Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 60 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN KHANG

PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG CON ĐƯỜNG
TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L

HÀ NỘI, (2018)

1


MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................5
3. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................6
II.

PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................6

Chương 1 Những vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại và trọng tài
thương mại ........................................................................................................6
1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp thương mại ....................................6
1.1. Khái niệm.................................................................................................6


1.2. Đặc điểm ..................................................................................................7
2. Khái niệm và bản chất của trọng tài thương mại ...................................9
2.1. Khái niệm.................................................................................................9
2.2. Bản chất của trọng tài ..........................................................................10
2.2.1. Trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp ...........10
2.2.2. Trọng tài thương mại là một hình thức giải quyết tranh chấp ........11
3. Các hình thức tổ chức trọng tài ..............................................................12
3.1. Trọng tài vụ việc ( trọng tài ad-hoc) ...................................................13
3.2. Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế) .......................................14
4. Phân biệt trọng tài và tòa án ...................................................................16
4.1. Tính chất pháp lý ..................................................................................16
4.2. Thẩm quyền ...........................................................................................16
4.3. Các giai đoạn tố tụng ............................................................................17
4.4. Điều kiện khởi kiện ...............................................................................17
4.5. Nguyên tắc xét xử tập thể.....................................................................17
4.6. Tính cơng khai của hoạt động tố tụng ................................................18
4.7. Tính mềm dẻo, linh hoạt trong thủ tục tố tụng..................................18

2


5. Những ưu thế của giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường
trọng tài ...........................................................................................................18
Chương 2. Các quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam 20
1. Những quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại ..........................20
1.1. Hình thức thỏa thuận ...........................................................................20
1.2. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu ...............................................................21
2. Các nguyên tắc của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài23
2.1. Nguyên tắc thỏa thuận..........................................................................23
2.2. Nguyên tắc độc lập ................................................................................24

2.3. Nguyên tắc công bằng...........................................................................25
2.4. Tôn trọng sự thỏa thuận của các bên..................................................26
2.5. Nguyên tắc giải quyết một lần .............................................................27
3. Tiêu chuẩn trọng tài viên ........................................................................28
4. Thủ tục tố tụng trọng tài thương mại ....................................................31
5. Hiệu lực phán quyết trọng tài thương mại ............................................33
6. Thi hành phán quyết trọng tài thương mại ...........................................34
7. Sự hỗ trợ của tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài40
7.1. Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ ........................................................40
7.2. Tòa án hỗ trợ triệu tập người làm chứng ...........................................42
7.3. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định của tịa án.43
7.4. Tịa án cơng nhận và cho thi hành bản án của trọng tài nước ngoài45
Chương 3 Thực tiễn áp dụng luật trọng tài thương mại và kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động trọng tài thương mại tại Việt Nam .............46
1. Thực tiến áp dụng luật trọng tài thương mại tại Việt Nam và kinh
nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.....................................................46
1.1. Thực tiễn áp dụng luật trọng tài thương mại tại Việt Nam .............46
1.1.1. Trọng tài viên .....................................................................................46
1.1.2. Vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với trọng tài ................47
1.1.3. Phạm vi điều chỉnh của Luật TTTM ...............................................47
3


1.2. Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài
thương mại tại Việt Nam ...............................................................................49
1.2.1. Tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của các trọng tài viên
nước ngoài và luật sư nước ngoài trong tố tụng trọngtài ...........................49
1.2.2. Cần có tịa chun trách với đội ngũ thẩm phán chuyên sâu về lĩnh
vực trọng tài ....................................................................................................50
1.2.3. Tăng cường năng lực của đội ngũ Trọng tài viên, đẩy mạnh đào tạo

luật trọngtài ....................................................................................................51
1.2.4. Cho phép công bố một phần phán quyết trọng tài nếu các bên tranh
chấp khơng phảnđối .......................................................................................52
1.2.5. Xây dựng các chương trình hợp tác quốctế ......................................53
1.2.6. Tăng cường năng lực tổ chức và hoạt động của các tổ chức trọngtài
54
1.2.7. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa Bộ tư pháp
với Tòa án và cơ quan thi hành án dânsự ....................................................54
1.2.8. Đảm bảo việc tuân thủ Công ước New York 1958 về công nhận và cho
thi hành quyết định trọng tài nước ngồi ....................................................55

I.

