Chương 5:
Các đặc tính chức năng cơ
bản của RIP
- Sử dụng thuật toán định tuyến véc tơ khoảng cách.
- Sử dụng tham số host-count
- Các router broadcast toàn b
ộ cơ sở dữ liệu định tuyến 30s
một lầ.
- Đường kính mạng cực đại mà RIP hỗ trợ là 15hop.
- Nó không h
ỗ trợ VLSM (variable length subnet mask).
RIP nói chung là đơn giản trong cấu h
ình, chạy trên rất nhiều
mạng cỡ trung bình và nhỏ, vì vậy nó được xác định là một giao
thức định tuyến trong miền (interior). RIP 2 khắc phục một số
nhược điểm của
RIP 1 và nó hoạt động tương tự như RIP 1 và hỗ
trợ VLSM. Để cung cấp cho các nhà quản lý mạng, những người
cần quản lý không gian địa chỉ IPv4 một cách mềm dẻo hơn, thì
OSPF được sử dụng thay thế. RIP được thiết kế như một giao thức
broadcast, nhưng nó có
thể gửi các bản tin đến các node non-
broadcast . Kh
ả năng này có thể rất hữu ích khi kết nối đến một
router khác trên tuyến điểm-điểm (ví dụ từ router của ISP đến router
của khách hàng). Có thể không cho phép sử dụng RIP trên các giao
di
ện xác định. Để làm được như vậy thì các nhà quản lý mạng phải
ngăn chặn các bản tin RIP được tạo ra tr
ên các giao này.
U* Các bản tin RIP
RIP chạy trên UDP do đó các bản tin của nó được đóng gói
trong UDP datagram và nó chạy trên cổng số 520 (well-known
port). Hình 2.7 d
ưới đây đưa ra định dạng các bản tin RIP
Hình 2.7: Định dạng bản tin RIP
Trong đó:
- Command có thể chứa giá trị từ 1 đến 6 nhưng có 2 giá trị
phổ biến là 1 xác định bản tin yêu cầu và 2 xác định bản tin trả lời.
- Version có giá trị 1 hoặc 2 tương ứng RIP 1 và RIP 2
- Address family với cả 2 phiên bản được mã hoá là 2 cho
các địa chỉ IP.
- Metric ở đây chính là hop-count
Các trường thông báo có thể được lặp 25 lần do đó hạn chế
độ d
ài cực đại của bản tin RIP là nhỏ hơn 512 byte.
Đối với RIP 2 các trường dự trữ trong bản tin RIP 1 được mã
hoá như sau:
- Routing domain xác định ‘routing deamon’được kết hợp
với bản tin này. Trong UNIX đây là trường ‘process ID’. Bằng
cách sử dụng miền định tuyến, một máy có thể chạy nhiều RIP
đồng thời.
- Route tag: Nếu RIP được sử dụng để hỗ trợ EGP thì trường
này chứa một số AS.
- Subnet mask được kết hợp với địa chỉ IP trong bản tin.
- Next-hop address chứa địa chỉ IP của nơi mà datagram nên
được gửi đến, nếu nố bằng 0 th
ì datagram nên được gửi đến nơi
gửi bản tin RIP này.
RIP 2 h
ỗ trợ nhận thực trong khi RIP 1 thì không. Mỗi gói
RIP được nhận thực tại phía thu n
ên giao diện được cấu hình để hỗ
trợ nhận thực. Thông thường, nhận thực MD5 được thực hiện mặc
dù các router có thể có lựa chọn khác. Gói RIP 2 để nhận thực
cũng có định dạng tương tự như trong hình 2.8:
Hình 2.8: Gói RIP 2 cho nhận thực
Trường ‘address family’được lập là 0xffff đối với gói nhận
thực. Trường ‘authentication type’ được lập là 2 đối với thủ tục
nhận thực plain-text và 3 đối với thủ tục MD5. Các byte
’authentication infor’ chứa ID như một số khoá, nó có thể là nhiều
số. Người sử dụng nhiều số cho phép phía thu sắp xếp thành chuỗi
các khoá và do đó sử dụng các khoá khác nhau cho các lần khác
nhau. Các byte này cũng chứa các trường xác định thời gian sống
của khoá hay các khóa. Mỗi xác định khoá trong gói được kết hợp
với một khoá được lưu trữ, xác định khoá và các giá trị được kết
hợp với bản tin xác định thuật toán nhận thực và khoá nhận thực
MD5 đặc biệt được sử dụng cho hoạt động nhận thực. RIP 1 và
RIP 2 có th
ể hoạt động một mình hoặc kết hợp với nhau.
