Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh tại các trường phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh kon tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 127 trang )




5
CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
CÁC TRƢỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ
1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Đạo đức xuất hiện từ buổi bình minh của lịch sử lồi người. Nó được
phát triển song hành cùng với xã hội, đồng thời giúp xã hội loài người tiến
triển cao hơn. Đạo đức được nảy sinh từ nhu cầu xã hội nhằm thống nhất lợi
ích chung của tồn xã hội với lợi ích riêng của mỗi cá nhân, nhằm đảm bảo
trật tự xã hội, thúc đẩy cá nhân, xã hội cùng đi lên và được củng cố bằng sức
mạnh của tập quán, của dư luận xã hội, của lương tâm mỗi con người, hướng
con người tới cái chân, thiện, mỹ, chống lại cái giả dối, cái xấu, cái ác... Ở bất
kỳ thời đại lịch sử nào, đạo đức con người đều được đánh giá theo khuôn
phép chuẩn mực, qui tắc đạo đức nhất định phải phù hợp với quan niệm, quan
điểm chung và điều kiện phát triển của xã hội đó. Cùng với sự phát triển của
sản xuất, của các mối quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức
đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó ngày càng phát triển, ngày càng nâng
cao, phong phú, đa dạng và phức tạp hơn.
Trong thời kỳ CNH-HĐH, các giá trị đạo đức truyền thống và hiện đại
vẫn giữ một vai trò quan trọng. Nền kinh tế-xã hội của đất nước ngày càng
phát triển, quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng, xu thế tồn cầu hóa đang
diễn ra trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, cùng với
những thay đổi tích cực của đất nước, chúng ta cũng đang phải đối mặt với
những thách thức của thời đại, đó là một bộ phận thanh niên có hiện tượng
suy thối về đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng. Nhiều
tệ nạn xã hội đang len lỏi vào nhà trường, làm cho một bộ phận học sinh thoái




6
hóa, chậm tiến, khó giáo dục, thậm chí hư hỏng, vi phạm pháp luật. Vấn đề
đặt ra làm sao vừa phát triển kinh tế xã hội vừa giữ vững, phát huy được
những giá trị nhân văn cao đẹp trong mỗi con người.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng công tác GDĐH. Người
coi đạo đức cách mạng ở mỗi con người là kết quả của sự rèn luyện trong
thực tế, trong đấu tranh một cách bền bỉ, thường xuyên. Người khẳng định:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố, cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong” [13]. Người căn dặn Đảng ta phải chăm lo
GDĐĐ cách mạng cho đoàn viên, thanh niên, học sinh, rèn luyện họ thành
những người vừa “hồng”, vừa “chuyên” để sau này kế thừa xứng đáng sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thời gian qua, vấn đề đạo đức và GDĐĐ cho học sinh đã được nhiều
nhà khoa học, nhà giáo dục đặc biệt quan tâm. Nhiều cơng trình nghiên cứu
có nhiều đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này, như của các tác giả Phạm
Minh Hạc, Đặng Vũ Hoạt, Thái Duy Tuyên, Hà Thế Ngữ, Phạm Hoàng Gia,
Phạm Khắc Chương, Vũ Trọng Dung, Đặng Quốc Bảo, Hà Nhật Thăng,
Nguyễn Hữu Công….
Bằng những tiếp cận khác nhau, cơng trình của các nhà khoa học đã tạo
nên sự phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu, trao đổi về nhiều
vấn đề của phạm trù đạo đức phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội.
Tác giả Phạm Minh Hạc và các cộng sự đã nghiên cứu về sự phát triển
toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ CNH-HĐH. Các tác giả đã dành
một chương bàn về vấn đề đạo đức, GDĐĐ và các giải pháp nâng cao hiệu
quả GDĐĐ trong giai đoạn hiện nay [12].
Tác giả Hà Thế Ngữ đã đề cập đến vấn đề tổ chức quá trình GDĐĐ
thông qua giảng dạy các môn khoa học, đặc biệt là các môn khoa học xã hội



7
và nhân văn, bàn về giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức
đạo đức cách mạng, hướng dẫn các hành vi đạo đức cho học sinh [26].
Trong cơng trình nghiên cứu của mình, tác giả Hà Nhật Thăng đã dành
sự quan tâm đặc biệt bàn về đạo đức và GDĐĐ cho học sinh, sinh viên nói
riêng và cho con người ở mọi lứa tuổi nói chung. Tác giả đã đề cập đến những
vấn đề chung như phương pháp luận của giáo dục đạo đức, xây dựng các
chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam trong thời kỳ CNH - HĐH, các
giải pháp nâng cao hiệu quả GDĐĐ trong giai đoạn hiện nay [30].
Quan điểm giáo dục toàn diện - một vấn đề quan trọng trong tư tưởng
giáo dục, đào tạo, phát triển con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh được tác
giả Nguyễn Hữu Cơng phân tích một cách sâu sắc, đó là giáo dục đào tạo con
người Việt Nam thành những con người có lý tưởng cách mạng vững vàng,
đạo đức trong sáng, có kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật và kỹ năng lao
động cao, có sức khoẻ, có ý trí vươn tới cái hay, cái đẹp, cái cao cả; đó là
những người vừa có đức vừa có tài [8].
Một số tác giả đã biên soạn các cuốn giáo trình về GDĐĐ cho học sinh,
sinh viên, đó là “Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin” của tác giả Vũ Trọng
Dung [10]; “Giáo dục đạo đức trong nhà trường” của các tác giả Hà Thế Ngữ,
Đặng Vũ Hoạt (1988) [24]; “Giáo trình đạo đức học” của các tác giả Phạm
Khắc Chương, Hà Nhật Thăng (2001) [9]
Đạo đức và GDĐĐ luôn là vấn đề trọng đại của mọi xã hội. Chủ nghĩa
Mác - Lênin cho rằng, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc từ
lao động sản xuất và đời sống cộng đồng, nó phản ánh và chịu sự chi phối của
tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo.
Như vậy đạo đức là một phạm trù mang tính vĩnh hằng, đồng thời mang
những đặc điểm của giai cấp, của dân tộc và có sự thay đổi chuẩn mực trong
từng giai đoạn lịch sử. Việc nghiên cứu vấn đề đạo đức dưới góc độ quản lý



