Chương 3
CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG
LÂM THỜI CỘNG HỊA
MIỀN NAM VIỆT NAM
(6-1969 - 4-1975)
3.1. SỰ RA ĐỜI VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CHÍNH PHỦ
CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HỊA MIỀN NAM
VIỆT NAM
Thất bại của quân Mỹ và đồng minh trong hai mùa khô 1965 1966 và 1966 - 1967 đã khẳng định sức mạnh của Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam hồn tồn có thể đánh thắng qn Mỹ xâm
lược. Từ thực tiễn chiến trường, Đảng và Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách
mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam sang thời kỳ mới, thời
kỳ giành thắng lợi quyết định bằng phương pháp tổng tiến công
và nổi dậy, đánh thẳng vào trung tâm đầu não của Hoa Kỳ - chính
quyền Sài Gịn ở các đơ thị trên tồn miền Nam. Thực hiện quyết
tâm chiến lược, đúng vào đêm giao thừa Tết Mậu Thân năm 1968,
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đồng loạt tiến công vào các
cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gịn ở hầu khắp các
thành thị của miền Nam Việt Nam.
331
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) là bước
phát triển cao của phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam
sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời
(1960). Để tổ chức lực lượng nhân dân hỗ trợ cho cuộc tổng tiến
cơng về qn sự đập tan chính quyền Sài Gịn và các tổ chức phản
động khác, xây dựng chính quyền cách mạng, yêu cầu đặt ra là cần
phải thành lập một Mặt trận thứ hai bên cạnh Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam, có tên gọi thích hợp, với một cương lĩnh
rộng rãi hơn Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.
Trong khí thế tiến cơng như sóng dậy của Quân giải phóng,
đêm 30 rạng 31-1-1968, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân
chủ và Hịa bình thành phố Huế được thành lập, ra lời kêu gọi
đồng bào Huế đồn kết kiên trì chiến đấu giành thắng lợi. Tiếp sau
đó, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hịa bình miền
Trung được thành lập và được các tầng lớp nhân dân ủng hộ.
Ngày 7-2-1968, Đài Phát thanh Giải phóng phát đi bản Tun
ngơn cứu nước khẩn cấp của Liên minh. Ngày 8-2-1968 Đoàn Chủ
tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam ra tuyên bố ủng hộ chương trình hành động mà Liên
minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình đã cơng bố:
“Lật đổ chính quyền Sài Gịn, thành lập chính quyền liên hiệp dân
tộc; địi Mỹ và đồng minh Mỹ rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam;
hiệp thương với Mặt trận Giải phóng”1.
Ngày 20 và 21-4-1968, đại diện các nhân sĩ, bác sĩ, nhà giáo,
nhà văn, nhà báo, người tu hành, sinh viên, tư sản dân tộc, sĩ quan
và công chức tiến bộ trong quân đội và chính quyền miền Nam
đã họp Hội nghị thành lập Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân
chủ và Hòa bình Việt Nam tại một địa điểm gần Sài Gịn - Chợ
Lớn. Bản tin của Việt Nam Thống tấn xã cho biết:
1
Phiếu trình phủ Tổng thống VNCH số 497/VP/CCUV ngày 9-2-1968 về trích bản tin
Việt Nam Thơng tấn xã Hà Nội, Mặt trận Giải phóng ngày 9-2-1968, hồ sơ 4770, phông
ĐIICH, TTLTII.
332
“Sau diễn văn khai mạc của luật sư Trịnh Đình Thảo, thay mặt
cho Ủy ban vận động của Liên minh, Hội nghị đã thảo luận sơi nổi và
nhất trí thơng qua tun ngơn cứu nước và chương trình hành động
của Liên minh do Ủy ban vận động soạn thảo với nội dung như sau:
Lập trường: Liên minh ra đời nhằm đoàn kết mọi lực lượng và
cá nhân yêu nước, kiên quyết chống ngoại xâm, đánh đổ tồn bộ chế
độ chính quyền Sài Gịn, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc,
giành độc lập dân tộc, dân chủ, hịa bình.
Chương trình hành động của Liên minh gồm những điểm chính:
Chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hịa bình, giành độc lập và chủ quyền
dân tộc, kiến tạo miền Nam thành một quốc gia độc lập, tự do, hịa
bình, trung lập và thịnh vượng, tiến tới hịa bình thống nhất nước
nhà, lập cơ sở hai miền Nam - Bắc bàn bạc, thương lượng bình đẳng”1.
Hội nghị cũng đã nhất trí bầu ra Ủy ban Trung ương của Liên
minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam gồm:
Chủ tịch: Luật sư Trịnh Đình Thảo
Phó Chủ tịch: Hịa thượng Thích Đơn Hậu, Kỹ sư Lâm Văn Tết
Tổng Thư ký: Giáo sư Tơn Thất Dương Kỵ
Phó Tổng Thư ký: Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa; Nhà văn Thanh
Nghị; sinh viên Lê Hiếu Đằng
Ủy viên thường trực: Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, Chuyên viên cao
cấp Huỳnh Văn Nghị, Giáo sư Trần Triệu Luật.
Trong thời gian họp, Hội nghị cũng đã lần lượt nghe Ban tổ chức
đọc các thư, điện chào mừng Hội nghị của các nơi gửi về, đặc biệt
là điện văn chào mừng hội nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận
Giải phóng”2.
1
2
Phiếu trình phủ Tổng thống VNCH số 4589/VP/CCUV ngày 22-4-1968 và số 4600/VP/
CCUV ngày 24-4-1968 về trích bản tin Việt Nam Thơng tấn xã Hà Nội, Mặt trận Giải
phóng ngày 22-4-1968, ngày 24-04-1968, hồ sơ 4770, phơng ĐIICH, TTLTII.
Phiếu trình phủ Tổng thống VNCH số 4589/VP/CCUV ngày 22-4-1968 và số 4600/VP/
CCUV ngày 24-4-1968 về trích bản tin Việt Nam Thơng tấn xã Hà Nội, Mặt trận Giải
phóng ngày 22-4-1968, ngày 24-04-1968, hồ sơ 4770, phông ĐIICH, TTLTII.
333
Phân tích bản Cương lĩnh của Liên minh các Lực lượng Dân
tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam, tác giả Decornoy với bài viết
“Mặt trận giải phóng và Liên minh tăng cường kêu gọi thành lập
một Chính phủ Liên hiệp” đăng trên báo Le Monde ngày 17-8-1968
đã viết: “Điểm thứ nhất là “Liên minh sẵn sàng thảo luận với Chính
phủ Mỹ về các vấn đề lập lại hịa bình, trở lại các Hiệp định Genève.
Điều này có nghĩa là Liên minh muốn tạo cho mình một chỗ đứng
trong các cuộc thương lượng có thể xảy ra giữa miền Nam và Mỹ. Dù
sao, có một điều chắc chắn đối với Hà Nội, Mặt trận Giải phóng vẫn
là đại diện chân chính của nhân dân miền Nam”.
Điểm thứ hai đáng lưu ý trong Cương lĩnh của Liên minh đó là:
“Chúng tơi sẵn sàng gặp gỡ, thảo luận và phối hợp hành động
với Mặt trận Giải phóng để cùng nhau giành lại độc lập, hịa bình,
bảo đảm cho tồn thể nhân dân Việt Nam một cuộc sống tự do,
sung sướng”. Decornoy cho rằng, Liên minh khơng phải chỉ là một
phong trào có tính chất lâm thời mà sẽ trở thành một đảng phái
trong chính phủ.
