kiện để luồng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc
vào Việt Nam tăng mạnh, càng tạo thâm hụt nặng nề trong thương mại giữa 2 nước. Với
cơ cấu trao đổi hàng hóa như hiện nay thì càng để dẫn đến việc Việt Nam xuất khẩu chủ
yếu nông lâm thủy sản, nguyên nhiên liệu thô và nhập khẩu chủ yếu mặt hàng công
nghiệp từ Trung Quốc, điều này gây nhiều bất lợi cho Việt Nam cả trong quan hệ thương
mại lẫn trong cố gắng cơng nghiệp hóa nền kinh tế của ta.

 Nguy cơ khoảng cách trong phát triển kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và
các nước trong khu vực tiếp tục gia tăng
23


Tuy thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta gia tăng liên tục trong
những năm gần đây nhưng so với các nước thuộc Khu vực mậu dịch tự do ACFTA thì
kinh tế và thương mại tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước, chúng ta
cịn để lãng phí nhiều nguồn lực, đánh mất nhiều thời cơ và hiệu quả sử dụng các nguồn
vốn đầu tư thấp. So với Trung Quốc, mức đầu tư của Việt Nam là 35,4% GDP nhưng mức
tăng trưởng chỉ hơn 7% (Trung Quốc 9%). Trong thập kỷ 60 và 70 khi Đài Loan có mức
thu nhập bình qn đầu người như Việt Nam hiện nay họ đã tăng trưởng trên 11% trong
suốt 10 năm liền với lượng đầu tư chỉ chiếm 25% GDP. Thu nhập bình quân đầu người
của Trung Quốc hiện là 1.200 USD gấp đôi con số 545 USD của Việt Nam; với mức thu
nhập bình quân như hiện nay, Việt Nam chưa đạt 1/2 mức thu nhập bình quân của
ASEAN (1.267USD/ người) trong khi xét về viện trợ bình quân đầu người, Việt Nam là
20 USD, Trung Quốc là 2 USD; lượng kiều hối từ nước ngoài, bình quân đầu người ở
Việt Nam là 50 USD, ở Trung Quốc là 7 USD.
Ngay cả trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006 - 2010, dự kiến mức đầu tư

của Việt Nam là 37 - 38% GDP nhưng mức tăng trưởng chỉ đặt ra 7,5-8%. Còn về GDP,
GDP bình quân đầu người của ASEAN đạt khoảng 4000 USD, GDP bình quân đầu người
của Việt Nam đạt khoảng 2061 USD (năm 2014).1
 Sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ và hệ thống tổ chức quản lý kinh doanh
còn yếu kém
Tuy sau 20 năm đổi mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế - thương
mại quan trọng, hàng hóa của chúng ta đã có mặt trên 200 nước và vùng lãnh thổ nhưng
với một nền sản xuất hàng hóa nhỏ, phân tán, sức cạnh tranh của hệ thống kinh doanh
cũng như hàng hóa, dịch vụ rất yếu kém. Tham gia Khu vực mậu dịch tự do ACFTA sẽ
tạo điều kiện để hàng hóa, dịch vụ Việt Nam có thêm cơ hội xâm nhập thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, do hàng hóa, dịch vụ của ta có sức cạnh tranh thấp nên cơ hội thâm nhập thị
trường mới chỉ dừng lại ở tiềm năng, trong khi đó hàng hóa của các nước ASEAN Trung Quốc với sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện xâm nhập vào thị trường Việt
Nam.
1 Tạp

chí tài chính, 03/03/2015
24


Hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào thị trường Trung Quốc vẫn còn rất khiêm tốn.
Nguyên nhân chủ yếu là do chủng loại hàng hóa của Việt Nam cịn q đơn điệu, chất
lượng thiếu ổn định, nên chưa thực sự thu hút đối với thị trường Trung Quốc.
Ở trong nước, Việt Nam đang phải chịu sức cạnh tranh rất lớn, đặc biệt đối với các
ngành công nghiệp non trẻ, nguyên nhân chủ yếu do các doanh nghiệp Trung Quốc mạnh
hơn doanh nghiệp của Việt Nam, ngay cả với các ngành mà Việt Nam đang có lợi thế
cạnh tranh như dệt may, giày da, cơng nghiệp hàng tiêu dùng,…
Bài tốn đặt ra cho các doanh nghiệp và hệ thống kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
của Việt Nam là phải tối ưu hóa các yếu tố đầu vào trong sản xuất kinh doanh, triệt để
thực hành tiết kiệm, đồng thời phải không ngừng ứng dụng thành tựu khoa học - công
nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá bán trên thị trường, đa dạng hoá mẫu mã,

phát triển dịch vụ thương mại văn minh, triệt để giảm thiểu các mặt hàng kinh doanh cịn
mang tính độc quyền... Có như vậy mới giữ được chữ tín trong kinh doanh và hàng hóa
mới có được chỗ đứng ngay trên thị trường nội địa, có cơ hội vươn lên để cạnh tranh và
xâm nhập được thị trường khu vực, khi được hưởng các ưu đãi về thương mại mà chính
chúng ta khơng tận dụng để phát triển thị trường thương mại.

 Khó khăn trong quản lý biên mậu
Buôn bán biên giới vẫn gặp khó khăn trong việc quản lý, đánh giá, kiểm tra chất
lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, điển hình là hiện tượng buôn lậu vẫn diễn ra nhiều và
ngày càng tinh vi hơn. Khuôn khổ pháp lý cho trao đổi thương mại vẫn còn một số vấn đề
vướng mắc trong việc thực hiện Hiệp định ACFTA như ký kết các văn bản quy định về
kiểm dịch động thực vật, quản lý hàng hóa trao đổi qua biên giới,…
Ngồi ra, với Hiệp định Tự do thương mại ASEAN - Trung Quốc, các mặt hàng xuất
nhập khẩu chính ngạch, đáp ứng các điều kiện ưu đãi, xuất xứ theo quy định sẽ được
hưởng lợi. Song với Việt Nam, mua bán tiểu ngạch với Trung Quốc, không thuộc phạm vi
điều chỉnh của ACFTA, cũng là một vấn đề quan trọng khơng kém, hình thức giao thương
này đã gây ra khơng ít rủi ro cho thương mại Việt Nam. Cụ thể, Trung Quốc thường
25


×