8
trong một phạm vi giới hạn, trong từng giai đoạn cụ thể đã và sẽ tiếp tục thu
hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, nhà QLGD.
Ở Phương Đông thời cổ đại, Khổng Tử(551- 479 TCN), nhà hiền triết
Trung Hoa cổ(551- 479 TCN) đã đưa ra học thuyết “Nhân-Lễ-Chính danh”.
Trong đó, “Nhân” (Lịng thương người) là yếu tố hạt nhân, là đạo đức cơ bản
nhất của con người. Đứng trên lập trường coi trọng giáo dục đạo đức, ông cha
ta đã đưa ra câu nói nổi tiếng “Tiên học lễ, hậu học văn”, cho đến ngày nay
lời dạy này vẫn còn nguyên giá trị đối với giáo dục nước ta và nhiều nền giáo
dục trên thế giới [4].
Ở Phương Tây, Aristote(384-322 TCN) nhà bác học Hy Lạp thời thượng
cổ đã yêu cầu: Trước tiên học đạo đức rồi sau đó học tri thức. Khơng có đạo
đức, tri thức sẽ khó thành đạt. Xixêrơ thì nói: Triết lý về đạo đức là sự chuẩn
bị tư duy để tiếp nhận hạt giống trí tuệ [20]. Thời Hy Lạp-La Mã cổ đại, nhà
triết học Socrate(469-399 TCN) cho rằng cái gốc của đạo đức là tính thiện.
Bản tính con người vốn thiện, nếu tính thiện ấy được lan tỏa thì con người sẽ
có hạnh phúc. Muốn xác định được chuẩn mục đạo đức, theo Socrate, con
người phải tự ý thức, phải bằng nhận thức lý tính với phương pháp khoa học
nhận thức [4].
Trong những năm gần đây, có nhiều đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
QLGD bàn về các biện pháp quản lý GDĐĐ, như:
“Các biện pháp quản lý công tác GDĐĐ của Hiệu trưởng trường THPT
tỉnh Hưng Yên” (Đỗ Quang Hợp, 2007);
“Biện pháp quản lý công tác GDĐĐ cho học sinh, sinh viên Trường Cao
đẳng Lương thực - Thực phẩm Đà Nẵng (Phạm Thị Phương, 2011).
“Biện pháp quản lý công tác GDĐĐ cho học sinh THPT huyện Duyên
Hải tỉnh Trà Vinh (Nguyễn Văn Bổ, 2013).
Trên cơ sở khảo cứu nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề GDĐĐ các



9
tác giả đã hệ thống hóa lý luận về GDĐĐ, quản lý GDĐĐ, đưa ra hệ thống
các biện pháp quản lý GDĐĐ cho học sinh, sinh viên, đề xuất nhiều biện pháp
nâng cao hiệu quả công tác GDĐĐ cho học sinh, sinh viên ở những địa
phương cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về quản
lý công tác GDĐĐ cho học sinh các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Kon
Tum. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý
nghĩa thực tiễn trong việc góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho
học sinh ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú ở địa phương.
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH
1.2.1. Đạo đức
Có nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức. Theo từ điển tiếng Việt, đạo
đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định
hành vi, quan hệ giữa người với người và đối với xã hội.
Dưới góc độ Triết học: “Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất
của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực điều tiết
hành vi của con người trong quan hệ với người khác và cộng đồng. Căn cứ
vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi con người
bằng các quan niệm về thiện ác, chính nghĩa, phi nghĩa, nghĩa vụ, danh dự”.
Dưới góc độ Đạo đức học: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt, bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội”.
Dưới góc độ Giáo dục học: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là
hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ giữa con
người với con người” [18].
Theo Đạo đức học Mác - Lênin, đạo đức bao gồm ba yếu tố cơ bản là:
Tri thức - Ý thức đạo đức, Tình cảm-Niềm tin đạo đức, Hành vi đạo đức và
Quan hệ đạo đức. Tuy nhiên cũng có tác giả cho rằng, đạo đức do các yếu tố