Nhưng giả sử Mỹ ngưng các cuộc tấn công miền Bắc, Hà Nội sẽ
đứng ra là người thay mặt cho toàn thể nước Việt Nam, thảo luận
với Mỹ về các điều khoản cơ bản của Hiệp định Genève. Còn về các
vấn đề của miền Nam, Hà Nội sẽ để ông Harriman về với các người
của miền Nam là với Mặt trận Giải phóng và Liên minh. Lúc đó,
Harriman sẽ nói khơng thể thương lượng được nếu khơng có đại
diện của “bọn Thiệu - Kỳ - Hương”. Chính để giải quyết tình thế đó
mà các lực lượng cách mạng có thể sắp tới sẽ gặp nhau, đồn kết với
nhau để thành lập một Chính phủ liên hiệp dân tộc (Mặt trận Giải
phóng thay mặt cho các vùng nơng thơn và các tầng lớp vơ sản thành
thị cịn Liên minh thay mặt cho các tầng lớp khá giả hơn) và sẽ đưa
Chính phủ này ra để làm người đối thoại cần thiết và duy nhất trong
cuộc thương lượng”1.
1
Phiếu trình phủ Tổng thống VNCH số 454/VP/CCUV ngày 24-8-1968 về trích bản tin
Việt Nam Thông tấn xã Hà Nội, Mặt trận Giải phóng ngày 24-8-1968, hồ sơ 4771, phơng
ĐIICH, TTLTII.
334
Ngay sau khi Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa
bình Việt Nam thành lập, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải
phóng đã có điện chào mừng. Điện mừng khẳng định: “Mặt trận
Giải phóng trung thành với chính sách đại đồn kết dân tộc để chống
kẻ thù chung trước sau như một của mình, để tăng cường đoàn kết,
sát cánh với Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình,
để cùng phấn đấu giành lại các quyền dân tộc thiêng liêng trong giai
đoạn hiện nay, cũng như trong giai đoạn xây dựng đất nước sau này”1.
Ngày 14, 15-5-1968, Ban Chấp hành Trung ương Liên minh
các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình đã họp hội nghị để
kiểm điểm cơng tác của Liên minh từ kỳ họp Đại hội, đánh giá
tình hình trước mắt và xây dựng chủ trương sắp tới. Hội nghị ra
lời kêu gọi toàn dân cứu nước: “Liên minh kêu gọi mọi tầng lớp
nhân dân, mọi giới đồng bào, mọi tơn giáo, mọi lực lượng chính trị,
mọi cá nhân yêu nước hãy đoàn kết siết chặt hàng ngũ vững như
tượng đồng giáp sắt, mạnh như hải triều, hay như Phù Đổng gan
thép vươn lên, phải như Quang Trung sấm sét xốc tới, hãy nhất
loạt xếp hàng dưới cờ Cách mạng, vùng lên khởi nghĩa, hãy chiến
đấu bằng mọi cách với mọi vũ khí để lật đổ tập đồn Việt gian
Thiệu - Kỳ, buộc Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, giành lại
chính quyền về tay nhân dân, giành lại độc lập, dân chủ hịa bình
cho đất nước”. Lời kêu gọi kết luận: “Đế quốc Mỹ xâm lược nhất
định bị đánh bại, chính quyền tay sai Thiệu - Kỳ nhất định bị lật
đổ, thắng lợi hoàn toàn chắc chắn sẽ về tay ta”2.
Trong hồn cảnh làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam và
đòi Mỹ rút quân về nước lan rộng khắp nơi trên thế giới, ngày
30-7-1968, Hội nghị đại biểu lần thứ hai Liên minh các Lực lượng
Dân tộc, Dân chủ và Hịa bình được triệu tập.
1
2
Phiếu trình phủ Tổng thống VNCH số 4606/VP/CCUV ngày 25-4-1968 về trích bản tin
Việt Nam Thơng tấn xã Hà Nội, Mặt trận Giải phóng ngày 25-4-1968, hồ sơ 4770, phơng
ĐIICH, TTLTII.
Phiếu trình phủ Tổng thống VNCH số 4748/VP/CCUV ngày 30-5-1968 về trích bản tin
Việt Nam Thơng tấn xã Hà Nội, Mặt trận Giải phóng ngày 30-5-1968, hồ sơ 4770, phơng
ĐIICH, TTLTII.
335
Hội nghị đã tố cáo mạnh mẽ chính sách xâm lược của Hoa Kỳ,
tỏ rõ lập trường ủng hộ chính sách hịa bình của Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam.
Để giải quyết vấn đề chính trị ở miền Nam Việt Nam, hội
nghị xác định:
1. Phần cứu quốc với chủ trương “Đoàn kết mọi lực lượng và
cá nhân yêu nước kiên quyết chống chiến tranh xâm lược, đánh đổ
chế độ bù nhìn tay sai, thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc, dân
chủ và hịa bình”.
2. Phần kiến quốc chủ trương “thành lập một quốc gia độc lập,
tự do dân chủ, hịa bình, trung lập và thịnh vượng để tiến tới thống
nhất đất nước”1.
Mặc cho làn sóng phản đối chiến tranh dâng cao, cuối năm
1968, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục đẩy mạnh leo thang
chiến tranh với quy mô và cường độ cao nhất.
Tháng 7-1968, tại Hội nghị quân sự ở Honolulu, Mỹ tiếp tục
cam kết viện trợ qn sự cho chính quyền Sài Gịn và tăng qn
viễn chinh Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Theo bản công bố nội
dung Hội nghị của Bộ Thơng tin chính quyền Sài Gịn, chính sách
của Mỹ tập trung vào các điểm:
Về quân sự, sau khi Nguyễn Văn Thiệu trình bày “sự tăng gia
của quân số, sự gia hạn tuổi động viên xuống 18 và 19, việc gọi tái
ngũ các cựu quân nhân và sĩ quan trừ bị đã đưa quân lực VNCH
lên tới 765.000. Với việc ban hành luật tổng động viên..., tổng số
quân đội sẽ có thể vượt quá 800.000 người vào cuối năm 1968”.
Tổng thống Johnson cam kết “trang bị vũ khí tối tân cho quân lực
VNCH và viện trợ tài chánh. Súng trường tự động M.16 đã được cấp
cho tất cả các tiểu đồn chính quy bộ binh, nhảy dù, thủy quân lục
1
Bản tin Việt Nam Thông tấn xã Hà Nội, Mặt trận Giải phóng ngày 16-8-1968, hồ sơ 878,
phông ĐIICH, TTLTII.
336
chiến, biệt động quân. Việc cung cấp vũ khí này cho các lực lượng
bán quân sự xuống tới cấp xã ấp, đang được xúc tiến ưu tiên. Việc
gia tăng sản xuất súng M.16 sẽ đưa đến kết quả là tất cả lực lượng
Việt Nam Cộng hịa có thể được trang bị loại vũ khí này trong năm
1968”1. Cụ thể đối với chính quyền Sài Gịn phải “đối phó và đánh
bại mọi hành động quân sự của đối phương; tăng cường và hiện đại
hóa quân lực VNCH; tăng số quân đội đến 800.000 vào cuối năm
1968”. Về phía Mỹ “dự liệu gửi thêm 200.000 vào cuối năm 1968;
duyệt xét chương trình phối hợp đang được áp dụng để trang bị vũ
khí tối tân cho quân lực VNCH, xúc tiến nhanh chóng chương trình
huấn luyện kỹ thuật và viện trợ tài chánh”.
