Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Quản lý hoạt động học tập của sinh viên theo học chế tín chỉ tại trường đại học ngoại ngữ đại học đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

HUỲNH LÊ MINH CHÂU

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NGOẠI NGỮ- ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Đà Nẵng- Năm 2010


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục là hiện tượng xã hội, luôn tồn tại và phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội. Mục tiêu của giáo dục đại học nhằm đáp ứng nhu cầu
nâng cao trình độ dân trí trong xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong điều kiện cơng nghiệp hố, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế.
Hiện nay đất nước ta đang đứng trước những thách thức của thời đại tri
thức gắn liền với q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, khi mà nước ta
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngoại
ngữ cũng là một trong những điều kiện tất yếu.
Ngày nay, nền giáo dục của ta vẫn tồn tại nhiều yếu kém, người học
thiếu năng lực chủ động sáng tạo chưa đáp ứng được yêu cầu trong thời đại
phát triển của nền kinh tế tri thức.
Người Việt nổi tiếng là thông minh, hiếu học, tuy nhiên vấn đề đặt ra là
làm cách nào để huy động được trí tuệ, tài năng sáng tạo của nguồn nội lực
quan trọng này trong xu thế hội nhập và tồn cầu hóa. Trong cơng cuộc đổi
mới cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước địi hỏi phải có một nền giáo dục


đại học có chất lượng cao, đáp ứng tất cả ba yêu cầu về nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực có trình độ chuyên môn cao, và bồi dưỡng nhân tài.
Nhân loại đang bước vào nền văn minh trong thiên niên kỷ mới, các kỳ
Đại hội của Đảng ta đã tập trung chú trọng coi giáo dục là quốc sách hàng đầu
cho sự phát triển đất nước. Để phát triển sánh vai với các cường quốc năm
châu trong bối cảnh toàn cầu hóa trên thế giới, cùng với cơng cuộc hiện đại
hóa, cơng nghiệp hố việc đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo đội ngũ nhân lực
bậc cao cho đất nước là một việc làm hết sức cấp thiết.
Tại phiên họp tháng 7 năm 2005, Chính phủ đã quyết nghị về Đề án đổi
mới giáo dục đại học Việt Nam bao gồm những mục tiêu, quan điểm chỉ đạo,
nhiệm vụ và những giải pháp đổi mới sâu sắc như: “Đổi mới GDĐH phải


đảm bảo tính thực tiễn, hiệu quả và đồng bộ; việc mở rộng quy mô phải đi đôi
với nâng cao chất lượng; thực hiện công bằng xã hội phải đi đôi với đảm bảo
hiệu quả đào tạo; để hội nhập quốc tế phải triển khai việc dạy và học bằng
tiếng nước ngoài, trước mắt là bằng tiếng Anh…”
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm văn hóa và kinh tế của khu vực miền
Trung và Tây Nguyên, ở đây có bãi biển đẹp và một số danh lam thắng cảnh
khác, đây chính là cơ hội phát triển cho ngành du lịch Đà Nẵng nói riêng và
cả nước nói chung. Do vậy, nhu cầu về nguồn nhân lực biết sử dụng ngoại
ngữ thành thạo để phục vụ du lịch cũng như phát triển kinh tế là điều hết sức
cần thiết.
Để đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ ngày càng cao
của xã hội, trường ĐHNN đã không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo thông
qua việc chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang hình thức đào tạo theo học
chế tín chỉ, và đây cũng là xu thế tất yếu ở các trường đại học Việt Nam vì
theo đề án giáo dục Việt Nam, đến năm 2010 các trường đại học phải áp dụng
đào tạo theo HCTC thay thế cho đào tạo theo niên chế.
Trường ĐHNN - ĐHĐN đã thực hiện hình thức ĐT này trước hết là với

hệ chính qui. Cùng với việc đổi mới phương thức ĐT nhà trường cũng đã tiến
hành đổi mới cách QL cho phù hợp, để thực hiện tốt mục tiêu trường đặt ra.
Hiện nay, công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường
ĐHNN - ĐHĐN còn một số điều bất cập, chưa mang lại hiệu quả cao do công
tác quản lý HĐHT của SV chưa được triển khai một cách đồng bộ; sự phối
hợp giữa các khoa và các phòng chức năng trong trường còn hạn chế; chưa
đầu tư đúng mức cơ sở vật chất cho việc dạy và học…
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, nâng cao chất lượng học tập của SV
tại trường ĐHNN - ĐHĐN là một nhu cầu tất yếu để nhà trường tồn tại và
phát triển, chúng tôi chọn đề tài: “Quản lý hoạt động học tập của sinh viên


theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng” để
nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động học tập nhằm nâng cao chất
lượng học tập của SV hệ chính qui tại trường ĐHNN - ĐHĐN theo học chế
tín chỉ.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên ở trường đại học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động học tập của sinh viên theo HCTC tại
trường ĐHNN – ĐHĐN.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Hoạt động học tập của sinh viên trường ĐHNN - ĐHĐN khi chuyển
sang đào tạo theo HCTC thì cịn một số bất cập. Nếu thực hiện một cách có
hiệu quả các biện pháp quản lý HĐHT của sinh viên: nâng cao nhận thức của
CBQL, GV và SV về vai trò QL hoạt động học tập và tác dụng tiến bộ của
ĐT theo HCTC; chỉ đạo cải tiến phương pháp, hình thức tự học của SV;

khuyến khích GV đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy khả năng
sáng tạo cũng như tính tự học của SV; xây dựng mơi trường, điều kiện thuận
lợi cho SV tự học, tự nghiên cứu và GV giảng dạy theo HCTC; phối hợp chặt
chẽ giữa các khoa và các phịng chức năng; thì chất lượng học tập của SV
trường ĐHNN - ĐHĐN sẽ được nâng cao.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Xác định cơ sở lý luận về quản lý hoạt động học tập của sinh viên
theo học chế tín chỉ tại trường đại học.