10
hợp thành là: Ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức, quan hệ đạo đức [22].
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là “Nhân-Nghĩa-Chí-DũngLiêm” đó là đạo đức cách mạng, đạo đức vì lợi ích chung của dân tộc, của loài
người. Theo Bác: Đạo đức là sự thống nhất tư tưởng và phong cách sống. Đạo
đức hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những
nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng
chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và
tồn xã hội.
Như vậy, có thể khái quát như sau: Đạo đức là một hiện tượng xã hội, là
hình thái ý thức xã hội đặc biệt phản ánh các mối quan hệ trong xã hội loài
người. Đạo đức được nảy sinh từ nhu cầu xã hội nhằm thống nhất lợi ích
chung của tồn xã hội với lợi ích riêng của mỗi cá nhân nhằm đảm bảo trật tự
xã hội, thúc đẩy cá nhân và xã hội cùng đi lên… Xã hội đề ra những yêu cầu,
chuẩn mực, giá trị được mọi người công nhận và được củng cố bằng sức
mạnh tập quán, của dư luận xã hội, của lương tâm mỗi con người.
Trong quá trình hình thành và phát triển, dưới tác động qua lại lẫn nhau
giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, giữa con người với
tự nhiên, những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực giá trị đạo đức-xã hội
chuyển hoá thành những phẩm chất đạo đức của cá nhân, làm cho cá nhân đó
trưởng thành về mặt đạo đức, hình thành nhân cách đáp ứng với yêu cầu phát
triển của xã hội. Trong nhà trường, đạo đức học sinh chịu sự chi phối chung
của các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội, ngồi ra cịn chịu sự điều
chỉnh của các quy chế, nội quy và các nhiệm vụ của người học sinh trong quá
trình học tập và rèn luyện.
1.2.2. Giáo dục
Giáo dục(nghĩa hẹp) bao gồm các quá trình hoạt động nhằm tạo ra thế
giới quan khoa học, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực của



11
con người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá trình này được xem là
một bộ phận của q trình giáo dục tổng thể, kết quả khơng chỉ được xem xét
về ý thức mà còn căn cứ vào các hành vi, thói quen biểu hiện mức độ phát
triển (cao hay thấp) về trình độ “có giáo dục” của mỗi người.
Giáo dục(nghĩa rộng) là sự hình thành có mục đích, có tổ chức những
sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ
mặt đạo đức, thị hiếu thẩm mỹ và trang bị tri thức cho con người; với hàm
nghĩa rộng nhất, khái niệm này bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả
những yếu tố tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp
ứng các yêu cầu của kinh tế xã hội.
1.2.3. Giáo dục đạo đức
“GDĐĐ là quá trình tác động tới học sinh để hình thành cho họ một ý
thức, tình cảm và một niềm tin đạo đức, đích cuối cùng quan trọng nhất của
GDĐĐ là tạo lập những thói quen hành vi đạo đức ” [28].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc rèn luyện, giáo
dục thế hệ trẻ. Người dạy: “Bây giờ phải học, học để yêu tổ quốc, yêu nhân
dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức”. Trong nhiệm vụ giáo dục toàn
diện của ngành, việc GDĐĐ cho học sinh là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu ở
nhà trường các cấp.
Tác giả Hà Nhật Thăng và Phạm Khắc Chương cho rằng: “GDĐĐ là sự
tác động có mục đích, có tổ chức từ nhiều phía, bằng những hình thức khác
nhau nhằm hình thành cho con người có hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo
đức của xã hội[32].
GDĐĐ về bản chất là một mặt của quá trình giáo dục nhằm tác động tới
người học để hình thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức, đích
cuối cùng quan trọng nhất của GDĐĐ là tạo lập được những thói quen, hành
vi đạo đức [16].



12
GDĐĐ có mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục tư tưởng chính trị. Đó là cơ
sở để hình thành thế giới quan Mác-Lênin và định hướng chính trị theo quan
điểm và đường lối của Đảng trong ý thức và hành động đạo đức.
GDĐĐ cịn gắn bó chặt chẽ với giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp luật
giúp cho người học nắm được chuẩn mực của pháp luật, các quyền lợi và
nghĩa vụ của người công dân Việt Nam. Luật pháp bản thân nó cũng đã bao
hàm những yếu tố đạo đức. Thực hiện pháp luật một cách tự giác là góp phần
đảm bảo cuộc sống bình n của xã hội, đó chính là thể hiện những phẩm chất
đạo đức chân chính.
Như vậy, GDĐĐ là một nhiệm vụ bao trùm và xun suốt tồn bộ hoạt
động của gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành và phát triển nhân
cách. GDĐĐ phải trở thành mối quan tâm chung của toàn xã hội, là vấn đề
của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục - đào tạo và phát triển con người
cùng sự phát triển của xã hội.
1.2.4. Quản lý
Mọi hoạt động của xã hội đều cần tới quản lý. Quản lý vừa là khoa học,
vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã hội cả ở tầm vĩ mơ
lẫn vi mơ. Đó là những hoạt động cần thiết phải thực hiện khi những con
người kết hợp với nhau trong một nhóm, một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu
xác định.
Các Mác đã chỉ rõ: “Bất cứ một lao động xã hội hay lao động chung nào
mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để
điều hịa các hoạt động cá nhân...” [6].
Khái niệm “quản lý” được quan niệm khác nhau dựa trên cơ sở những
cách tiếp cận khác nhau. Dưới đây, xin nêu một vài quan điểm có tính chất
khái qt.
Theo nhà kinh tế Mỹ FW.Taylor: “Quản lý là biết chính xác điều muốn



13
người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hồn thành cơng việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất”; “Quản lý là thiết kế và duy trì một mơi trường mà trong đó
các cá nhân làm việc với nhau trong nhóm có thể hồn thành các nhiệm vụ và
mục tiêu đã định” [14].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học quản lý và
QLGD cũng đưa ra các khái niệm về “quản lý” như sau:
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý(người quản lý, tổ chức quản lý) lên
khách thể quản lý (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội,
kinh tế,… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các
phương pháp và các giải pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho
sự phát triển của đối tượng” [12].
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc nêu: “Hoạt động quản
lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý)
đến khách thể quản lý(người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ
chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [7].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là
khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [28].
Tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt quan niệm: “QL là một quá trình
định hướng, quá trình có mục tiêu; quản lý có hệ thống là quá trình tác động
đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này
đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người QL mong muốn” [25].
Từ các định nghĩa trên có thể đưa ra khái niệm: Quản lý là sự tác động
có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực, tận dụng các thời cơ của tổ chức để đạt mục
tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động.