Trên bàn đàm phán, Mỹ vẫn giữ nguyên lập trường:“Tái lập
vĩ tuyến 17 làm lằn mức giữa Bắc và Nam Việt Nam trong khi chờ
đợi sự quyết định về vấn đề thống nhất lãnh thổ; Tơn trọng tồn thể
lãnh thổ VNCH; Tôn trọng nguyên tắc bất can thiệp vào nội bộ của
nhau giữa Bắc và Nam Việt Nam; Rút khỏi miền Nam Việt Nam
tất cả những lực lượng võ trang và gây rối của miền Bắc; Chấm dứt
sự xâm lăng và gây chiến trên tồn cõi Việt Nam; Kiểm sốt quốc
tế hữu hiệu và bảo đảm sự thực thi cùng duy trì những biện pháp
kiểm sốt đó; Khơng có tham vọng ở Việt Nam, khơng hề muốn có
căn cứ hoặc một sự hiện diện liên tục của quân đội Hoa Kỳ ở Việt
Nam, cũng khơng muốn giữ vai trị chính trị nào trong công việc của
người Việt Nam; Khi nào miền Bắc rút quân và chấm dứt xâm lược
thì quân đội Hoa Kỳ sẽ triệt thối; Hoa Kỳ sẽ khơng ủng hộ việc ép
buộc VNCH phải chịu nhận “một Chánh phủ Liên hiệp” nào hay bất
cứ một hình thức Chính phủ nào khác”2.
Với chính sách này, đến cuối năm 1968, tổng số quân viễn chinh
Mỹ tại Nam Việt Nam đạt 535.000 lính và 65.791 lính thuộc qn
1
2
Thơng tư số 111/BTT/NCKH/NHK-KH/CT ngày 26-7-1968 của Bộ Thông tin VNCH về
khai thác các vấn đề liên quan đến cuộc Hội nghị Honolulu, hồ sơ 1588, phông ĐIICH,
TTLTII.
Thông tư số 111/BTT/NCKH/NHK-KH/CT ngày 26-7-1968 của Bộ Thông tin VNCH về
khai thác các vấn đề liên quan đến cuộc Hội nghị Honolulu, hồ sơ 1588, phông ĐIICH,
TTLTII.
337
đội các nước phụ thuộc Mỹ, được biên chế trong 9 sư đoàn, 5 lữ
đoàn quân Mỹ, 2 sư đoàn và 3 trung đoàn quân các nước phụ thuộc.
Tại Sài Gịn, chính quyền Thiệu ra sức bắt lính, đơn qn. Tính
từ ngày Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh tổng động viên (19-6-1968) cho
đến tháng 12-1968, quân số Việt Nam Cộng hòa nâng từ 552.000
(11 sư đoàn, 11 trung đoàn) trong năm 1967 lên 555.000 (12 sư
đoàn, 9 trung đoàn).
Trên chiến trường miền Nam Việt Nam, liên quân Mỹ - Sài
Gòn được huy động đến mức tối đa vào thực hiện kế hoạch “bình
định cấp tốc” ở nhiều vùng nơng thơn rộng lớn. Chỉ trong 2 tháng
(7 và 8 năm 1968), liên quân Mỹ - Sài Gòn đã thực hiện 1.929 cuộc
hành quân cấp tiểu đoàn trở lên, tập trung giải tỏa áp lực tại các
vùng đơ thị và Sài Gịn - Gia Định, ngăn chặn đường chi viện và
cơ sở hậu cần của Quân giải phóng tại các khu vực Tây Nam Thừa
Thiên, Đức Lập, Tây Ninh, Bình Long. Yểm trợ cho hoạt động
hành qn, khơng qn Mỹ - Sài Gịn thực hiện 156.000 phi xuất,
trong đó có 3.433 phi xuất sử dụng máy bay chiến lược B52, cùng
với 6.922 phi vụ (tương đương trên 40.000 phi xuất) oanh tạc miền
Bắc Việt Nam1.
Ngày 24-7-1968, Thường trực Quân ủy Trung ương và Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa triệu tập hội nghị bàn kế hoạch
hoạt động trong Đông - Xuân (1968 - 1969). Trên cơ sở thực tiễn
chiến trường, Hội nghị thống nhất mở đợt 3 Tổng tiến công và nổi
dậy Mậu Thân 1968 với chiến trường trọng điểm là Sài Gịn, Gia
Định và miền Đơng Nam Bộ. Mục tiêu là đánh tiêu diệt, tiêu hao
nặng binh lính, vũ khí, khí tài hiện đại của liên quân Mỹ - Sài Gòn,
làm tiêu tan ý chí xâm lược của kẻ địch, tạo bước chuyển căn bản
cho cách mạng miền Nam.
Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị và Trung ương Cục
miền Nam, lực lượng pháo binh, đặc công, biệt động đã phối hợp
1
Bản tổng kết hoạt động tháng 7 và tháng 8 năm 1968 của Bộ Quốc phịng VNCH, hồ sơ
16104, phơng PTTg, TTLTII.
338
đồng loạt tiến công trên 27 thành phố và thị xã, hơn 100 thị trấn,
quận lỵ, chi khu quân sự, 47 sân bay các loại, 3 tổng kho hàng hóa
quân sự, 6 bộ tư lệnh cấp sư đoàn của Mỹ và Sài Gịn. Đặc biệt, ở
chiến trường miền Đơng Nam Bộ, tổng kết 43 ngày đêm chiến đấu
liên tục của chiến dịch Tây Ninh - Bình Long (từ ngày 17-8 đến 289-1968), Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã loại khỏi vịng
chiến đấu 13 tiểu đồn, 55 đại đội, tiêu hao nặng 7 tiểu đoàn thuộc
các Sư đoàn 1 và 25 bộ binh cơ giới Mỹ, một số đơn vị thuộc lực
lượng tổng trù bị chiến lược quân đội Sài Gịn và nhiều đơn vị biệt
kích, bảo an tại chỗ; loại khỏi vịng chiến đấu 18.406 lính, phá hủy
1.507 xe quân sự, 112 máy bay, 107 khẩu pháo, thu được 24 máy vô
tuyến điện, 282 súng các loại.
Tại Hội nghị Paris, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
tiếp tục khẳng định lập trường và mong muốn phía Mỹ đàm phán
nghiêm túc để mau chóng đi đến giải pháp hịa bình. Ngày 2-91968, nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Phạm Văn Đồng trong bài diễn văn chào mừng đã tỏ rõ thiện chí,
khi phát biểu rằng: “Việc đình chỉ oanh tạc vơ điều kiện sẽ có một
hiệu lực tích cực trong sự tìm kiếm lần lần một giải pháp chính trị
cho vấn đề Việt Nam”1. Phát biểu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
lập tức thu hút được sự quan tâm của dư luận và được đánh giá là
yếu tố quan trọng có thể thúc đẩy tiến trình đàm phán tại Paris. Tại
cuộc họp báo sau phiên họp thứ 20, ngày 4-9-1968, ký giả báo chí
tại Paris đặc biệt chú ý đến cụm từ “hiệu lực tích cực” trong bài phát
biểu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và đã được phát ngơn viên
của phái đồn Việt Nam Dân chủ Cộng hịa tại Paris, ơng Nguyễn
Thành Lê giải thích:“Thủ tướng Phạm Văn Đồng muốn nói rằng
khi Hoa Kỳ đình chỉ vơ điều kiện oanh tạc cũng như các hành động
chiến tranh khác trên toàn lãnh thổ Bắc Việt thì bầu khơng khí sẽ
thuận tiện cho việc mưu tìm một giải pháp hịa bình cho Việt Nam
trên căn bản những quyền lợi quốc gia của nhân dân Việt Nam. Một
1
Bản tin Reuter - VP 6398 ngày 4-9-1968, hồ sơ 879, phông ĐIICH, TTLTII.