- Khảo sát và đánh giá thực trạng hoạt động học tập và quản lý HĐHT
của SV theo học chế tín chỉ tại trường ĐHNN - ĐHĐN.
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động học tập của sinh viên theo
HCTC tại trường ĐHNN - ĐHĐN.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu quản lý hoạt động học tập của sinh viên hệ
chính qui tại trường ĐHNN - ĐHĐN theo học chế tín chỉ.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài
7.1.1. Tiếp cận hệ thống trong QLGD
Tiếp cận hệ thống là một luận điểm quan trọng của phương pháp luận,
nó yêu cầu xem xét đối tượng một cách toàn diện, nhiều mặt, nhiều mối quan
hệ khác nhau, trong trạng thái vận động và phát triển, với việc phân tích
những điều kiện nhất định để tìm ra bản chất và quy luật vận động của đối
tượng.
Thực hiện phương pháp này, chúng tôi một mặt xác định hệ thống bao
trùm vấn đề nghiên cứu về họat động học tập của SV, mặt khác xác định các
lực lượng tham gia QL hoạt động này. Trên cơ sở đó xác lập mối liên hệ giữa
các thành phần trong hệ thống và những tác động QL nhằm tạo điều kiện cho
hệ thống vận hành và phát triển.

7.1.2. Tiếp cận phức hợp trong QLGD
Tiếp cận phức hợp yêu cầu nghiên cứu đối tượng phức tạp trong mọi
mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, tổ chức kỹ thuật…tức là xem xét tồn
bộ các mặt, phân tích chúng một cách toàn diện trong các quan hệ biện chứng
và tác động qua lại. Trong phương pháp tiếp cận phức hợp, cần chú ý tới tính
tồn vẹn, sự bao qt các mặt của hệ thống.


Thực hiện phương pháp tiếp cận phức hợp, chúng tôi chú ý đến tính
phức tạp, tính đa dạng, tính thống nhất, tính cân đối, và tính tích hợp của
những tác động quản lý đối với hoạt động học tập của sinh viên tại trường
ĐHNN - ĐHĐN. Trên cơ sở đó, xác lập các biện pháp QL cần thiết và khả
thi, có thể huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực của nhà trường, thực
hiện đồng bộ các chức năng QL nhằm mục tiêu là nâng cao chất lượng đào
tạo theo học chế tín chỉ tại trường ĐHNN - ĐHĐN.
7.2. Các nhóm phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp tổng hợp, thu thập và phân loại tài liệu có liên
quan đến vấn để đang nghiên cứu để tìm ra những dấu hiệu đặc thù của vấn
đề. Trên cở sở kết luận được rút ra từ những cơng trình nghiên cứu trước đây,
xây dựng cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về QL hoạt động học tập của sinh
viên tại trường.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi (phương pháp Ankét)
Để tiến hành điều tra về thực trạng hoạt động học tập, QL hoạt động
học tập theo tín chỉ tại trường, cũng như tính cần thiết và khả thi của các biện
pháp, chúng tôi đã xây dựng phiếu hỏi cho 3 đối tượng: CBQL, GV và SV
đang theo học tại trường, với số lượng là: 60 CBQL và GV; 250 SV đang học
tại trường ĐHNN- ĐHĐN.
7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn

Bên cạnh việc điều tra bằng phiếu hỏi, chúng tôi đã phỏng vấn, trao đổi
ý kiến với một số CBQL, GV và SV đang học tại trường để thu thập thêm
thông tin liên quan đến đề tài.


7.2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Chúng tôi đã tiến hành quan sát việc giảng dạy và tổ chức giảng dạy
các lớp chính qui để thu thập thêm những thơng tin đa dạng, nhiều mặt và trực
tiếp về đối tượng nghiên cứu.
7.2.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Trực tiếp trao đổi ý kiến với các CBQL tại trường cũng như CBQL có
kinh nghiệm của các trường thành viên của ĐHĐN để có thêm những thơng
tin cần thiết, liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
Thông qua các bài báo, nghiên cứu khoa học của các CBQL cũng như
GV có kinh nghiệm trong cơng tác quản lý và giảng dạy tại trường để thu thập
những ý kiến về những giải pháp giáo dục, xử lý một cách khoa học những ý
kiến đó và rút ra những điều bổ ích cho vấn đề nghiên cứu.
7.2.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng chương trình Excel để tổng hợp và xử lý số liệu nghiên cứu
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Luận văn bao gồm các phần sau:
- Mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động học tập của sinh viên
theo học chế tín chỉ tại trường đại học
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập của sinh
viên theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng
- Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động học tập của sinh viên theo
học chế tín chỉ tại trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng
- Kết luận và khuyến nghị
- Tài liệu tham khảo

- Phụ lục.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Đào tạo theo học chế tín chỉ, lần đầu tiên được tổ chức tại trường Đại
học Harvard, Hoa kỳ vào năm 1872, sau đó lan rộng ra khắp Bắc Mỹ và thế
giới. Đây là phương thức đào tạo theo triết lý tôn trọng người học, xem người
học là trung tâm của quá trình đào tạo.
Theo đánh giá của Tổ chức ngân hàng thế giới (World Bank), thì đào
tạo theo học chế tín chỉ, khơng chỉ có hiệu quả đối với các nước phát triển mà
còn rất hiệu quả đối với các nước đang phát triển. Trường Đại học Ngoại ngữ
- ĐHĐN đã triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ từ năm học 2006 -2007 và
đã dần dần đi vào ổn định.
Trong chương trình hành động của chính phủ thực hiện nghị quyết số
37/2004/QH11 khóa XI, kỳ họp thứ sáu của Quốc hội về giáo dục đã chỉ rõ:
“Mở rộng, áp dụng học chế tín chỉ trong đào tạo đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp …”. Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 20062020 đã được Chính phủ phê duyệt cũng khẳng định: “… xây dựng học chế
tín chỉ thích hợp cho giáo dục đại học ở nước ta và vạch ra lộ trình hợp lý để
toàn bộ hệ thống giáo dục đại học chuyển sang đào tạo theo học chế tín
chỉ…”. Cho đến nay, cả nước đã có hơn 20 trường trong tồn quốc chuyển
đổi sang đào tạo theo học chế tín chỉ với lộ trình và bước đi hợp lý.
Trong hình thức đào tạo theo học chế, hoạt động học tập của sinh viên
được đặc biệt quan tâm, SV phải phát huy được tính chủ động, tự giác học tập
mới mang lại kết quả tốt.