14
Có thể khái quát các yếu tố(điều kiện) của “quản lý” như sau:
- Phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và ít
nhất một đối tượng quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý và các
khách thể có quan hệ gián tiếp với chủ thể quản lý. Tác động có thể chỉ là một
lần, mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.
- Phải có một mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng quản lý
và chủ thể quản lý. Mục tiêu này là căn cứ để chủ thể quản lý đưa ra các tác
động quản lý.
- Chủ thể phải thực hiện việc tác động và phải biết tác động, biết điều
khiển đối tượng một cách có hiệu quả để đạt được mục tiêu mong đợi.
1.2.5. Quản lý giáo dục
Theo nghĩa tổng quan, QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp các lực
lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát
triển của xã hội.
QLGD được hiểu là hệ thống tác động có định hướng (có ý thức, có mục
tiêu, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý nhằm thực hiện có chất lượng, hiệu quả mục tiêu giáo dục.
Trong thực tế, QLGD là quá trình tác động có kế hoạch, có tổ chức, có
sự phối hợp, điều hành của các lực lượng xã hội, của các cơ quan QLGD
nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã
hội. Ngày nay với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo
dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người, tuy nhiên trọng tâm
vẫn là giáo dục thế hệ trẻ. QLGD được hiểu là sự điều hành hoạt động giáo
dục của hệ thống giáo dục quốc dân, các nhà trường trong hệ thống giáo dục
quốc dân” [1].
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu khái qt: QLGD là sự tác động
có mục đích, có ý thức của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đưa



15
hoạt động của hệ thống giáo dục, nhà trường đạt đến kết quả, mục tiêu mong
đợi. Và chính các mục tiêu QLGD quy định bản chất, nội dung của hoạt động
giáo dục.
1.2.6. Quản lý giáo dục đạo đức
Quản lý GDĐĐ là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể
quản lý thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những
tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và
đạo đức, gúp hình thành nhân cách con người phù hợp với yêu cầu xã hội.
Quản lý công tác GDĐĐ trong trường học phải thường xuyên được rà
soát, kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng. Nội dung quan
trọng của quản lý GDĐĐ trong nhà trường là phải nghiên cứu lựa chọn và
quyết định các nội dung GDĐĐ để đạt được mục đích quản lý, lựa chọn các
phương pháp, hình thức giáo dục thích hợp, đồng thời sắp xếp, bố trí cán bộ,
giáo viên và các lực lượng giáo dục hợp lý, khoa học để đạt được hiệu quả
cao trong hoạt động GDĐĐ cho học sinh.
Hiệu trưởng cần chú trọng quản lý cả mục tiêu, nội dung, hình thức,
phương pháp GDĐĐ, huy động đồng bộ lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ GDĐĐ, đồng thời phát huy được tính tích
cực, tự giác của học sinh. Có thể nói, quản lý GDĐĐ cho học sinh trong nhà
trường là q trình tác động có định hướng của hiệu trưởng tới các tổ chức, cá
nhân tham gia vào hoạt động GDĐĐ nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu
GDĐĐ đề ra.
1.3. TRƢỜNG PTDTNT TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
1.3.1. Vị trí của trƣờng PTDTNT trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trường PTDTNT nằm trong hệ thống các trường phổ thơng cơng lập của
cả nước. Trường ở vị trí mũi nhọn trong sự nghiệp giáo dục miền núi, vùng
dân tộc. Trường được coi là nơi tạo nguồn đào tạo cán bộ dân tộc, một trung
tâm văn hóa, khoa học, kỹ thuật ở địa phương [30].



16
Trường PTDTNT có vai trị quan trọng trong sự nghiệp phát triển KTXH và củng cố an ninh, quốc phòng ở miền núi, vùng DTTS của các địa
phương. Thông báo kết luận số 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị
về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát
triển GD&ĐT đến năm 2020 đã khẳng định chủ trương: “Nhà nước tập trung
đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đơng đồng bào DTTS, từng bước
giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền.... Tiếp tục
phát triển hệ thống trường nội trú, bán trú, thực hiện tốt các chính sách ưu
tiên, hỗ trợ cho học sinh DTTS”.
1.3.2. Mục tiêu, tính chất, nhiệm vụ của trƣờng PTDTNT
a. Mục tiêu
Theo Điều 2 Quy chế Tổ chức và hoạt động của trường PTDTNT, mục
tiêu đào tạo của trường PTDTNT là chuẩn bị cho HS sau khi học hết cấp, ra
trường có thể thích ứng nhanh chóng với sự phát triển KT- XH ở địa phương,
cụ thể:
HS phải được trang bị kiến thức để có hiểu biết về Tổ quốc, về cộng
đồng các DTTS ở Việt Nam, về nghĩa vụ, quyền lợi công dân, về tinh thần
làm chủ và nếp sống văn minh, về nền văn hóa vật chất, văn hóa, tinh thần
của các DTTS, về những cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước đang tiến
hành ở miền núi, vùng dân tộc. HS phải được chuẩn bị để đạt được chuẩn kiến
thức các môn học ở các lớp như HS các trường phổ thông trong cả nước. HS
phải được rèn luyện thông qua các hoạt động trong và ngoài trường, để sau
khi ra trường có thể tham gia tổ chức và điều khiển các hoạt động cải tạo và
xây dựng xã hội trong cộng đồng các dân tộc tại địa phương.
b. Tính chất
Trường PTDTNT là trường phổ thông dành cho thanh, thiếu niên các
DTTS, bản thân và gia đình thường trú ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hẻo