339
nền hịa bình như vậy sẽ có lợi cho cả nhân dân Việt Nam và Hoa
Kỳ” 1. Đồng thời, ông cũng một lần nữa xác nhận, ngay sau khi Mỹ
đình chỉ ném bom miền Bắc Việt Nam, hai bên sẽ tiến hành thảo
luận về những vấn đề liên quan2.
Nhưng Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục chính sách theo đuổi chiến
tranh. Trong những tháng cuối năm 1968, Mỹ và chính quyền Sài
Gòn mở hàng loạt chiến dịch quân sự và chiến tranh chính trị
nhằm vào cơ sở hạ tầng cách mạng và đánh lạc hướng dư luận.
Ngày 1-10-1968, Bộ Tư lệnh MACV và JUSPAO Mỹ phát động
chiến dịch chiến tranh tâm lý mệnh danh Nguyễn Trãi. Nội dung
của chiến dịch là thả một số tù binh và tổ chức tuyên truyền với mục
tiêu: “Gây dư luận trong hàng ngũ địch về chính sách của ta. Làm lung
lạc ý chí chiến đấu của địch; Thúc đẩy cán binh địch đầu hàng, hồi
chánh đông đảo; Tạo một tiếng vang trong dư luận quốc tế”3.
Ngày 4-10-1968, Hoa Kỳ và Chính quyền Sài Gịn đẩy mạnh
chiến dịch quân sự mệnh danh Phụng Hoàng trong thời gian từ
ngày 15-10 đến Tết năm 1969.
“Mục tiêu của chiến dịch là gây tổn thất hạ tầng cơ sở VC nói
chung nhưng đặc biệt chú trọng đến cá nhân nằm trong hệ thống
VC với một thứ tự ưu tiên rõ rệt: chính trị cao hơn quân sự. Phương
pháp đề ra là:
Thiết lập một hệ thống chặt chẽ thanh tra và báo cáo để có thể sửa
chữa kịp thời những điểm sai lầm và để hướng dẫn nỗ lực đúng chiều.
Phân loại hạ tầng cơ sở VC theo ưu tiên quan trọng để phân
nhiệm rõ rệt cho từng cấp bám sát và tiêu hao.
1
2
3
Công văn số 14 ngày 11-9-1968 về việc cuộc hòa đàm Mỹ - Bắc Việt tại Paris của Bộ
Ngoại giao VNCH, hồ sơ 879, phông ĐIICH, TTLTII.
Công văn số 14 ngày 11-9-1968 về việc cuộc hòa đàm Mỹ - Bắc Việt tại Paris của Bộ
Ngoại giao VNCH, hồ sơ 879, phông ĐIICH, TTLTII.
Công văn số 3107/QP/HCIV/I/B/TB/M ngày 2-10-1968 của Bộ quốc phòng và cựu chiến
binh VNCH về việc phóng thích tù binh nhân dịp phát động chiến dịch Nguyễn Trãi, hồ
sơ 16223, phông PTTg, TTLTII
340
Ấn định ưu tiên trong vùng mà chiến dịch sẽ đặt hết nỗ lực vào đó:
(1) Vùng xơi đậu (D, E) và có Ủy ban Giải phóng.
(2) Vùng VC (V).
(3) Vùng tương đối an ninh (A, B, C)”1.
Tiếp đó, Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gịn tập trung tối đa tiềm
lực vào các cuộc hành quân giải tỏa áp lực Quân giải phóng. Trong
hai tháng 9 và 10 năm 1968, liên quân Hoa Kỳ - Sài Gòn thực hiện
2.130 cuộc hành quân trên cấp tiểu đoàn, tăng hơn 10% so với hai
tháng 7, 8-1968 và tăng 52% so với hai tháng 3, 4-1968. Đồng thời
tăng cường leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc Việt Nam
bằng không quân với 7.595 phi vụ oanh tạc, tăng 9,7% so với hai
tháng 7 và 8 năm 19682.
Trước nguy cơ chiến tranh lan rộng, ngày 5-9-1968, Tổng Thư
ký Liên Hiệp Quốc U. Thant tuyên bố sẽ hội kiến với các phái
đoàn Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hịa trong chuyến cơng
du Paris sắp tới3. Đến Paris ngày 16-9-1968, không gặp gỡ hai phái
đoàn như dự kiến, nhưng trong tuyên bố về Việt Nam sau cuộc hội
đàm với Ngoại trưởng Pháp Michel Debré, Tổng Thư ký Liên Hiệp
Quốc đã mạnh mẽ khẳng định: biện pháp chủ yếu để đem vấn đề
Việt Nam từ chiến trường đến bàn hội nghị là sự đình chỉ tức khắc
và vô điều kiện các cuộc ném bom Bắc Việt4. Tiếp đó, ngày 23-91968, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, ông U. Thant tuyên bố: “một quyết
nghị yêu cầu Hoa Kỳ ngưng oanh tạc Bắc Việt có thể sẽ được đa số
hội viên Liên Hiệp Quốc tán thành”5.
1
2
3
4
5
Phiếu đệ trình ngày 4-10-1968 về đẩy mạnh chiến dịch Phụng Hồng trong thời gian từ
15-10-1968 đến Tết 1969, hồ sơ 334, phông ĐIICH, TTLTII.
Bản tổng kết hoạt động tháng 9 và 10 năm 1968 của Bộ Quốc phòng VNCH, hồ sơ 16104,
phông PTTg, TTLTII.
Công văn số 14 ngày 11-9-1968 về việc cuộc hòa đàm Mỹ - Bắc Việt tại Paris của Bộ
Ngoại giao VNCH, hồ sơ 879, phông ĐIICH, TTLTII.
Công văn số 16 ngày 18-9-1968 về cuộc hòa đàm Mỹ - Bắc Việt tại Paris của Bộ Ngoại
giao VNCH, hồ sơ 880, phông ĐIICH, TTLTII.
Tài liệu của Nha Âu Phi, Bộ Ngoại giao VNCH về phản ứng của VNCH và Hoa Kỳ
đối với ý kiến của U. Thant về việc ngưng ném bom Bắc Việt, hồ sơ 880, phông ĐIICH,
TTLTII.
341
Nhưng Mỹ vẫn phớt lờ, bỏ qua thiện chí của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và đòi hỏi của dư luận u chuộng hịa bình trên
thế giới, âm mưu kéo dài chiến tranh ở Việt Nam. Đầu năm 1969,
bước vào Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Nixon cho ra đời “học thuyết
Nixon” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đồng thời tăng
cường chiến tranh ở Lào và mở rộng chiến tranh sang Campuchia.