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đang ngày càng phát
triển. Giao dịch thương mại ngày càng phổ biến và đa dạng cũng là lúc tranh chấp
thương mại xảy ra nhiều hơn. Thật vậy, các bên khi tham gia các giao dịch thương
mại đã rất cẩn trọng để tránh xảy ra tranh chấp nhưng khơng thể chắc chắn rằng nó
khơng xảy ra.
Vì vậy, việc các thương nhân dự trù trước cho mình những phương án giải

quyết khi có tranh chấp xảy ra là vơ cùng cần thiết. Đi cùng đó là nhu cầu đa dạng
4


hóa những biện pháp giải quyết tranh chấp. Trong số đó giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại là phương pháp ngày càng được nhiều thương nhân
trên toàn thế giới sử dụng. Và thực tiễn đã chứng minh, trọng tài thương mại sẽ
giúp rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí, đơn giản hóa thủ tục, bảo đảm được bí

mật kinh doanh,... cho thương nhân.
Tuy nhiên, nhiều thương nhân Việt Nam còn chưa đánh giá đúng vai trò và
tầm quan trọng của phương pháp trọng tài thương mại, nên khi ký kết thường
không chú ý đến việc thỏa thuận phương thức trọng tài hoặc bỏ qua nó. Bên cạnh
đó, pháp luật về trọng tài thương mại còn nhiều thiếu sót, khó hiểu dẫn đến việc
áp dụng chưa hiệu quả.
Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài : “Pháp luật giải quyết tranh chấp thương
mại bằng con đường trọng tài ở Việt Nam”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các quy phạm pháp luật về tranh chấp
thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Phạm vi nghiên cứu: khóa luận chỉ nghiên cứu trong phạm vi các quy phạm
pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại của Việt Nam
3. Mục tiêu nghiên cứu
Khóa luận đi sâu nghiên cứu phương pháp giải quyết tranh chấp thương mại
bằng con đường trọng tài thương mại. Cụ thể khóa luận sẽ phân tích, làm rõ: khái
niệm, đặc điểm của tranh chấp thương mại, cũng như phương pháp giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại và quy định của Luật Việt Nam về trọng tài
thương mại. Trên cơ sở đó, đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật tại Việt Nam
và một số quốc gia trên thế giới để đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
5


4.

Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những yêu cầu và mục đích đề tài đề ra, trong q trình nghiên

cứu, khóa luận dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac

Lênin; bên cạnh đó có sử dụng các phương pháp khác như phân tích – tổng hợp,
phương pháp luật học so sánh và phương pháp thu thập thơng tin…
5.

Kết cấu khóa luận
Với những nội dung như trên, kết cấu khóa luận sẽ gồm 3 chương:

Chương 1 Những vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại và trọng tài thương
mại
Chương 2 Các quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam
Chương 3 Thực tiễn áp dụng luật trọng tài thương mại và kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại tại Việt Nam

II.

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1 Những vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại và trọng tài
thương mại
1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp thương mại
1.1.

Khái niệm

Theo từ điển Black’s Law tranh chấp là sự mâu thuẫn hoặc bất đồng về các
yêu cầu hay quyền lợi, sự đòi hỏi về yêu cầu hay quyền lợi từ một bên được đáp
lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngược từ bên kia.
Vậy, tranh chấp trong hoạt động thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng
giữa các bên tham gia quan hệ thương mại mà chủ yếu là liên quan đến việc thực
hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng.

6


Tranh chấp thương mại thường có các yếu tố sau: có quan hệ thương mại tồn
tại giữa các bên tranh chấp; có sự vi phạm nghĩa vụ của một bên làm ảnh hưởng
tới quyền và lợi ích của bên kia và sự bất đồng quan điểm của các bên về sự vi
phạm hoặc việc xử lý hậu quả phát sinh từ vi phạm. Tranh chấp này thường có
yếu tố tài sản, gắn liền với lợi ích của các bên tranh chấp và phát sinh trực tiếp từ
quan hệ hợp đồng, vì vậy các bên ln có quyền tự định đoạt và giải quyết theo
nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận.
1.2.