17
lánh, hải đảo... HS học tập ở các trường PTDTNT được Nhà nước đảm bảo
các điều kiện cần thiết để ăn học, được nhà trường tổ chức nuôi dạy và sống
nội trú ở trường trong quá trình học tập. Trường PTDTNT là loại trường
chuyên biệt-“phổ thông, dân tộc”, đặc điểm nội bật của trường là “dân tộc” và
“nội trú”.
c. Nhiệm vụ của trường PTDTNT
Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ chung được quy định trong điều lệ
trường phổ thông, trường PTDTNT còn thực hiện các nhiệm vụ như:
- Thực hiện tuyển sinh đúng đối tượng theo chỉ tiêu, kế hoạch được giao
hàng năm;
- Giáo dục HS về truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, bản sắc văn hóa của các DTTS và đường lối, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước;
- Tổ chức nuôi dưỡng HS theo đúng các chế độ chính sách của Nhà
nước, chăm lo tổ chức tốt đời sống nội trú cho HS cả về vật chất và tinh thần;
- Giáo dục lao động và hướng nghiệp, giúp HS định hướng nghề phù hợp
với khả năng của bản thân và yêu cầu phát triển KT-XH của địa phương, giáo
dục HS ý thức phục vụ quê hương sau khi tốt nghiệp ra trường;
Có kế hoạch theo dõi số HS đã tốt nghiệp nhằm đề ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả giáo dục, xây dựng mối quan hệ tốt với các cấp, các ngành, các
cộng đồng dân tộc nơi có HS theo học ở trường, để tạo ra mơi trường giáo dục
tốt.
Ngồi những nhiệm vụ nêu trên, trường PTDTNT cịn có nhiệm vụ: GD
HS, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, xây dựng nếp sống văn minh [5].
1.4. CÔNG TÁC GDĐĐ CHO HỌC SINH TRƢỜNG PTDTNT
1.4.1. Đặc điểm tâm lý học sinh trƣờng PTDTNT
Học sinh tại các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Kon Tum hầu hết là



18
con em đồng bào dân tộc Xê Đăng, Ba Na, Gia rai, Giẻ Triêng, Brâu và Rơ
Mâm, các em có đặc điểm nổi bật là nhiệt tình, vơ tư, trong sáng, có kỹ năng
trong hoạt động sống ở mơi trường miền núi. Các em được sống trong một
không gian với bản sắc văn hóa truyền thống rất rõ nét như phong tục uống
rượu cần, văn hóa cồng chiêng, có nhiều lễ hội như lễ hội đâm trâu, lễ mừng
lúa mới, lễ ăn than, lễ tạ ơn.... Những phong tục, tập quán này tạo cho các em
một số kỹ năng trong sinh hoạt cộng đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh các yếu tố mang bản sắc văn hóa đẹp và có tính
truyền thống thì vẫn cịn tồn tại một số phong tục, luật tục cổ hủ lạc hậu, mê
tín dị đoan như phong tục cúng ma khi đau ốm, tảo hôn… Các em còn thiếu
một số kỹ năng để hội nhập với xã hội phát triển trong việc ăn, ở, sinh hoạt,
giao tiếp... Ở độ tuổi này, định hướng chính trị của các em còn mờ nhạt, niềm
tin chưa vững chắc, ý thức tổ chức, kỷ luật, trách nhiệm công dân chưa cao.
Bước vào trường, các em chưa quen với cuộc sống tập thể, môi trường thành
phố, đôi khi mặc cảm, mơ hồ với q khứ, có xu hướng thực dụng, đua địi,
chạy theo thị hiếu tầm thường, dễ bị sa đà, bị cuốn hút vào những việc làm,
biểu hiện tiêu cực, không phù hợp với đạo đức xã hội.
Những đặc điểm nêu trên cho thấy có những thuận lợi và khó khăn trong
việc tổ chức hoạt động GDĐĐ cho học sinh các trường PTDTNT. Để thực
hiện hiệu quả hoạt động GDĐĐ cho học sinh, các lực lượng giáo dục cần
quan tâm nghiên cứu, đề xuất các biện pháp phù hợp với đặc điểm tâm lý học
sinh trong các trường PTDTNT.
1.4.2. Mục tiêu GDĐĐ cho học sinh trƣờng PTDTNT
Theo điều 27 Luật Giáo dục 2005: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và