Học tập là vấn đề được quan tâm trong xã hội hiện nay, là vấn đề chủ
đạo trong hoạt động giáo dục, vì chỉ có học tập thì bản thân chúng ta mới có
khả năng tiếp nhận được khối lượng tri thức cần thiết.
Các nhà tư tưởng giáo dục tiêu biểu đã chú trọng tới việc kích thích và
phát huy tính tích cực trong hoạt động học tập của con người. Xơ- crat (469399 TCN) đã chú trọng kích thích tư duy của người học bằng cách đặt ra hàng
loạt câu hỏi trong quá trình dạy học của người thầy; địi hỏi người học phải có
sự chuẩn bị trước bằng cách đọc sách và nghiên cứu những kiến thức có liên
quan đến bài học. Phương pháp được gọi là phương pháp Xô- crat. Lênin
cũng đã dạy “Học, học nữa, học mãi” nhằm giáo dục chúng ta ln có ý thức
học tập ở mọi lúc, mọi nơi, phải luôn trau dồi kiến thức để trở thành người có
ích cho xã hội.
UNESCO đã nêu lên bốn trụ cột của giáo dục làm nền tảng của giáo
dục thế kỷ XXI là “Học để biết, học để làm, học để làm người, học để cùng
chung sống”.
Bác Hồ đã khẳng định “học là việc làm suốt đời”, Bác cũng đã nói về
phương châm học tập một cách tóm tắt là “Cách học tập: Lấy tự học làm cốt.
Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”.
Khổng Tử dạy học trò theo phương châm :
“Học cho rộng, hỏi cho kỹ, phản biện cho sáng tỏ, làm cho hết sức.
Có điều khơng học, nhưng đã học điều gì chưa thấu khơng thơi.
Có điều khơng hỏi, nhưng đã hỏi có điều gì mà chưa kỹ thì khơng thơi.
Có điều khơng phản biện, nhưng đã phản biện điều gì mà chưa sáng tỏ
thì khơng thơi.
Có điều gì khơng nghĩ, nhưng đã nghĩ điều gì mà chưa nghĩ đến nơi thì
khơng thôi.


Có điều gì khơng làm, nhưng đã làm điều gì mà chưa tận lực thì khơng
thơi.
Người ta dụng cơng một, ta dụng cơng một mà khơng được thì phải

dụng cơng gấp trăm; người ta dụng công mười, ta dụng công mười mà khơng
thành thì phải dụng cơng gấp nghìn lần để kỳ được mới thôi.
Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu rồi cũng thành sáng”
Như vậy theo Khổng Tử thì phương châm học tập là phải tham khảo
nhiều tài liệu, tìm hiểu bài cho thật sâu qua điều tra vặn hỏi, học phải có bình
luận đánh giá và thực hành cho thật nhiều với một quyết tâm cao thì trước
chưa thạo nhưng rồi cũng sẽ thạo.
Cuối thế kỷ XX, khoa học giáo dục đã chuyển từ quan điểm dạy học
“lấy người dạy làm trung tâm”, chuyển sang quan điểm “lấy người học làm
trung tâm” trong các trường học là một cuộc cách mạng về giáo dục. Muốn
tồn tại và thích nghi với hồn cảnh mới, mỗi sinh viên phải không ngừng học
tập, học thường xuyên và học suốt đời.
Trong khoa học, nhiều tác giả đã nghiên cứu về vấn đề học tập được
cơng bố trên tạp chí Nghiên cứu giáo dục như: “Khơi dậy và phát huy năng
lực tự học sáng tạo của người học trong giáo dục đào tạo” [24], “Dạy cách
học - một trong những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo” [25].
Gần đây, một số luận văn thạc sĩ có đề cập đến vấn đề học tập như:
Nâng cao năng lực tự học cho sinh viên đại học cao đẳng, năng lực học tập
cho học sinh phổ thơng. Tuy nhiên chưa có cơng trình nghiên cứu nào về
quản lý hoạt động học tập của sinh viên theo học chế tín chỉ tại trường Đại
học Ngoại ngữ - ĐHĐN, vậy việc nghiên cứu về quản lý hoạt động học tập
của sinh viên theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHĐN là
cấp thiết. Hoạt động học tập tuân theo quy luật nhận thức, đòi hỏi các nhân
phải chủ động, tự giác, độc lập, tích cực học, là hoạt động khơng ai làm thay


được. Trong thời đại công nghệ thông tin, nhà trường khơng cịn là nơi duy
nhất cung cấp kiến thức và cũng không đủ khả năng trang bị cho sinh viên tất
cả các kiến thức cần cho cuộc sống, nghề nghiệp. Vì vậy việc tìm ra các biện
pháp tổ chức và tác động nâng cao ý thức học tập của SV rất cần được thường

xuyên nghiên cứu một cách tích cực.
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CÔNG CỤ CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Quản lý
Khái niệm “Quản lý” là khái niệm rất chung, tổng quát, có rất nhiều
cách hiểu khác nhau về quản lý.
Theo Đại Bách khoa tồn thư Liên xơ, 1977, quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ thuật),
nó bảo tồn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện
những chương trình, mục đích hoạt động.
Khi nói đến hoạt động quản lý, C. Mác nhấn mạnh vai trò của thủ lĩnh,
với sự so sánh giàu hình ảnh: Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, cịn
dàn nhạc thì cần nhạc trưởng.
“Quản lý” bao gồm hai q trình tích hợp vào nhau. Q trình “Quản”
gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì tổ chức ở trạng thái ổn định. Quá trình “Lý”
gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa tổ chức vào thế phát triển. [16, tr18]
Nguyễn Ngọc Quang, trường Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo cho
rằng: “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể
quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt
được mục đích nhất định”. [18, tr7].
TS. Nguyễn Bá Sơn trong Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lý
cho rằng “QL là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ
chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động” [18, tr8].