Đặc điểm

Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. Mâu thuẫn được
hiểu là trạng thái xung đột, đối xứng nhau về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tranh
chấp. Quan hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là
điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại, các bên
vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề ra. Do
đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu. Các quan hệ thương mại có bản chất là các
quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh
tế của các bên. Thơng thường, những mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm: Mua bán hàng hoá;
cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí gửi; thuê, cho thuê, thuê mua;
xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt,
đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường
hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác. Tranh chấp về quyền

sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có
mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa
7


các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Thứ hai, những tranh chấp phải phát sinh từ hoạt động thương mại. Căn cứ
phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp
luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có vi
phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi
phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Tranh
chấp thương mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác.
Thứ ba, các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh
giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân) với nhau. Ngoài thương
nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong những trường hợp nhất
định, các cá nhân, tổ chức khác (khơng phải là thương nhân) cũng có thể là chủ
thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao dịch bên khơng có mục đích sinh
lợi chọn áp dụng luật thương mại. Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích
sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động
thương mại thuần túy, nhưng bên khơng nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng
luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh
chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp thương
mại. Một quy tắc được pháp luật của Pháp và nhiều quốc gia áp dụng để giải quyết
loại tranh chấp này đó là căn cứ vào bị đơn là thương nhân hay không phải là
thương nhân. Nếu bị đơn là thương nhân thì ngun đơn (bên có hành vi dân sự)

có thể chọn Tịa Thương mại hoặc Tòa Dân sự để giải quyết vụ tranh chấp. Trường
8


hợp ngun đơn chọn Tịa Thương mại thì các quy định khắt khe hơn của luật
thương mại được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp. Ngược lại, bị đơn khơng
phải là thương nhân thì ngun đơn (bên có hành vi thương mại) chỉ có quyền
kiện ra Tịa Dân sự và luật dân sự được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp mà
các quy định của luật thương mại không thể áp dụng cho đối phương không phải
là thương nhân. Dựa trên những căn cứ pháp lý khác nhau như: Phạm vi lãnh thổ,
số lượng các bên tranh chấp, căn cứ vào lĩnh vực tranh chấp, quá trình thực hiện,
thời điểm phát sinh tranh chấp, tranh chấp thương mại được chia thành các loại
tranh chấp khác nhau. Tranh chấp thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu
khách quan của nền kinh tế thị trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi
hỏi cần phải được giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong
hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội.

2. Khái niệm và bản chất của trọng tài thương mại
2.1.

Khái niệm

Phương pháp trọng tài đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phổ quát trong cộng
đồng thương nhân trên toàn thế giới. Với tầm quan trọng đó, trọng tài thương mại
được nghiên cứu trên nhiều mặt khác nhau trong khoa học pháp lý. Cách tiếp cận
chủ yếu của hệ thống các quy phạm pháp luật về trọng tài của các quốc gia là coi
nó là một phương thức giải quyết tranh chấp.
Theo Luật mẫu UNCITRAL quy định : “ Trọng tài nghĩa là mọi hình thức
của trọng tài có hoặc khơng có sự giám sát của tổ chức”

Theo Hội đồng trọng tài Mỹ ( AAA ) quy định : Trọng tài là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan
9


xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các
bên tranh chấp phải thi hành”
Theo từ điển Black’s Law : “Trọng tài là q trình giải quyết tranh chấp theo
đó bên thứ ba trung lập (trọng tài viên) ra phán quyết sau khi tất cả các bên tranh
chấp đã trình bày ý kiến, quan điểm của mình về vụ việc. Trong trường hợp trọng
tài tự nguyện, các bên tranh chấp là người chọn lựa trọng tài viên và trọng tài viên
này là người có quyền ra phán quyết. Phán quyết có hiệu lực bắt buộc thi hành
dối với các bên tranh chấp.”
Tại Việt Nam, theo quy định của khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại
năm 2010 (“Luật TTTM”): “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh
chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”.
Bên cạnh đó, trọng tài với cách tiếp cận là một cơ quan giải quyết tranh chấp
cũng được giới luật học công nhận. Theo từ điển tiếng Việt thì : “Trọng tài là
người được các bên đối lập cử ra giải quyết, phân xử các vụ tranh chấp kinh tế”
Như vậy, tuy có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về trọng tài thương mại,
nhưng chung lại vẫn theo hai phương diện. Thứ nhất, trọng tài thương mại là một
cơ quan giải quyêt tranh chấp. Thứ hai, trọng tài thương mại là một phương pháp
giải quyết tranh chấp.
2.2.