Mục tiêu cơ bản của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của
Nixon là rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam mà vẫn giữ
được chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu. Để đạt được mục
tiêu chiến lược đó, Nixon đã sử dụng tối đa về quân sự của nước
Mỹ kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao rất xảo
quyệt hòng giành lại thế mạnh, cơ lập và bóp nghẹt cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam.
Từ đêm 22 rạng ngày 23-2-1969, quân và dân miền Nam Việt
Nam đồng loạt mở đợt tiến công vào hơn 400 mục tiêu của Mỹ ngụy ở 36 thành phố, thị xã, hơn 100 quận lỵ, thị trấn, 35 sở chỉ
huy, 38 sân bay, 17 khu hậu cần lớn. Đây là địn phủ đầu đối với
tập đồn Nixon vừa lên cầm quyền ở Mỹ. Ở miền Đông Nam Bộ
có một số trận đánh tiêu diệt các cụm tiểu đoàn hoặc nhiều đại đội
địch ở Bến Tranh, Trà Cao, Lộc Ninh, Dầu Tiếng. Đặc biệt các lực
lượng đặc công đánh gần 300 trận, trong đó có 90 trận đánh vào
các sở chỉ huy, sân bay, kho vũ khí của chính quyền Sài Gịn, giết
và làm bị thương 2 vạn quân, trong đó có nhiều sĩ quan và nhân
viên kỹ thuật Mỹ, phá hủy 250 máy bay, 150 khẩu pháo và hàng
trăm triệu lít xăng dầu. Trong 30 ngày đêm chiến đấu kiên cường,
quân và dân miền Nam đã tiêu diệt hàng vạn tên Mỹ, ngụy và chư
hầu, phá hủy hàng nghìn máy bay, xe tăng và pháo lớn, thiêu cháy
hàng chục kho bom đạn, xăng dầu.
Từ ngày 11-5-1969, quân và dân miền Nam tiếp tục tấn công
vào quân đội Sài Gòn trong đợt mùa hè, đánh vào 800 mục tiêu,
trong đó có gần 100 căn cứ, sở chỉ huy, sân bay quân sự, tiêu diệt
và đánh thiệt hại nặng 20 tiểu đoàn.
342
Phối hợp với địn tiến cơng qn sự, đồng bào ở nhiều nơi đã
nổi dậy diệt ác, phá kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ. Phong
trào đấu tranh của nhân dân địi dân sinh dân chủ diễn ra sơi nổi,
gây thêm khó khăn cho ngụy quyền Sài Gịn.
Trước những chuyển biến của tình hình thế giới và trong
nước, lúc này, ở miền Nam Việt Nam, vấn đề thành lập một chính
quyền cách mạng ở Trung ương với hình thức là một Chính phủ
trở thành yêu cầu cấp bách cả về đối nội và đối ngoại. Đặc biệt,
cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris địi hỏi có một Chính
phủ cách mạng đại diện cho nhân dân miền Nam nhằm nâng cao
hơn nữa vị trí, địa vị pháp lý của chính quyền cách mạng miền
Nam Việt Nam tại hội nghị và trên trường quốc tế. Trên thực tế,
ở miền Nam, tính cho tới năm 1969, vùng giải phóng đã được mở
rộng, có hệ thống chính quyền cấp cơ sở tương đối đều khắp, có
lực lượng vũ trang mạnh, có lực lượng chính trị hùng hậu thống
nhất rộng rãi, tất cả đã là điều kiện cần thiết cho việc thành lập
một chính quyền trung ương.
Việc Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh
các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam thống nhất
thành lập Chính phủ Lâm thời ở miền Nam cũng được báo chí
nước ngồi dự báo trước:“Ngay từ năm 1966, Mặt trận Giải phóng
miền Nam Việt Nam đã tính đến việc thành lập một Chính phủ lâm
thời làm đại diện thương thuyết với Hoa Kỳ. Ý định này chưa được
chính thức cơng bố, nhưng tháng 3 năm 1966, chính quyền Sài Gịn
đã “thâu lượm” được tin này. Tin tức này lần đầu tiên được chính
quyền Sài Gịn đề cập đến trong một công văn của Bộ Ngoại giao gửi
Phủ Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương: “theo nguồn tin mà
Tòa Tổng Lãnh sự Việt Nam tại New-Delhi thâu lượm được thì Mặt
trận Giải phóng miền Nam dự định lập một Chính phủ lâm thời để
buộc Mỹ phải thương thuyết với họ chứ khơng điều đình thẳng với
Bắc Việt. Đây chỉ là nguồn tin chưa được xác nhận, xong theo sự
nhận xét của thiểm Bộ, có lẽ cho tới nay Mặt trận Giải phóng miền
343
Nam chưa thực hiện được ý định lập một Chính phủ là vì họ chưa
chiếm hẳn được một vùng đất nào”1.
Tờ Sài Gòn - Tokyo ngày 6-9-1968 viết: “Vừa qua, Mặt trận
Giải phóng đang mở rộng quyền hành và ảnh hưởng của họ ở những
vùng nông thôn.
Theo buổi phát thanh của Đài Giải phóng, các tổ chức chính
quyền cách mạng đã được thành lập ở tất cả 44 tỉnh ở miền Nam
Việt Nam.
Những tài liệu mà quân Mỹ bắt được của Mặt trận Giải phóng
cho thấy rằng, mục tiêu cuối cùng của việc Mặt trận Giải phóng tăng
cường xây dựng các cơ cấu chính quyền mới ở địa phương là để thiết
lập một Chính phủ mới Liên hiệp Trung ương.
Mặt trận Giải phóng và Chính phủ Bắc Việt cũng như Liên minh
các Lực lượng Dân tộc Dân chủ Hịa bình Việt Nam đã chuẩn bị
thương lượng với Mỹ về việc thành lập một chính quyền liên hiệp.
Tuy nhiên, có tin Mặt trận Giải phóng đang chuẩn bị một Chính
phủ lâm thời của riêng họ trong tình hình việc thương lượng thất bại.
Do đó, các nguồn tin Mỹ rất lo trước hoạt động hiện nay của
Mặt trận Giải phóng mặc dù họ cho rằng Mặt trận Giải phóng khơng
thành cơng lắm trong cố gắng thiết lập một cơ cấu chính quyền mới”2.
Nhưng, mãi cho đến ngày 25-5-1969, trước những yêu cầu cấp
thiết của cách mạng, Hội nghị Hiệp thương giữa Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân
tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam để bàn về việc thành lập Chính
phủ Cách mạng lâm thời mới được triệu tập.
Đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam dự Hội nghị Hiệp thương gồm có:
1
2
Cơng văn số 220/VP/TM ngày 8-3-1966 của Bộ Ngoại giao, hồ sơ 20924, phông PTTg,
TTLTII.
Phiếu trình Phủ Tổng thống VNCH số 4635/VP/CCUV ngày 24-8-1968 về trích bản tin
Việt Nam Thơng tấn xã Hà Nội, Mặt trận Giải phóng ngày 9-9-1968, hồ sơ 4771, phơng
ĐIICH, TTLTII.
344
Trưởng đoàn: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Mặt trận
Đoàn viên: Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát - Phó Chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận kiêm Tổng Thư ký đoàn viên
Ung Ngọc Kỳ - Ủy viên Ban Thư ký đoàn viên
Hồ Thu - Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn viên.