Tác giả Dương Thị Thiệu Hoa đã tổng hợp một số khái niệm khác nhau
về quản lý.
- “QL là nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông qua người
khác”.
- “QL là một quá trình kỹ thuật và xã hội nhằm tác động tới hoạt động
của con người để đạt được các mục tiêu của tổ chức”.

- “QL là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi những con
người kết hợp với nhau trong các nhóm, các tổ chức nhằm đạt tới mục tiêu
chung”.
- “QL là biết chính xác điều mình muốn người khác làm và sau đó thấy
được rằng họ đã hồn thành cơng việc một cách tốt nhất và hiệu quả nhất”.
[17, tr19]
Theo PGS. TS. Đặng Quốc Bảo, “QL là quá trình tạo ra sự ổn định và
phát triển”, “QL là quá trình chống sự lạc hậu và lạc điệu”.
Như vậy, chúng ta có thể khái quát: “QL là những tác động của chủ thể
quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức một cách tối
ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”. [19, tr8].
Quản lý có bốn chức năng cơ bản là: Lập kế hoạch - Tổ chức - Chỉ đạo
- Kiểm tra. Thông tin là mạch máu của QL.
+ Lập kế hoạch: Là quá trình xác định ra các mục tiêu và quyết định
phương thức đạt được các mục tiêu đó. Khả năng thực hiện chức năng lập kế
hoạch dựa trên các kỹ năng nhận thức và ra quyết định của chủ thể quản lý.
Đây là một chức năng quản lý và thường là khởi điểm của hoạt động quản lý
nếu xét trong một chu trình quản lý nhất định.
+ Tổ chức: Là một quá trình hình thành nên cấu trúc các mối quan hệ
giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức, đồng thời phân


công, điều phối các nhiệm vụ và nguồn lực để đạt được các mục tiêu đề ra. Để
giúp cho mọi người cùng làm việc với nhau nhằm thực hiện có hiệu quả mục
tiêu cần phải xây dựng và duy trì một cơ cấu nhất định về những vai trò,
nhiệm vụ và vị trí cơng tác. Cho nên có thể nói việc xây dựng các vai trò,
nhiệm vụ là chức năng tổ chức trong quản lý.
+ Chỉ đạo: Chỉ đạo là quá trình sử dụng quyền lực quản lý để tác động
đến các đối tượng bị quản lý (con người, các bộ phận) một cách có chủ đích

nhằm phát huy hết tiềm năng của họ hướng vào việc đạt mục tiêu chung của
hệ thống. Đây là chức năng thể hiện năng lực của người QL.
+ Kiểm tra: Kiểm tra là quá trình thiết lập và thực hiện các cơ chế
thích hợp, theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành những hoạt
động sửa chữa, uốn nắn khi cần thiết để đảm bảo đạt được mục tiêu của tổ
chức. Chức năng này xuyên suốt quá trình quản lý và là chức năng của mọi
cấp quản lý.
Bốn chức năng của quản lý có quan hệ mật thiết và điều chỉnh cho
nhau, ln ln có sự điều tiết qua lại để đạt được mục tiêu cuối cùng một
cách hiệu quả. Tuy nhiên, việc thực hiện các chức năng quản lý đều dựa vào
thơng tin. Thơng tin có vai trị đặc biệt quan trọng, là mạch máu của quản lý.
Trong quản lý, nếu thiếu hoặc sai lệch thơng tin thì cơng tác quản lý gặp
nhiều khó khăn, tạo ra những quyết định sai lầm, công tác quản lý kém hiệu
quả và thất bại.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là sự điều hành, điều chỉnh và
phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công tác đào tạo thế
hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
QLGD là q trình tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của
chủ thể quản lý giáo dục tới hoạt động giáo dục trong xã hội nhằm là cho hệ


vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính
chất của nhà trường, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy - học giáo dục, giáo
dục thế hệ trẻ và đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới
về chất. [28, tr35]
QLGD được hiểu là những tác động tự giác (Có ý thức, có mục đích, có
kế hoạch, có hệ thống hợp qui luật) của chủ thể quản lý để tất cả các mắt xích
của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm
thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế

hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.
QLGD là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trội của hệ thống ; sử dụng một
cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến
mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện đảm bảo sự cân bằng với mơi
trường bên ngồi ln ln biến động.
Cũng có thể định nghĩa, quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ
thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát... một
cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, tài lực, vật lực) phục vụ
cho mục tiêu phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
QLGD được hiểu một cách cụ thể hơn là hoạt động điều hành, phối hợp
các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu
phát triển của xã hội. Ngày nay với sứ mệnh phát triển giáo dục thường
xuyên, công tác giáo dục khơng chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cịn cho mọi
người.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là một cấp độ của quản lý giáo dục ở tầm vi mô.
Nhà trường là khách thể quản lý cơ bản của tất cả các cấp quản lý giáo dục,
đồng thời là một hệ thống độc lập tự quản của xã hội. Lý do tồn tại của các


cấp quản lý giáo dục trước hết là vì chất lượng và hiệu quả hoạt động của nhà
trường mà trung tâm là hoạt động dạy và học.
Quản lý nhà trường thực chất là những tác động của chủ thể QL vào
quá trình GD (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với những hỗ
trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách học sinh theo mục tiêu ĐT của nhà trường. [18, tr.7]
Quản lý nhà trường bao gồm hai loại: tác động của những chủ thể quản
lý giáo dục bên ngoài nhà trường và tác động của những chủ thể QL bên trong
nhà trường.