19
trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [29].
Việc rèn luyện đạo đức cho học sinh ở các trường PTDTNT là một bộ
phận của quá trình giáo dục tổng thể, nhằm hình thành và phát triển nhân cách
tồn diện cho học sinh. Muốn rèn luyện đạo đức cho học sinh, cần hình thành
ở các em ý thức, tình cảm và hành vi thực tiễn. Cả ba mặt thống nhất với nhau
và cần được củng cố vững chắc qua hoạt động thực tiễn của cá nhân một cách
tích cực, tự giác như một thói quen. Hình thành hành vi, thói quen đạo đức
ln mang tính tích cực xã hội.
Như vậy, các mục tiêu cơ bản sau cần được quan tâm:
- Giáo dục ý thức đạo đức: Giúp học sinh có những tri thức cơ bản về
các phẩm chất, các chuẩn mực đạo đức, giúp các em hình thành niềm tin đạo
đức.
- Giáo dục tình cảm đạo đức: Khơi dậy ở học sinh những rung động,
những xúc cảm với hiện thực xung quanh, biết yêu biết ghét và có thái độ
đúng đắn đối với hiện tượng phức tạp trong đời sống xã hội và tập thể.
- Giáo dục hành vi và thói quen đạo đức: Tổ chức cho học sinh thực hiện
nhiều lần những hành vi đạo đức trong học tập, sinh hoạt và trong cuộc sống
nhằm tạo thành thói quen đạo đức bền vững. Rèn luyện cho học sinh tự giác
thực hiện những chuẩn mực đạo đức xã hội, có thói quen chấp hành những
quy định của pháp luật, nỗ lực học tập, rèn luyện, sẵn sàng cống hiến sức lực,
trí tuệ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục cho học sinh
lòng yêu nước gắn với tinh thần quốc tế trong sáng, lòng yêu lao động, quý
trọng phẩm giá con người, những giá trị văn hoá nhân loại, đồng thời phát
huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như đoàn kết, thân ái, cần cù, giản
dị, dũng cảm, kiên cường và những phẩm chất cao quý khác.
Mục tiêu GDĐĐ cho học sinh không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ khái



20
niệm, mà phải biết biến những yêu cầu chuẩn mực xã hội thành nhu cầu trong
đời sống của mỗi học sinh. Giúp học sinh ý thức đó là những việc làm và có
những hành động cụ thể, thiết thực phù hợp với đạo đức, nếp sống văn minh
của thời đại. Q trình này khơng chỉ dừng lại ở bài giảng của thầy, mà cịn
phải được thể hiện thơng qua các hoạt động đa dạng, phong phú ở trong và
ngoài nhà trường.
1.4.3. Nội dung GDĐĐ cho học sinh trƣờng PTDTNT
a. Giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức
Tăng cường giáo dục thế giới quan khoa học, giáo dục tư tưởng cách
mạng XHCN cho học sinh; giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước và sự gắn
bó với quê hương, đất nước Việt Nam XHCN.
Hình thành ở HS - những cơng dân tương lai của đất nước - niềm tin và
lịng kính yêu đối với Đảng, Lãnh tụ, với những người có cơng lao đóng góp
cho đất nước và nhân dân; giáo dục ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ công dân
trong cuộc sống, học tập, lao động và hoạt động chính trị xã hội; giáo dục kỷ
luật và pháp luật, lòng yêu thương con người và hành vi ứng xử có văn hóa.
Giáo dục cho các em lịng u nước gắn liền với tinh thần quốc tế trong
sáng, tinh thần hữu nghị giữa các dân tộc, tinh thần đoàn kết, hợp tác quốc tế,
có thái độ và hành động đúng trước các hành vi, hành động đi ngược lại sự
tiến bộ của xã hội, nhân dân, nhân loại.
b. Giáo dục đạo đức trong mối quan hệ với bản thân
Giáo dục cho học sinh lòng tự trọng, tự tin, tự lập, lối sống giản dị, trong
sáng, tính trung thực, kỉ luật, thói quen siêng năng, biết kiềm chế, biết hối
hận, biết yêu bản thân, yêu đời, tôn trọng các giá trị văn hoá của dân tộc và
nhân loại.
c. Giáo đạo đức trong các mối quan hệ với tập thể
Giáo dục lòng nhân nghĩa, yêu thương con người, vị tha, hợp tác, tôn



21
trọng mọi người, tôn trọng và bảo vệ lẽ phải; có trách nhiệm với bản thân và
tập thể, biết tơn trọng lợi ích và ý kiến tập thể.
Giáo dục tinh thần tập thể XHCH: “mình vì mọi người”, đặt lợi ích cộng
đồng lên trên lợi ích cá nhân, tôn trọng các nguyên tắc và chuẩn mực do tập
thể đề ra; có tinh thần đồn kết, hợp tác giúp đỡ nhau trong khi thực hiện cơng
việc chung; có ý thức xây dựng tập thể, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ; hăng
hái tham gia các hoạt động tập thể có ích cho xã hội; biết ứng xử hài hoà mối
quan hệ giữa lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân.
d. Giáo dục thái độ đúng đắn đối với lao động, với mơi trường sống
Giáo dục cho học sinh có quan niệm đúng về lao động, thấy rõ giá trị, ý
nghĩa to lớn của lao động; tin vào sức sáng tạo của con người và những thành
quả to lớn mà lao động đem lại; tin vào khả năng học tập và lao động của bản
thân; có thái độ kính trọng và ln biết bảo vệ người lao động; yêu lao động,
chăm chỉ học tập, say mê sáng tạo; có tổ chức, có kỉ luật và đạt năng suất cao
trong lao động.
Giáo dục, hình thành thái độ lên án, đấu tranh chống lại sự lười
biếng, gian dối, bóc lột sức lao động, phá hoại tài sản; có ý thức sử dụng
tiết kiệm và bảo vệ của cải của cá nhân, của tập thể.
Đối với mơi trường văn hố: Giáo dục học sinh ý thức tơn trọng và bảo
vệ các giá trị văn hố của nhân loại, của dân tộc; gắn bó và tơn trọng nền nếp
sinh hoạt có văn hố của cộng đồng nơi cư trú; tích cực tham gia cải tạo và
xây dựng mơi trường văn hố lành mạnh, văn minh; đồn kết với cộng đồng,
dân tộc và nhân loại vì hồ bình, cơng bằng và tiến bộ xã hội.
Đối với mơi trường tự nhiên: Giáo dục thái độ, hành vi ứng xử đúng đắn
với mơi trường xung quanh, giữ gìn, bảo vệ tài ngun mơi trường và góp
phần cải tạo mơi trường sống vì sự phát triển bền vững của con người, của
cuộc sống.