Giáo sư Lê Văn Thả - Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận
đoàn viên.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Thưởng - Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt
trận đoàn viên.
Đoàn đại biểu Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân
tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam có:
Trưởng đồn: Luật sư Trịnh Đình Thảo - Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Liên minh;
Đồn viên: Kỹ sư Lâm Văn Tết - Phó Chủ tịch Liên minh;
Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ - Tổng Thư ký
Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa - Phó Tổng Thư ký
Nhà văn Thanh Nghị - Phó Tổng Thư ký
Lê Hiếu Đằng - Phó Tổng Thư ký
Giáo sư Lê Văn Giáp - Chủ tịch Ủy ban Liên minh các Lực lượng
Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Sài Gịn - Chợ Lớn - Gia Định
Trương Như Tảng - Phó Chủ tịch Ủy ban Liên minh các Lực
lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Sài Gịn - Chợ Lớn - Gia Định1.
1
Tin về Hội nghị Hiệp thương giữa hai đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam bàn
về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời,
Bản kiểm thính tin Đài Giải phóng ngày 10-6-1969 lúc 19 giờ của Phủ Đặc ủy Trung ương
tình báo VNCH, hồ sơ 655, phơng ĐIICH, TTLTII.
345
Tại hội nghị, hai đồn đại biểu đã nhất trí đánh giá sự phát triển
của tình hình và thắng lợi hết sức to lớn và toàn diện của sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam. Hai đồn
đại biểu đã nhất trí về thời cơ thuận lợi và sự cần thiết thành lập
Chính phủ Cách mạng lâm thời thể theo nguyện vọng bức thiết
của các tầng lớp nhân dân miền Nam Việt Nam và để đáp ứng nhu
cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
miền Nam đến thắng lợi hoàn toàn.
Hội nghị Hiệp thương đã quyết định triệu tập Đại hội đại biểu
quốc dân bao gồm đại biểu hết sức rộng rãi của các chính đảng
cách mạng, các đồn thể u nước, các tôn giáo, các dân tộc và
các tầng lớp nhân dân, các địa phương, các nhân sĩ, trí thức… để
tổng kết tình hình đấu tranh thắng lợi của nhân dân ta về mọi mặt,
quyết định đường lối, nhiệm vụ của nhân dân ta để giành thắng lợi
hoàn toàn và cử ra Chính phủ Cách mạng lâm thời. Hội nghị đã
quyết định lập một Ban trù bị đại hội để chuẩn bị Đại hội.
Ban trù bị Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam gồm:
“Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Ung Ngọc Kỳ - Đại biểu Ủy
ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, Tơn Thất Dương Kỵ - Đại biểu
Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và
Hịa bình Việt Nam.
Để giúp việc Ban Trù bị Đại hội có Ban tổ chức Đại hội, gồm:
Lê Anh Tuấn, Ung Ngọc Kỳ, Tô Lâm - Đại biểu Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam;
Lê Hiếu Đằng, Thanh Nghị, Vân Trang - Đại biểu Liên minh các
Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam”1.
1
Tin về Hội nghị Hiệp thương giữa hai đồn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam bàn
về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời,
Bản kiểm thính tin Đài Giải phóng ngày 10-6-1969 lúc 19 giờ của Phủ Đặc ủy Trung ương
tình báo VNCH, hồ sơ 655, phơng ĐIICH, TTLTII.
346
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Hiệp thương, trong các
ngày 6 đến ngày 8-6-1969 Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam
Việt Nam giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,
Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam
ở miền Nam cùng các lực lượng yêu nước khác đã họp tại một
địa điểm thuộc tỉnh Tây Ninh. Đại hội nhận định tình hình cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam và cử ra
Chính phủ Cách mạng lâm thời và Hội đồng Cố vấn Chính phủ.
Về thành phần tham dự Đại hội gồm có:
“88 đại biểu và 72 khách mời là các chiến sĩ cách mạng lão
thành; các anh hùng, các chiến sĩ thi đua đã lập chiến công trên
các địa phương; các cán bộ và chiến sĩ hăng say cơng tác trong các
ngành chính trị, qn sự, kinh tế, báo chí, văn học nghệ thuật; các
đại biểu dân tộc… họ là những người tiêu biểu cho các chính Đảng,
các dân tộc, các tơn giáo và các đồn thể, các tầng lớp nhân dân, các
lực lượng vũ trang giải phóng, đồn thanh niên xung phong từ Sài
Gịn, Chợ Lớn, Gia Định, miền Đông Nam Bộ, Huế, Đà Nẵng, Tây
Nguyên, Thừa Thiên, miền Trung Trung Bộ, miền Đông Nam Bộ,
miền Tây Nam Bộ, Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ…
Đại biểu cao tuổi nhất là cụ Lâm Văn Tết, 76 tuổi và đại biểu
trẻ tuổi nhất là đoàn viên thanh niên xung phong Trương Thị Loan,
19 tuổi.
Tất cả đoàn đại biểu, các vị khách đã họp thành một đội ngũ
thống nhất trong khơng khí đồn kết chiến đấu vì tiền đồ và tương
lai tươi sáng của dân tộc, thể hiện truyền thống bất khuất, quyết
đánh thắng ngoại xâm của Hội nghị Diên Hồng, của Đại hội Tân
Trào lịch sử, tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của 14 triệu nhân
dân miền Nam anh hùng”1.
1
Tin về Hội nghị Hiệp thương giữa hai đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam bàn
về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời,
Bản kiểm thính tin Đài Giải phóng ngày 10-6-1969 lúc 19 giờ của Phủ Đặc ủy Trung ương
tình báo VNCH, hồ sơ 655, phông ĐIICH, TTLTII.
347
Đồn Chủ tịch Đại hội gồm có:
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam - Chủ tịch.
Luật sư Trịnh Đình Thảo - Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên
minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam.
Ơng Nguyễn Ngọc Linh - Đại diện Đảng Nhân dân Cách mạng
Việt Nam.
Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát - Tổng Bí thư Đảng Dân chủ,
Phó Chủ tịch đoàn kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Bác sĩ Phùng Văn Cung - Phó Chủ tịch đồn Ủy ban Trung
ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ơng Ibih Aléo - Chủ tịch Ủy ban Phong trào dân tộc tự trị Tây
Ngun - Phó Chủ tịch đồn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Kỹ sư Lâm Văn Tết - Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên
minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam.
Hịa thượng Thích Thiện Hào - Đại biểu những người Phật
giáo yêu nước, Ủy viên đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Định - Phó Chỉ huy các lực lượng vũ trang Giải
phóng miền Nam Việt Nam.
Ông Nguyễn Hữu Thống - Chủ tịch Hội Nhân dân giải phóng,
Ủy viên đồn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam.
Ơng Lê Khắc Nghi - Đại diện Liên hiệp Cơng đồn Giải phóng
miền Nam Việt Nam.
Giáo sư Nguyễn Văn Kiết - Ủy viên thường trực Ủy ban Trung
ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt
Nam.
348
Giáo sư Nguyễn Văn Chì - Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách
mạng Đơ thành Sài Gịn - Chợ Lớn.
Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương
Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam.
Giáo sư Lê Văn Giáp - Chủ tịch Ủy ban Liên minh các Lực
lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam khu vực Sài Gòn
- Chợ Lớn - Gia Định.