Bản chất của trọng tài

2.2.1. Trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp
Trọng tài thương mại là một cơ quan giải quyết tranh chấp hay cơ quan tài
phán trong hoạt động thương mại. Với những quốc gia kinh tế phát triển, trọng tài

giống như một cơ quan tài phán độc lập và tồn tại song song với cơ quan tòa án.
Thương mại suy cho cùng vẫn dựa trên nền tảng dân sự, vì vậy pháp luật sẽ tơn
trọng quyền thỏa thuận của các bên, khi có tranh chấp các bên sẽ được quyền chọn
10


trọng tài hay tòa án làm cơ quan giải quyết. Trọng tài thương mại có một số đặc
trưng sau:
Thứ nhất, trọng tài thương mại là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp được
thành lập ra để giải quyết tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực thương mại; một ngoại
lệ khác, trọng tài vụ việc thì trọng tài là một tổ chức được lập ra để giải quyết
tranh chấp của các bên và tự chấm dứt khi giải quyết xong tranh chấp. Trọng tài
thương mại tồn tại song song và không do cơ quan nhà nước lập nên sẽ tự hoạt
động với ngân sách của mình. Từ đó, những trọng tài viên hoạt động trong tổ chức
cũng không được nhà nước chi trả lương.
Thứ hai, trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi
các bên thỏa thận. Nếu khơng có hỏa thuận của các bên (trước hoặc sau tranh
chấp) hoặc sự thỏa thuận vơ hiệu thì trọng tài thương mại khơng có thẩm quyền
giải quyết. Vì vậy, chúng ta hồn tồn có thể nói chính các bên chủ thể là người
trao quyền tài phán cho tổ chức trọng tài.
Thứ ba, vì khơng phải do cơ quan nhà nước lập ra nên những phán quyết
của trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, trọng tài được trao
quyền bởi các bên đương sự nên phán quyết sẽ mang tính tài phán của cơ quan có
thẩm quyền xét xử, vừa mang ý chí của các bên. Từ đó, phán quyết này cũng chỉ
có giá trị áp dụng đối với hai bên và khi một trong hai bên khơng thực hiện thì sẽ
khơng có cơ quan cưỡng chế thi hành (Tịa án thì có cơ quan thi hành án để buộc
thi hành).
Vậy, trọng tài thương mại là một cơ quan tài phán, tồn tại độc lập, song
song với Tịa án và có thẩm quyền tài phán khi được các bên lựa chọn.
2.2.2. Trọng tài thương mại là một hình thức giải quyết tranh chấp


11


Khi có tranh chấp xảy ra trong kinh doanh thương mại, có nhiều phương
pháp thương nhân có thể lựa chọn như: thỏa thuận, hòa giải, trọng tài thương mại
và tòa án. Nhưng trọng tài và tịa án khơng những khơng mâu thuẫn mà còn bổ
trợ cho nhau, để phương pháp trọng tài thương mại được thực thi một cách triệt
để thì cần có sự hỗ trợ cuối cùng của tịa án. Trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp, trong đó các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải
quyết tranh chấp cho trọng tài; bằng việc dựa trên những tình tiết khách quan,
trọng tài sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng và quyết đình này có giá trị bắt buộc thi
hành đối với các bên. Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp, trọng tài
thương mại có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đây là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên
thứ ba, có thể là một tổ chức hoặc cá nhân. Họ được các bên thỏa thuận lựa chọn
để đứng ra giải quyết tranh chấp, độc lập giữa các bên và đưa ra phán quyết buộc
các bên phải áp dụng
Thứ hai, trọng tài tuy là một phương thức ngồi tịa án nhưng cũng có
những thủ tục tố tụng chặt chẽ. Khi thành lập và hoạt động, các tổ chức trọng tài
thường trực sẽ có quy định riêng về thủ tục mà các trọng tài khi giải quyết tranh
chấp phải tuân theo. Còn đối với trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận quy
trình riêng và tất cả các bên (bao gồm cả trọng tài viên) phải thuân thủ đúng thủ
tục đã đặt ra.
Thứ ba, kết quả của việc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp trọng tài
mang tính chung thẩm, vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận (các bên thỏa thuận về luật
áp dụng, trình tự tố tụng, trọng tài viên...) vừa mang tính tài phán (có giá trị bắt
buộc thi hành).
3. Các hình thức tổ chức trọng tài
12



Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được biết đến
với hai hình thức là trọng tài thường trực (trọng tài quy chế) và trọng tài vụ việc
(trọng tài ad-hoc).
3.1.

Trọng tài vụ việc ( trọng tài ad-hoc)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của các

bên đương sự để giải quyết tranh chấp và tự giải thể khi hoàn thành cơng việc.
Tính chất vụ việc của hình thức này được thể hiện bởi một số đặc điểm sau :
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được các bên thỏa thuận khi có tranh chấp
xảy ra và tự giải thể khi xong việc.
Thứ hai, trọng tài vụ việc khơng có một bộ máy điều hành cụ thể, khơng
có danh sách trọng tài riêng và khơng có trụ sở chính. Trọng tài viên được các bên
lựa chọn có thể nằm trong bất kỳ tổ chức trọng tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc khơng có quy tắc tố tụng, quy trình tố tụng dành
riêng cho mình mà thường là do các bên thỏa thuận lựa chọn. Các bên có thể lựa
chọn những quy trình giải quyết tranh chấp của những tổ chức uy tín trong nước
hoặc trên thế giới để trọng tài vụ việc áp dụng và đưa ra phán quyết
Vậy nên, khi tiến hành xét xử, trọng tài viên không bị lệ thuộc vào quy tắc
tố tụng nào, nhưng vẫn phải đảm bảo những nguyên tắc chung như khách quan,
không trái luật và đạo đức xã hội. Và ngay cả bản thân các trọng tài viên được lựa
chọn cũng không hề bị giới hạn trong phạm vi nào, miễn sao việc thỏa thuận lựa
chọn đó khơng vi phạm pháp luật hiện hành.
Phương thức trọng tài vụ việc chỉ được nước ta ghi nhận khi Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003 ra đời. Với sự linh hoạt của mình, trọng tài vụ việc
làm tăng quyền tự định đoạt, giảm chi phí tố tụng và thời gian giải quyết vụ việc
cho các bên đương sự. Bên cạnh đó, trọng tài vụ việc sẽ bị phụ thuộc vào thiện

13


chí của các bên. Trong q trình tố tụng, nếu một bên khơng thiện chí thì nguy cơ
bị trì hỗn là rất cao. Mặt khác, sẽ khơng có tổ chức nào hỗ trợ và giám sát quá
trình tố tụng mà chủ yếu phụ thuộc vào khả năng của trọng tài viên tham gia giải
quyết tranh chấp.
3.2.

Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế)
Trọng tài thường trực là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường

xuyên, có điều lệ, quy tắc tố tụng riêng. Hình thức này được tổ chức dưới một số
dạng như : trung tâm trọng tài, hiệp hội trọng tài. Một số tổ chức trọng tài nổi
tiếng trên thế giới có thể kể đến như : Tòa án trọng tài quốc tế (IAC), Hiệp hội
trọng tài Mỹ (AAA), Trọng tài quốc tế Singapore, Trọng tài quốc tế Hồng Kong
và ở Việt Nam thì có Trọng tài quốc tế Việt Nam – VIAC. Hình thức phổ biến
nhất vẫn là trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài có một số đặc trưng như:
Thứ nhất, trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân và độc lập với nhau.
Giữa các bên không tồn tài quan hệ phân cấp hành chính theo cả chiều ngang và
chiều dọc.
Thứ hai, trung tâm trọng tài không nằm trong hệ thống và chỉ chịu sự quản
lý của cơ quan nhà nước. Nó được hình thành do các trọng tài viên, sau đó được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Trung tâm trọng tài hoạt động theo
nguyên tắc tự trang trải kinh phí hoạt động dựa vào nguồn vốn, nguồn thu từ các
vụ giải quyết tranh chấp. Nhà nước chỉ quản lý các trung tâm trọng tài bằng việc
tạo ra những hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của trung tâm trọng
tài; cấp , thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt
động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc
không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định