22
Như vậy, nội dung GDĐĐ cho học sinh là giáo dục những phẩm chất
của con người Việt Nam mới, giáo dục lịng u thương con người, tình u
q hương đất nước, trân trọng truyền thống văn hố dân tộc, tơn trọng các
giá trị sống, tơn trọng lẽ phải, có tinh thần phản kháng đấu tranh chống cái
xấu, cái ác; giáo dục cho các em hành vi, thói quen, lối sống phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội, hình thành ở bản thân mỗi học sinh nhu cầu, động
cơ, tình cảm đạo đức phù hợp với nền đạo đức xã hội; giúp các em rèn luyện
ý chí, có hành vi, thói quen đạo đức, ứng xử phù hợp với chuẩn mực chung
của xã hội.
1.4.4. Phƣơng pháp GDĐĐ cho học sinh trƣờng PTDTNT
Phương pháp giáo dục là một trong những thành tố quan trọng của q
trình GDĐĐ.
Có 3 nhóm phương pháp GDDĐ cơ bản sau:
Nhóm phương pháp hình thành ý thức cá nhân
- Phương pháp đàm thoại: Sử dụng những đề tài có nội dung chính trị, tư
tưởng đạo đức đa dạng và phong phú để học sinh có cơ hội trao đổi ý kiến,
quan điểm, qua đó giúp học sinh có sự nhìn nhận và đánh giá đúng đắn các sự
kiện, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội.
- Phương pháp nêu gương: Dựa vào những hình mẫu cụ thể, sinh động,
gần gũi, ấn tượng để giáo dục, giúp để lại dấu ấn sâu đậm trong nhận thức của
học sinh.
Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm
ứng xử
- Tạo tình huống sư phạm: Nhà giáo dục tạo tình huống, đề ra những
địi hỏi, những u cầu về mặt sư phạm để người học ứng xử.
- Tạo dư luận xã hội: Dư luận xã hội là cái nhìn của xã hội đối với một
vấn đề hay hiện tượng nào đó, dư luận thường là chủ quan, có mặt tốt lẫn mặt



23
xấu. Dư luận được coi là những trạng thái đặc trưng của ý thức xã hội, tâm
trạng xã hội, dư luận tồn tại như một dạng độc lập với các trạng thái ý thức xã
hội như chính trị, tơn giáo, khoa học, nghệ thuật. Dư luận có mặt và hoạt động
tích cực trong hành vi, ý thức chính trị của cá nhân. Thông qua dư luận, buộc
học sinh phải tự ý thức và điều chỉnh hành vi một cách phù hợp.
- Phương pháp tập luyện: Tổ chức cho học sinh thực hiện thường xuyên

và có kế hoạch các hành vi nhất định nhằm biến thành thói quen ứng xử.
- Phương pháp giao công việc: Đây là phương pháp lôi cuốn học sinh

vào các hoạt động phong phú, đa dạng của tập thể. Qua đó giúp học sinh đúc
kết được kinh nghiệm trong quan hệ với mọi người theo chuẩn mực nhất định.
- Phương pháp rèn luyện: Phương pháp này giúp học sinh thể hiện và

củng cố những hành vi đã được hình thành trong cuộc sống
- Phương pháp tạo tình huống giáo dục: Đưa ra những tình huống mà

học sinh buộc phải lựa chọn. Phương pháp này giúp các em suy nghĩ, đấu
tranh, xem xét lại hành động của mình có phù hợp với các yêu cầu của xã hội,
phải cân nhắc lựa chọn quan điểm, thái độ, hành vi phù hợp.
Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi
ứng xử
- Phương pháp thi đua: Giúp học sinh nỗ lực tự khẳng định mình và cố
gắng rèn luyện hướng tới sự thành đạt trong cuộc đời.
- Phương pháp khen thưởng: Là phương pháp biểu thị sự đánh giá tích

cực của nhà trường, xã hội đối với cá nhân, tập thể.
- Phương pháp trách phạt: Đây là phương pháp biểu thị thái độ khơng


đồng tình, lên án, phủ định của xã hội, tập thể, giáo viên đối với những hành
vi trái với chuẩn mức đạo đức; buộc cá nhân hay tập thể từ bỏ những hành vi
xâm hại đến lợi ích của tập thể, xã hội hoặc giúp họ điều chỉnh cho phù hợp.


24
1.4.5. Hình thức và điều kiện GDĐĐ cho học sinh trƣờng PTDTNT
a. Hình thức GDĐĐ cho học sinh trường PTDTNT
Có rất nhiều hình thức GDĐĐ cho HS. Tuy nhiên, xác định và lựa chọn
các hình thức GDĐĐ hiệu quả cho HS các trường PTDTNT trong giai đoạn
hiện nay là một yêu cầu cần thiết, đòi hỏi phải được thực hiện thường xun
liên tục và có tính hệ thống thì mới có thể tạo ra được sản phẩm giáo dục đáp
ứng nhu cầu của xã hội.
Để truyền tải những nội dung cần giáo dục cho HS, có thể sử dụng các
hình thức cơ bản sau:
- Giáo dục đạo đức mới thông qua việc lồng ghép chương trình tích hợp

giáo dục pháp luật, giáo dục kỹ năng sống trong các môn học Giáo dục công
dân, Lịch sử. Việc lồng ghép này nhằm hình thành niềm tin, đây là yếu then
chốt của đạo đức. Điều đó địi hỏi GV giảng dạy các mơn học này một mặt
phải có kiến thức sâu rộng ở nhiều lĩnh vực, mặt khác phải có nghệ thuật
truyền tải hệ thống thông tin đến người học một cách hiệu quả, phù hợp cho
từng đối tượng. Chính vì thế, đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng
giảng dạy các môn học này là yêu cầu rất cần thiết.
- Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua lao động và các hoạt động xã
hội. Đây là sự tiếp nối các hoạt động dạy học trên lớp, gắn lý thuyết với thực
tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động của học sinh. Thông
qua con đường này, giáo dục cho học sinh có nhận thức đúng đắn về mối
quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.