Quản lý nhà trường là những tác động QL của các cơ quan QLGD cấp
trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập của
nhà trường.
1.2.4. Đào tạo theo học chế tín chỉ
Đào tạo theo tín chỉ là một hình thức đào tạo được hầu hết các nước
tiên tiến trên thế giới áp dụng, không giới hạn thời gian học tập, sinh viên
phải tích lũy khối lượng kiến thức định sẵn, khi nào tích lũy xong thì ra
trường. Đây là một quy trình đào tạo mềm dẻo, lấy người học làm trung tâm.
Người học có quyền lựa chọn: Học cái gì? Học lúc nào? Học ở đâu? Học ai?
Nét đặc trưng của hệ thống tín chỉ là kiến thức được cấu trúc thành các học
phần. Do đó, lớp học được tổ chức theo từng học phần; đầu mỗi kỳ sinh viên
được đăng ký các mơn học thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ và
phù hợp với qui định chung nhằm đạt được kiến thức theo một ngành chun
mơn chính nào đó. Sự lựa chọn các mơn học rất rộng rãi, sinh viên có thể ghi
tên học các mơn liên ngành nếu họ thích.
Kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học phần chứ khơng
phải theo năm học, do đó việc hỏng một học phần nào đó khơng cản trở q
trình tiếp tục học.


Đào tạo theo tín chỉ là phương thức đào tạo cho phép sinh viên đạt
được văn bằng đại học qua việc tích lũy các loại tri thức khác nhau được đo
lường bằng một đơn vị xác định, căn cứ trên khối lượng học tập của một sinh
viên đã tích lũy được, gọi là tín chỉ. Như vậy đào tạo theo tín chỉ chuyển
quyền lựa chọn và quyết định mục đích đào tạo/ học tập cụ thể cũng như lựa
chọn các học phần và cả kế hoạch học tập từ nhà trường sang cho người học
trong điều kiện qui định công khai cấu trúc các học phần dẫn đến văn bằng.
Tùy vào điều kiện của mỗi SV, họ có thể học nhanh hơn hay muộn hơn
so với tiến độ bình thường, có thể thay đổi chuyển ngành học ngay giữa tiến
trình học tập mà không phải học lại từ đầu. HCTC còn tạo điều kiện cho việc

chuyển đổi SV giữa các trường trong nước và trên thế giới, rất thuận lợi trong
các chương trình đào tạo liên kết.
1.2.5. Hoạt động học tập của sinh viên
1.2.5.1. Khái niệm hoạt động học tập của sinh viên
Có rất nhiều định nghĩa về hoạt động học tập của sinh viên. Tuy quan
điểm của tác giả rất khác nhau, nhưng có thể tìm thấy điểm chung của họ là:
hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động có mục đích, tự giác, có ý thức
về động cơ và trong đó diễn ra các q trình nhận thức, đặc biệt là quá trình
tư duy.
Hoạt động học tập là hoạt động lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo mà
đích của nó là hướng vào việc thay đổi chính chủ thể hoạt động.
Hoạt động học tập ở đại học là một loại hoạt động tâm lí (hoạt động
nhận thức) của cá nhân chủ thể sinh viên, được tổ chức một cách độc đáo,
dưới sự hướng dẫn của giảng viên, nhằm đạt được mục đích dạy học đại học.
Hoạt động chủ đạo của sinh viên là hoạt động học tập. Nhưng so với
hoạt động học tập của học sinh phổ thông, hoạt động học tập của sinh viên có
nhiều đểm khác nhau. Trước hết hoạt động học tập của học sinh, sinh viên


cũng là nhận thức nhằm chiếm lĩnh những tri thức trong kho tàng trí tuệ của
nhân loại. Điểm khác nhau là khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên
không thể chỉ nhận thức thông thường mà tiến hành hoạt động nhận thức
mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở
mức độ cao để chuẩn bị cho một ngành nghề nhất định có chun mơn năng
lực cao. Vì vậy, HĐHT của sinh viên còn gọi là hoạt động học tập nghề
nghiệp. Vốn học vấn tiếp thu được trong thời kỳ này hết sức quan trọng vì nó
là cơng cụ để họ tiến hành tham gia vào lĩnh vực nghề nghiệp sau này và là
nền tảng cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu. Một điều khác nữa so với hoạt
động học tập của học sinh phổ thơng thì hoạt động học tập của sinh viên mang
tính tự giác, tích cực chủ động hơn. Sinh viên ngồi giờ lên lớp theo chương

trình chính khố, họ cịn phải tích cực đọc thêm sách và tài liệu tham khảo để
tự phát triển kiến thức cho mình, tranh thủ sự giúp đỡ của giảng viên để đào
sâu kiến thức chun mơn. Có như vậy, sau khi ra trường họ mới vững vàng
trong công việc thực tế của mình.
1.2.5.2. Động cơ hoạt động học tập của sinh viên
Đông cơ học tập là những hiện tượng, sự vật trở thành cái kích thích
người sinh viên đạt kết quả nhận thức, hình thành và phát triển nhân cách.
Dựa vào mục đích học tập, các nhà tâm lý chia thành năm loại động cơ:
- Động cơ xã hội phụ thuộc vào các nhu cầu, các lợi ích xã hội, về các
chuẩn mực và mục đích xã hội
- Động cơ nhận thức - khoa học thể hiện ở thái độ đối với quá trình
nhận thức, với nội dung của vấn đề được nghiên cứu
- Động cơ nghề nghiệp
- Động cơ tự khẳng định là ý thức về những năng lực của mình và
mong muốn được thể hiện chúng
- Động cơ vụ lợi