Bà Nguyễn Thị Được - Thường trực Ban Chấp hành Trung
ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ơng Lê Quang Thành - Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh
niên Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu - Tổng Thư ký Đảng Xã hội cấp tiến,
Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam.
Thiếu tá Huỳnh Thanh Mừng - Phó Ban Củng cố hịa bình
chung sống đạo Cao Đài Tây Ninh, Ủy viên Ủy ban Trung ương
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ông Lucien Phạm Ngọc Hùng - Đại diện những người Công
giáo yêu nước miền Nam Việt Nam, Ủy viên thường trực Ủy ban
Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam
khu Sài Gịn, Chợ Lớn, Gia Định.
Ơng Tạ Quang Tỷ - Anh hùng các Lực lượng Vũ trang Nhân
dân Giải phóng.
Ơng Nguyễn Đăng Trừng - Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gịn.
Ơng Huỳnh Tương - Đại biểu đồng bào dân tộc Khmer, Ủy
viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam.
(Sư thúc Huỳnh Văn Trí - Đại diện Phật giáo Hòa Hảo cũng
được cử vào Chủ tịch đoàn Đại hội đại biểu quốc dân nhưng đang
bận việc ở xa chưa kịp về Đại hội).
349
Đồn Thư ký của Đại hội gồm có:
Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa - Phó Tổng Thư ký Ủy ban Liên
minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam.
Ơng Lê Hiếu Đằng - Phó Tổng Thư ký Ủy ban Liên minh các
Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam.
Ơng Ung Ngọc Kỳ - Ủy viên Ban Thư ký Ủy ban Trung ương
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ơng Hồ Xn Sơn - Ủy viên Ban Thư ký Ủy ban Trung ương
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Sau phần nghi thức khai mạc, Luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ
tịch Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân
chủ và Hịa bình Việt Nam thay mặt Ban trù bị Đại hội đọc diễn
văn khai mạc. Luật sư báo cáo sự nhất trí của Hội nghị Hiệp thương
giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam và Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân
tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam triệu tập Đại hội đại biểu quốc
dân trước đòi hỏi cấp bách của tình hình và nguyện vọng tha thiết
của các tầng lớp nhân dân để bàn bạc những vấn đề trọng yếu về
kháng chiến và xây dựng đất nước. Luật sư nêu lên nhiệm vụ hàng
đầu của Đại hội và nhìn lại một cách khái quát và biểu dương sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước của quân và dân miền Nam trong 15
năm qua, nhất là từ Tết Mậu Thân đến nay; đề ra phương hướng và
nhiệm vụ cách mạng trước mắt của quân, dân miền Nam. Luật sư
nhấn mạnh: “Trên cơ sở ấy, Đại hội đại biểu quốc dân của chúng ta
sẽ xếp việc thành lập “Chính phủ Cách mạng lâm thời”, một cơ quan
quyền lực tập trung có đầy đủ tín nhiệm bao gồm những người tiêu
biểu nhất của các tầng lớp nhân dân, tôn giáo, dân tộc, có đầy đủ
đức, tài để động viên những nỗ lực lớn nhất của quân và dân miền
Nam ta, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân
dân của mọi lực lượng, mọi cá nhân yêu nước, u hịa bình và dân
chủ ở các thành thị, nơng thôn, đồng bằng và rừng núi, tăng cường
350
hơn nữa khí thế mãnh liệt của cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước
trong thời mới”1.
Luật sư Trịnh Đình Thảo kết luận: “Tôi tin tưởng sâu sắc rằng
Đại hội đại biểu quốc dân chúng ta sẽ tận tâm tận lực, phấn khởi
làm việc với tính tích cực khẩn trương, với khí thế liên tục tấn cơng,
liên tục nổi dậy, đáp ứng một cách đầy đủ nhất sự mong đợi tha
thiết và những tiếng thét đầy phẫn nộ của toàn quân, toàn dân ta:
“Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam”; “Đả đảo Thiệu - Kỳ Hương”; giành chính quyền về tay nhân dân, thực hiện một miền
Nam độc lập, dân chủ, hịa bình, trung lập tiến tới hịa bình thống
nhất nước nhà”2.
Sau đó, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Đại hội, Chủ tịch
đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam thay mặt Ban trù bị Đại hội đọc bản “Báo cáo
chính trị”.
Nội dung bản “Báo cáo chính trị” gồm hai phần lớn: phần
thứ nhất đề cập đến việc nhân dân ta đã giành được những
thắng lợi hết sức to lớn và toàn diện trong cuộc kháng chiến vĩ
đại chống Mỹ cứu nước; phần thứ hai: nêu quyết tâm thừa thắng
tiến lên đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đến
toàn thắng.
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã khái quát quá trình phát triển của
nhân dân miền Nam Việt Nam từ cuộc Đồng khởi năm 1959 - 1960
dẫn đến sự thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam cho đến cuộc Tổng tấn công và nổi dậy từ Xuân Mậu Thân
1968 đến nay. Báo cáo vạch rõ: “Thắng lợi đầu Xuân Mậu Thân
1
2
Tường thuật về Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam họp từ ngày 6 đến ngày
8-6-1969 để thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời, Bản kiểm thính tin Đài Giải
phóng ngày 10-6-1969 lúc 19 giờ của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo VNCH, hồ sơ 655,
phông ĐIICH, TTLTII.
Tường thuật về Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam họp từ ngày 6 đến ngày
8-6-1969 để thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời, Bản kiểm thính tin Đài Giải
phóng ngày 10-6-1969 lúc 19 giờ của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo VNCH, hồ sơ 655,
phơng ĐIICH, TTLTII.
351
đã đưa cuộc chiến đấu của nhân dân ta chuyển sang một giai đoạn
mới, giai đoạn Tổng tiến công và nổi dậy, giai đoạn cao nhất của
cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta, giai đoạn mà nội dung
cơ bản là ta phát triển chiến lược tiến cơng tồn diện đến đỉnh cao
nhất, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, tiến lên giành lấy
thắng lợi hoàn toàn. Cịn kẻ địch thì phải chuyển hẳn vào chiến lược
phịng ngự, đi từ thất bại này đến thất bại khác và cuối cùng phải
chịu thất bại hoàn toàn”.
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ vạch tiếp: “Giữa cao trào tiến công
và nổi dậy của quân và dân ta, một sự kiện chính trị quan trọng đã
xảy ra, đó là sự ra đời và hoạt động của “Liên minh các Lực lượng
Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam” từ tháng 4-1968. Đó là liên
minh những lực lượng yêu nước ở các thành thị miền Nam bao gồm
những thành phố rất rộng rãi, tiêu biểu cho các xu hướng chính trị,
các tơn giáo, các tổ chức đứng ra gánh vác trách nhiệm vẻ vang trong
giai đoạn chiến đấu quyết liệt của toàn dân ta để tiến lên giành lấy
thắng lợi cuối cùng. Sự ra đời và hoạt động của “Liên minh các Lực
lượng Dân tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam” đánh dấu tình thế
bị cơ lập cao độ của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai, đánh dấu sự
phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước của các tầng lớp rộng
rãi ở các đô thị miền Nam, đánh dấu một thành cơng rực rỡ của
chính sách đại đồn kết trong thời kỳ mới, thời kỳ oanh liệt nhất của
cuộc chiến đấu vĩ đại của chúng ta”.