Qua đó giáo dục lòng yêu lao động, sự trân trọng thành quả lao động. Đây
cũng là điều kiện thuận lợi để học sinh rèn luyện nhân cách và phát triển toàn
diện.
- Tự tu dưỡng, tự rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân. Đây là yếu tố quyết
định trực tiếp sự hình thành bền vững các phẩm chất đạo đức của mỗi HS. Sự


25
hình thành và phát triển đạo đức cá nhân là một q trình lâu dài và phức tạp.
Mơi trường bên ngoài và động lực bên trong thường xuyên tác động lẫn nhau
và vai trò của mỗi yếu tố thay đổi tùy theo từng giai đoạn phát triển của mỗi
con người.
- Giáo dục thông qua tấm gương của người thầy. Việc giáo dục đạo đức

cho HS rất cần hình thức nêu gương, đặc biệt là tấm gương của người thầy.
Trong giáo dục, địi hỏi người thầy phải có tâm, đức, trí, tài, có lịng nhân ái,
u nghề, có tinh thần học hỏi, nhạy bén với việc đổi mới phương pháp dạy
học và khai thác nội dung giáo dục đạo đức trong các bài giảng để chuyển tải
đến người học. Mỗi người thầy phải là tấm gương sáng cho HS noi theo.
Không có tấm gương nào sâu sắc, bền chặt bằng chính tấm gương của của cha
mẹ và thầy cơ. Vì vậy, để công tác GDĐĐ cho HS đạt kết quả tốt, trước hết
phải xây dựng đội ngũ GV có phẩm chất đạo đức tốt, đồng thời tận tâm với sự
nghiệp trồng người.
- Giáo dục thông qua cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh”. Hiện nay, do ảnh hưởng những mặt trái của nền kinh
tế thị trường cũng như của xu thế tồn cầu hóa, một bộ phận thanh, thiếu niên
ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như: phai nhạt lý
tưởng, chạy theo lối sống buông thả, hưởng thụ, ngại lao động, thậm chí vi
phạm pháp luật. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh” mà Đảng ta vừa phát động chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ
rèn luyện, phấn đấu vươn lên.
- Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua kỷ niệm các ngày lễ, các sự
kiện lịch sử, các lễ hội dân tộc. Thông qua các hoạt động kỷ niệm làm cho
học sinh hiểu được truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm và đấu tranh
cách mạng, lao động sáng tạo của nhân dân ta ở các địa phương. Qua đó, giáo
dục học sinh lịng tự hào về ý chí chiến đấu hào hùng của dân tộc ta từ thời


26
dựng nước, lòng biết ơn và tự hào về các vị anh hùng dân tộc, tinh thần uống
nước nhớ nguồn. Qua các buổi kỷ niệm lịch sử, các ngày lễ hội truyền thống,
giáo dục lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc cho các em.
- Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các hoạt động GDNGLL: các
hoạt động văn hoá, thể thao, du lịch, các buổi ngoại khố về hoạt động xã hội,
bảo vệ mơi trường. Nội dung và chủ đề thực hiện theo chương trình của Bộ
GD-ĐT về hoạt động GDNGLL ở trường phổ thông…. Thông qua các hoạt
động đó, giáo dục cho học sinh tinh thần tập thể, tinh thần trách nhiệm, sự
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, tạo nên nếp sống đoàn kết thân ái, đồng thời rèn
luyện cho các em năng lực hoạt động xã hội, uốn nắn những lệch lạc, giúp các
em điều chỉnh hành vi theo những chuẩn mực mà xã hội yêu cầu. Đây là một
hình thức cơ bản GDĐĐ cho học sinh trong nhà trường.
- GDĐĐ cho học sinh thơng qua hoạt động Đồn, Hội và các hội thi.
Thơng qua đó góp phần bồi dưỡng cho các em động cơ học tập và hoạt động
tích cực, kích thích hứng thú học tập và rèn luyện đạo đức. Qua đó phát hiện,
bồi dưỡng năng khiếu cho các em, phát huy tính sáng tạo, độc lập suy nghĩ,
tinh thần đồn kết, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, góp phần bồi dưỡng,
phát hiện và hoàn thiện nhân cách của học sinh, cũng như uốn nắn, răn đe kịp
thời những sai lệch về hành vi đạo đức mà các em có thể mắc phải. Thông qua
các hoạt động này, học sinh tự rèn luyện, tu dưỡng và hồn thiện mình. Đây

cũng là một hình thức GDĐĐ rất hiệu quả trong nhà trường.
b. Điều kiện GDĐĐ cho học sinh trường PTDTNT
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học là phương tiện lao động sư phạm của nhà
giáo dục và cũng là điều kiện cần thiết đối với hoạt động GDĐĐ cho học sinh.
Nguồn lực tài chính cũng cần thiết để tổ chức các hoạt động giáo dục. Nếu
thiếu kinh phí, cơ sở vật chất, thiết bị thì các hoạt động giáo dục trong nhà
trường sẽ gặp nhiều khó khăn hoặc khơng thể thực hiện được. Trang thiết bị


×