Các nhóm động cơ trên có tác dụng thúc đẩy học tập của sinh viên
không phải đồng đều, như nhau dẫn tới tình trạng thứ bậc các động cơ ưu thế,
thứ bậc đó được xếp như sau:
- Động cơ thứ nhất là động cơ nhận thức khoa học
- Động cơ thứ hai là động cơ nghề nghiệp
- Động cơ thứ ba là động cơ xã hội
- Động cơ thứ tư là động cơ tự khẳng định
- Động cơ thứ năm là động cơ vụ lợi
Cần lưu ý rằng vị trí nêu trên không cố định, mà chúng luôn biến đổi
trong quá trình học tập của mỗi SV, và rất khác nhau ở các sinh viên khác
nhau, rõ rệt hơn cả là ở các sinh viên học giỏi và sinh viên học yếu, kém. Có
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của sinh viên, như nội dung bài

học, phương pháp dạy học của giảng viên, nhân cách của chính giảng viên,
các kết quả đã đạt được, khơng khí thi đua trong lớp.
1.2.6. Quản lý hoạt động học tập
Quản lý HĐHT của SV là một trong những nội dung của công tác quản
lý giáo dục trong nhà trường, tiến hành theo quy chế của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Quản lý hoạt động học tập của sinh viên bao hàm quản lý thời gian và
chất lượng học tập, quản lý tinh thần thái độ và phương pháp học tập. Quản lý
hoạt động học tập của sinh viên là quản lý để thực hiện đồng bộ và toàn vẹn
các nhân tố: mục tiêu học tập, nội dung học tập, phương pháp học tập, chủ thể
học tập, điều kiện - phương tiện học tập, quy chế học tập…. Quản lý tốt hoạt
động học tập của sinh viên sẽ nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên, chất
lượng học tập của SV phản ánh chất lượng quản lý của nhà trường.
Quản lý hoạt động học tập của sinh viên không chỉ giới hạn trong phạm
vi đào tạo - giáo dục sinh viên ở trường, lớp mà còn quản lý cả việc sinh viên
tham gia các hoạt động khác như: hoạt động ngồi giờ lên lớp, học nhóm,


việc tự học, cơng tác thực tập cuối khóa, giao lưu, học tập nghiên cứu tại thư
viện...
1.3. ĐẶC TRƯNG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ HỌC TẬP THEO HỌC
CHẾ TÍN CHỈ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.3.1. Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo để hoàn thiện nhân cách
Nhân cách của sinh viên trong giai đoạn hiện nay không thể không bàn
đến năng lực như một thành tố của nó. Hoạt động học tập của sinh viên thực
chất là lao động trí óc, là hoạt động trí tuệ, địi hỏi sinh viên phải có khả năng
tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và quyết đốn khoa học, chính xác để có
những chiến lược, giải pháp nhằm học tốt. Với trọng trách của mình, năng lực
học tập của sinh viên phải xử lý các mối quan hệ đa chiều, đan xen nhau, nên
ngồi kiến thức, vốn sống, kinh nghiệm, tính quyết đốn, tư duy để đạt được
mục đích trong học tập. Muốn vậy, SV phải tiếp nhận và xử lý thông tin đa

chiều nhanh, chính xác, phải có năng lực để sàn lọc, phân tích, tổng hợp và
khái quát cao. Những điều đó khơng phải tự có mà sinh viên phải kiên trì học
tập, nghiên cứu, học ở trường lớp, tự học, học trong thực tiễn, tự tu dưỡng rèn
luyện. Có như vậy, sinh viên mới nhìn mọi việc đều có tinh thần phê phán,
nhìn nhận, suy xét đúng bản chất của sự vật, dự báo xu hướng phát triển một
cách có căn cứ, hợp qui luật. Họ cịn là người có tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám khám phá cái mới, tìm cách khắc phục,
biết nuôi dưỡng cái đức, cái tâm cho trong sáng, ngay thẳng và hữu ích. Trong
các nhân tố cấu thành tài năng của sinh viên thì việc học tập tích cực có ý
nghĩa rất quan trọng.
1.3.2. Kết hợp học - tự học
Trong đào tạo theo tín chỉ, tín chỉ là đơn vị dùng để đo lường khối
lượng học tập của SV. Một tín chỉ được qui định bằng 15 tiết học lý thuyết,
30 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận, bằng 60 giờ thực tập tại cơ sở


hoặc bằng 45 giờ là tiểu luận, bài tập lớn, đồ án hoặc khóa luận tốt nghiệp. Để
tiếp thu được một tín chỉ, SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị ngồi giờ lên
lớp. Như vậy có nghĩa là sinh viên phải phát huy tích cực việc tự học của
mình.
Tự học là hoạt động địi hỏi sự nỗ lực của chính người học trong việc
chiếm lĩnh văn hóa nhân loại nhằm tạo động lực phát triển bản thân mình. Tự
học là cốt lõi của việc học, có hoạt động học tập là có tự học, khơng ai có thể
học thay người khác. Tư học không những giúp sinh viên khơng ngừng nâng
cao chất lượng học tập mà cịn giúp SV có thói quen và phương pháp học tập
thường xuyên, làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình.
Tự học thường xun, tích cực khơng những giúp sinh viên thu nhận
kiến thức mà còn giúp học rèn luyện nhân cách, hình thành thói quen làm việc
có khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, lòng say
mê nghiên cứu.