U* Các vấn đề về hội tụ và một số giải pháp khắc phục
Cập nhật RIP hầu như đơn giản nhưng nó gây ra một số vấn
đề. Nó có khả năng gửi lưu lượn
g qua một đường không hiệu quả
hay có thể cập nhật định tuyến mất quá nhiều thời gian để đạt được
hội tụ khi miền định tuyến không ổn định và chuyển lưu lượng
không hiệu quả, có thể không chính xác. Do đó có thể gây ra loop
hay sự cố đếm vô hạn. phần lớn các thực hiện RIP đều thực hiện
các giải pháp để khắc phục sự cố đếm vô hạn. Một thay đổi quyết
định l
à loại bỏ định thời 30s và khi một router có một cập nhật
định tuyến nó sẽ gửi đi ngay lập tức. Với giải pháp n
ày các cập
nhật trung gian không giải quyết được vấn đề, nhưng nó tăng tốc
độ đạt được hội tụ. Một số giải pháp khác được đưa ra dưới đây.
1. Trượt ngang (split horizon): Với giải pháp này ý tưởng
của nó là không cho phép router gửi thông báo qua giao diện mà
nó v
ừa đến. Nó là trong hầu hết các tình huống nhưng không hoàn
toàn vì nếu mạng vật lý có cấu hình bị loop thì sự cố đếm vô hạn
vẫn tồn tại.
2. Trượt ngang với đảo ngược poison: Đây là một biến thể
của trượt ngang, nó gửi thông báo tới giao diện nó vừa đến với
metric bằng 16.
3. Holddown được tăng cường cho giao thức véc tơ khoảng
cách khi một tuyến được thông báo là ‘unreachable’ thì router thông
báo sẽ từ chối cập nhật trong một khoảng thời gian sau khi tuyến
được thông báo. Nó làm tăng thời gian hội tụ nhưng tránh được loop.
RIP không sử dụng holddown nhưng các giao thức vectơ khoảng
cách khác như IGRP (
Intergateway Routing Protocol) của Cisco thì
có s
ử dụng. Với IGRP, khi router biết một mạng bị down hoặc một
mạng có khoảng cách lớn hơn so với thông báo thì tuyến đến mạng
đó được đặt trong holddown. Trong thời gian n
ày, tuyến có thể được
thông báo những thông báo đầu vào về tuyến này từ bất kỳ router
nào khác router đ
ã thông báo trước đó đều bị huỷ bỏ.
Người ta có thể không muốn sử dụng trượt ngang tr
ên các
link n
ối tiếp (non-broadcast ) như X25, frame relay, ATM. Các
router có thể được cấu hình để không cho phép trượt ngang.
* Điều chỉnh định thời:
Phần lớn các router high-end có được thể cấu hình để biến
đổi tần số cập nhật định tuyến RIP v
à các tham số khác. Cisco
chạy một loạt các đồng hồ định thời (timer) cho các hoạt động định
tuyến theo yêu cầu ODR (on deman routing) đối với RIP. Các
tham số cấu hình RIP sau là khả dụng đối với nhà quản lý mạng.
1. Update: là khoảng thời gian giữa các lần cập nhật và nó có
giá tr
ị mặc định là 30s.
2. Invalid: khoảng thời gian để sau đó một tuyến không hợp
lệ, nó là khoảng thời gian nên bằng 3 lần giá trị update. Nó có
nghĩa là một tuyến sẽ là không hợp lệ nếu nó không được cập nhật.
Tuyến không thể truy nhập mạng sau đó sẽ vào holddown. Nó có