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ nhấn mạnh: “Thắng lợi to lớn của
quân và dân ta đã dẫn đến sự hình thành những vùng giải phóng
rộng lớn từ bờ Nam sơng Bến Hải đến tận mũi Cà Mau, tạo ra một
thế đứng mạnh mẽ cho quân, dân ta đánh địch khắp mọi nơi. Trong
những vùng giải phóng đó, chính quyền cách mạng, một chính quyền
thật sự đại diện cho những quyền lợi và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân ta đã ra đời, các mặt cơng tác sản xuất, văn hóa, giáo
dục, thơng tin, y tế khơng ngừng phát triển. Nền móng của một chế
độ độc lập, tự do, thật sự dân chủ được xây dựng”.
352
Báo cáo vạch trần âm mưu và hành động kéo dài và mở rộng
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ Thiệu - Kỳ - Hương,
vạch trần thái độ ngoan cố của chúng, không chịu giải quyết vấn
đề miền Nam Việt Nam theo giải pháp toàn bộ 10 điểm của “Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”.
Qua đó, báo cáo nêu lên nhiệm vụ chính trị trọng đại trước
mắt của toàn quân và toàn dân ta hiện nay là: “Ra sức phát huy
những thắng lợi hết sức to lớn và toàn diện đã giành được, thừa
thắng tiến lên, đẩy mạnh tiến cơng tồn diện, liên tục đánh mạnh,
đánh trúng, đánh đau hơn nữa, nổi dậy đều khắp, giành cho kỳ
được những thắng lợi mới to lớn gấp bội, đánh bại ý chí xâm lược
của đế quốc Mỹ, đánh đổ ngụy quyền Thiệu - Kỳ - Hương, tiến lên
giành lấy thắng lợi hoàn toàn, thực hiện mục tiêu của chúng ta là
độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hịa bình thống nhất
Tổ quốc”.
Báo cáo tiếp tục: “để đáp ứng yêu cầu lớn lao của cuộc chiến
đấu, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, để có cơ quan điều hành
tồn bộ cơng việc nội bộ và ngoại giao của chúng ta trong giai đoạn
lịch sử vinh quang này, sau khi có hiệp thương và hồn tồn nhất trí
giữa “Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam” và “Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc
Dân chủ và Hịa bình Việt Nam”, chúng tơi đề nghị Đại hội đại biểu
quốc dân xét và quyết định việc thành lập Chính phủ Cách mạng
lâm thời để đồn kết tồn dân, động viên toàn dân, toàn quân ta
tiến lên đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ
ngụy quyền tay sai, giành lấy thắng lợi hoàn toàn, thực hiện một
miền Nam Việt Nam hịa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, tiến tới
hịa bình, thống nhất Tổ quốc. Chính phủ Cách mạng lâm thời đó sẽ
là Chính phủ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc.
Chính phủ thực hành dân chủ đối với nhân dân, kiên quyết chống
đế quốc Mỹ xâm lược và bọn tay sai phản động bán nước. Chính phủ
353
đó sẽ là Chính phủ tiêu biểu cho khối đại đồn kết của tồn dân ta
và thực hiện chính sách đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các
lực lượng chính trị, các dân tộc, các tơn giáo và tất cả mọi người Việt
Nam yêu nước”1.
Trong ba ngày 6, 7 và 8-6-1969, Đại hội đã lần lượt nghe tham
luận của Hịa thượng Thích Thiện Hào - Đại diện những người
Phật giáo yêu nước; Thiếu tá Huỳnh Thanh Mừng - Phó Ban
Củng cố hịa bình chung sống đạo Cao Đài Tây Ninh; Ông Ibih
Aléo - Chủ tịch Ủy ban Phong trào dân tộc tự trị Tây Nguyên;
Ông Lucien Phạm Ngọc Hùng - Đại diện những người Cơng giáo
u nước; Ơng Cửu Long - Đại diện Liên hiệp Cơng đồn Giải
phóng miền Nam Việt Nam; Ơng Nguyễn Văn Tiêu - Phó Chủ
tịch Hội Nhân dân Giải phóng miền Nam Việt Nam; Ông Mã
Quý - Đại biểu Ban Vận động Hội Liên hiệp Hòa kiều; Bà Nguyễn
Thị Được - Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương “Hội
Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam”; Ơng Trang
Minh Tánh - Ủy viên thường trực “Hội Liên hiệp Thanh niên Giải
phóng miền Nam Việt Nam”; Ông Nguyễn Đăng Trừng - Chủ
tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn; Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa - đại
biểu trí thức; Trung úy Nguyễn Cơng Minh - Đại diện sĩ quan
và binh sĩ yêu nước; Bà Nguyễn Thị Định - Phó Chỉ huy các lực
lượng vũ trang Giải phóng miền Nam Việt Nam; Ơng Ung Ngọc
Kỳ - Phó Tổng Bí thư Đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam; Ông
Nguyễn Văn Hiếu - Tổng Thư ký Đảng Xã hội cấp tiến miền Nam
Việt Nam; Ông Nguyễn Văn Linh - Đại diện Đảng Nhân dân
Cách mạng Việt Nam… Tất cả các bản tham luận đều nhất trí
với bản “Báo cáo chính trị”, lên án tội ác của đế quốc Mỹ và bè
lũ Thiệu - Kỳ - Hương mở rộng và kéo dài chiến tranh xâm lược,
ủng hộ giải pháp toàn bộ 10 điểm của “Mặt trận Dân tộc Giải
1
Tường thuật về Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam họp từ ngày 6 đến ngày
8-6-1969 để thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời, Bản kiểm thính tin Đài Giải
phóng ngày 10-6-1969 lúc 19 giờ của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo VNCH, hồ sơ 655,
phông ĐIICH, TTLTII.
354
phóng miền Nam Việt Nam”, nói lên nguyện vọng tha thiết của
các tầng lớp nhân dân miền Nam và sự cấp bách phải thành lập
Chính phủ Cách mạng lâm thời để tăng cường và mở rộng hơn
nữa thế đoàn kết toàn dân tộc, lãnh đạo và đẩy mạnh cuộc chiến
đấu chống Mỹ cứu nước của quân và dân miền Nam đến thắng
lợi hồn tồn. Các đại biểu đều nói lên quyết tâm động viên các
tầng lớp nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng,
ra sức thực hiện các chủ trương, chính sách của Chính phủ Cách
mạng lâm thời.
Sau ba ngày làm việc, Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị
quyết cơ bản của Đại hội do Bác sĩ Phùng Văn Cung thay mặt
Chủ tịch đồn trình bày về việc thành lập chế độ Cộng hòa miền
Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa miền
Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn bên cạnh chính phủ. Luật
sư Nguyễn Hữu Thọ thay mặt Ban trù bị Đại hội giới thiệu danh
sách đại biểu được đề cử vào Ban Chấp hành Chính phủ Cách
mạng lâm thời.
Theo đó, cơ cấu tổ chức của Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hịa miền Nam Việt Nam gồm có: 1 Chủ tịch, Phó chủ tịch,
8 Bộ và Văn phịng Chủ tịch Chính phủ, cụ thể:
- Bộ Quốc phịng
- Bộ Ngoại giao
- Bộ Nội vụ
- Bộ Kinh tế - Tài chính
- Bộ Thơng tin và Văn hóa
- Bộ Giáo dục và Thanh niên
- Bộ Y tế, Xã hội và Thương binh
- Bộ Tư pháp
- Văn phịng Chủ tịch Chính phủ
355