Muốn đạt được tri thức một cách có hệ thống, chúng ta phải tiến hành
hoạt động học tập một cách tích cực. Trong q trình thực hiện hoạt động học
tập của mình, chúng ta phải tích cực tự học. Vậy ta có thể nói rằng cốt lõi của
việc học là tự học.
Tự học là một hoạt động độc lập nhằm làm phong phú thêm tri thức
khoa học, hình thành kỹ năng, thái độ, bao gồm những đặc điểm: người học tự
học, tự nghiên cứu, tạo ra cầu nối trong tình huống học tập; tự học kết hợp với
các bạn trong lớp, trường dưới sự hướng dẫn của giảng viên.
Hoạt động tự học đòi hỏi SV phải tự tìm tịi, tự phát hiện ra cũng như
nghiên cứu vấn đề, những kiến thức sẽ được SV khắc sâu vào tâm trí hơn và
đặc biệt là rèn luyện được kỹ năng tự học suốt đời.
Tự học có vai trị quan trọng, quyết định kết quả học tâp của người học.
Chính vì vậy, xây dựng kế hoạch tự học của SV là yếu tố hết sức quan trọng


trong việc nâng cao chất lượng tự học. Kế hoạch tự học phải đảm bảo tính
khoa học, khả thi thể hiện ở sự sắp xếp chính xác cơng việc, phân phối hợp lý
thời gian và xác định đúng cách thức tổ chức thực hiện từng cơng việc và mức
độ hồn thành chúng. Xây dựng kế hoạch tự học là hình hành một biểu tượng
rõ ràng về trình tự các cơng việc làm theo ý nghĩa và nhu cầu của nó. Nội
dung và yêu cầu tự học phải hướng tới bổ sung và hoàn thiện kiến thức, đào
sâu và mở rộng sự hiểu biết, hồn thành cơng việc học tập của mình.
Trong quá trình học đại học, sinh viên cần phải lên kế hoạch tự học cho
riêng mình. Tự học thể hiện tính tích cực chủ động nhằm giúp SV bố trí thời
gian cơng việc một cách hợp lý
1.3.3. Kết hợp học - hành trong đời sống thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục
suốt đời . Suốt đời phải gắn liền lý luận với thực tiễn. Khơng ai có thể tự cho
mình đã biết đủ rồi, đã biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta
ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ cùng

nhân dân” [18, tr129].
Học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, học và hành là hai
mặt của một q trình thống nhất, nó không thể tách rời nhau mà phải luôn
gắn chặt với nhau làm một. Chúng ta biết rằng “hành” vừa là mục đích vừa là
phương pháp học tập, khi ta đã nắm vững kiến thức, nắm vững lý thuyết mà
không áp dụng vào thực tiễn thì việc học của ta khơng có ý nghĩa gì cả.
Học đi đơi với hành, nhà trường gắn với sản xuất là một chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ lâu
đã được các cấp ngành hết sức quan tâm. Vì thế ngay từ trong nhà trường
chúng ta cần phải quan tâm phổ biến và giảng dạy cho sinh viên các kiến thức
thực tế. Đây là điểm mấu chốt khiến cho bài giảng thêm sinh động, không chỉ
lý thuyết buồn tẻ. Những bài giảng của GV cần phải liên hệ với thực tế với


công việc trong tương lai của SV, làm sao để nó có ích cho cuộc sống sau này
của mỗi SV. Có như vậy mới tránh được tình trạng sinh viên tốt nghiệp với
tấm bằng đại học trong tay vẫn cảm thấy bỡ ngỡ với cơng việc thực tế đúng
chun mình đã học.
Sự liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn trong các học phần sẽ góp phần
quan trọng vào quá trình hình thành tư tưởng học tập có chủ đích, hình thành
các định hướng tư duy, sự quan tâm đối với các lĩnh vực tri thức của SV cho
nghề nghiệp tương lai sau này.
1.3.4. Học tập theo học chế tín chỉ
Đào tạo theo học chế tín chỉ là lấy người học làm trung tâm thay cho
cách giảng dạy trước đây của đào tạo niên chế. Có thể nói học chế tín chỉ có
ba đặc điểm cơ bản là: tính mềm dẻo, tính tích cực và tính liên thơng giữa các
cấp học.
Nếu như trong đào tạo theo niên chế, SV phải học theo tất cả những gì
nhà trường sắp đặt, khơng phân biệt SV có điều kiện, năng lực tốt, hay sinh
viên có hồn cảnh khó khăn, năng lực yếu. Học tập theo học chế tín chỉ cho

phép SV có thể chủ động theo điều kiện và năng lực của mình. Những SV
giỏi có thể học theo đúng hoặc học vượt kế hoạch học tập tồn khố, kế hoạch
học tập từng học kỳ theo gợi ý của trường để tốt nghiệp theo đúng thời hạn
hoặc sớm hơn. Những SV bình thường và yếu có thể kéo dài thời gian học tập
trong trường và tốt nghiệp muộn hơn. Chính vì vậy SV phải tự lập kế hoạch
học tập cho phù hợp với năng lực và điều kiện của bản thân dưới sự giúp đỡ
của giáo viên chủ nhiệm hay cố vấn học tập.
Đào tạo theo tín chỉ địi hỏi người dạy và người học phải thay đổi cách
tư duy, đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập từ bị động sang chủ động.
Vai trị của người dạy: Học chế tín chỉ với tiêu chí lấy người học làm
trung tâm, vai trị của GV bây giờ mang tính chất hướng dẫn, giới thiệu và


đánh giá nhiều hơn là giảng dạy, ghi chép. Điều này địi hỏi giảng viên phải
ln cập nhật kiến thức, nắm bắt các tư liệu liên quan đến môn học, liên hệ
thực tiễn, đảm bảo nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội.
Vai trò của người học: học chế tín chỉ u cầu người học phải có tính
chủ động, tích cực, xây dựng kế hoạch học tập cho riêng mình. Việc tự học, tự
nghiên cứu phải được quan tâm và thực hiện một cách tự giác.
Học tập theo học chế tín chỉ địi hỏi SV phải nắm chắc Qui chế đào tạo
và được tư vấn đầy đủ, để lập được kế hoạch học tập thật phù hợp với điều
kiện và năng lực cụ thể của mình. Nhưng điều quan trọng hơn là SV phải tiếp
cận được với phương pháp học tập chủ động, lấy tự học, tự nghiên cứu làm
chính, để đáp ứng yêu cầu của đào tạo và quan điểm học tập suốt đời. Đào tạo
theo học chế tín chỉ mà Qui chế đào tạo là cơ sở để vận hành nó ln tạo điều
kiện tốt nhất cho người học phát huy cao độ năng lực của bản thân.
Đào tạo theo học chế tín chỉ địi hỏi sinh viên phải tự học tập, nghiên
cứu nhiều hơn; sinh viên chỉ có 30% thời gian ở trên lớp, còn lại là SV phải tự
học, tự nghiên cứu.
Đối với hình thức đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải hình dung và định

hướng ra tất cả các yêu cầu đối với bản thân trong từng giai đoạn cũng như
trong suốt quá trình học tập của mình trong trường; chủ động lên kế hoạch và
thực hiện việc học tập dựa vào năng lực và điều kiện của mình làm chủ thời
gian và cơng việc. Học chế tín chỉ địi hỏi ở sinh viên rất cao, đặc biệt là tính
độc lập được thể hiện trong quản lý hoạt động của họ, trong việc rèn luyện
nhân cách.
Trong đào tạo tín chỉ, tính chủ động và tính tự giác là hai yếu tố được
đề cao. Sinh viên chủ động thiết kế lộ trình tích lũy kiến thức của mình; chủ
động trong việc lựa chọn giảng viên cũng như chủ động trong việc tự học tập
của mình, tự nghiên cứu, rèn luyện.


1.4. YÊU CẦU QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO HỌC CHẾ
TÍN CHỈ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.4.1. Hướng dẫn việc xây dựng kế hoạch học tập của SV theo học chế
tín chỉ
Xây dựng kế hoạch học tập của SV là việc làm khơng thể thiếu được
trong q trình học tập theo HCTC tại trường đại học. Xây dựng kế hoạch học
tập phù hợp cho mỗi SV là yếu tố rất quan trọng góp phần nâng cao chất
lượng học tập.
SV xây dựng kế hoạch học tập cho riêng mình dưới sự tư giúp đỡ và tư
vấn của cố vấn học tập. Kế hoạch học tập phải được thiết kế một cách khoa
học đảm bảo phù hợp với yêu cầu đào tạo tín chỉ hiện nay, điều kiện, khả
năng của bản thân SV. Kế hoạch học tập giúp SV thực hiện quá trình học tập
của mình chủ động, khoa học và hiệu quả.
Kế hoạch học tập phải đảm bảo tính khả thi và khoa học, cơng việc
được sắp xếp theo một trình tự nhất định, không chồng chéo nhau và nhất là
cần phải tuân theo kế hoạch của nhà trường. Kế hoạch học tập của mỗi cá
nhân SV phải bao gồm các nội dung với các yêu cầu cụ thể và thời gian phải
được phân bổ hợp lý để SV có thể đạt được mục tiêu học tập của mình. Việc

xây dựng kế hoạch học tập là do chính bản thân SV làm.
Kế hoạch học tập của SV được xây dựng một cách rõ ràng, cụ thể thì
rất thuận lợi cho việc đánh giá mức độ hồn thành cơng việc và mức độ đạt
được mục tiêu học tập. Kế hoạch học tập được thể hiện bằng thời gian biểu
theo từng ngày trong từng học kỳ . Để SV thực hiện tốt được điều này, phải
có sự hỗ trợ giúp đỡ từ phía nhà trường.
Nhà trường cần phải hướng dẫn cụ thể cho SV cách thức xây dựng kế
hoạch học tập phù hợp với khả năng, điều kiện của SV cũng như yêu cầu đào
tạo tín chỉ của trường hiện nay; gợi ý nội dung, thời gian thực hiện từng học


phần của từng học kỳ cụ thể; đưa ra một số phương pháp, hình thức học tập
để SV lựa chọn sao cho phù hợp với mình; đảm bảo các điều kiện phục vụ
cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập của SV; bố trí cố vấn học
tập thích hợp để tận tình giúp đỡ SV hồn thành tốt kế hoạch học tập nhằm
nâng cao chất lượng học tập của SV.
1.4.2. Kế hoạch hóa chương trình học tập
Chương trình học phải được hoạch định, xây dựng một cách khoa học
và mang tính năng động để thỏa mãn yếu tố đi trước của tri thức của đào tạo,
nhưng vừa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của phía tuyển dụng nguồn nhân
lực.
Chương trình phải thể hiện tính khoa học, ổn định và định hướng nghề
nghiệp cho sinh viên.
Nội dung chương trình của các ngành phải được cơng khai hóa bằng
việc thiết kế lịch giảng dạy cho từng học kỳ, năm học. Mỗi học kỳ cần đảm
bảo tỷ lệ thích ứng cho việc học cả học phần bắt buộc và học phần tự chọn đối
sinh viên.
Chương trình đào tạo đại học, cao đẳng thể hiện mục tiêu, nội dung,
phương pháp đào tạo và cách thức đánh giá kết quả đào tạo trong tồn khóa
học ở mỗi trình độ. Chương trình đào tạo của mỗi ngành hoặc chuyên ngành

do các trường xây dựng trên cơ sở chương trình khung do Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo qui định Giám đốc/ Hiệu trưởng phê duyệt.
Mỗi chương trình gắn với một ngành (kiểu đơn ngành) hoặc với một
vài ngành (kiểu song ngành; ngành chính- ngành phụ; kiểu 2 văn bằng).
Chương trình được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức:
giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp.
Khối kiến thức giáo dục đại cương gồm các học phần thuộc các lĩnh
vực : khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và toán, ngoại ngữ, giáo


×