trọng tài...
14


Thứ ba, bộ máy của tổ chức trọng tài đơn giản. Bao gồm: Ban điều hành gồm
có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư
ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử. Và các trọng tài viên
trong danh sách của trung tâm.
Thứ tư, trung tâm trọng tài tự quyết định về một lĩnh vực hoạt động và có
quy tắc tố tụng riêng. Cụ thể:
- Trung tâm trọng tài tự xây dựng quy tắc tố tụng riêng và thường dựa trên
cơ sở là một số bản quy tắc về trọng tài hoặc một số công ước có liên
quan.
- Mỗi trung tâm trọng tài với tư cách là một pháp nhân sẽ có điều lệ riêng.
Cùng với quy tắc tố tụng, khi giải quyết tranh chấp trọng tài viên chỉ cần
tuân thủ điều lệ, quy tắc tố tụng và không vi phạm pháp luật hiện hành,
đạo đức xã hội.
- Mỗi trung tâm trọng tài sẽ tự chọn cho mình một lĩnh vực hoạt động phụ
thuộc vào năng lực của những trọng tài viên, bên cạnh đó hồn tồn có
thể thay đổi dưới sự chấp nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Cuối cùng, q trình giải quyết tranh chấp của tổ chức được tiến hành bởi
các trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia
giải quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trong danh sách trọng tài viên của trung
tâm. Vậy nên, hoạt động xét xử của trung tâm trong tài chỉ được tiến hành bởi các
trọng tài viên của chính trung tâm.
Ưu điểm lớn nhất của trọng tài thường trực so với trọng tài vụ việc là có một
quy tắc tố tụng riêng biệt. Các bên đương sự có thể tìm hiểu và chọn cho mình
phương thức tố tụng sao cho có lợi nhất cho mình. Bên cạnh đó, các trung tâm
trọng tài thường có sự hỗ trợ của các chuyên gia trong quá trình giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, trọng tài thường trực cũng có hạn chế, lớn nhất là tốn kém nhiều

15


chi phí vì ngồi việc phải trả chi phí thù lao cho trọng tài viên, các bên còn phải
trả thêm các chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các trung tâm trọng
tài. Và thời gian sẽ bị kéo dài bởi trình tự thủ tục tố tụng.
4. Phân biệt trọng tài và tịa án
4.1.

Tính chất pháp lý

Giữa Tịa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất pháp lý. Tịa án
là một cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong q trình tố
tụng, Tịa án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy
trì trật tự cơng cộng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Ngược
lại, trọng tài mang đậm tính chất phi chính phủ. Tính phi chính phủ này thể hiện
ở chỗ, các trung tâm trọng tài không do Nhà nước quyết định thành lập mà do các
trọng tài viên thỏa thuận xin phép Nhà nước để được thành lập. Trung tâm trọng
tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp và không nằm trong cơ cấu thiết chế của bộ máy
Nhà nước. Đối với trọng tài vụ việc, trọng tài cũng hoàn toàn do các bên tự thành
lập và không phải là cơ quan nhà nước. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa Tịa
án và trọng tài đã quyết định sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng Tòa án và tố
tụng trọng tài, ví dụ như tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,…
4.2.

Thẩm quyền

Thẩm quyền theo vụ việc: dưới góc độ thẩm quyền theo vụ việc, Tịa án có
thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài. Tịa án có thẩm quyền giải quyết hầu như
tất cả các loại tranh chấp phát sinh trong cuộc sống như kinh doanh thương mại,

thừa kế, hơn nhân gia đình, trách nhiệm ngồi hợp đồng, v.v. Tịa án cũng có thể
giải quyết những việc dân sự khơng phải là tranh chấp. Trong khi đó, trọng tài chỉ
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại.

16


Thẩm quyền theo lãnh thổ: Đối với Tịa án, khơng phải vụ tranh chấp trong
kinh doanh nào cũng được tòa thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được Tòa án thụ lý
giải quyết khi được chuyển đến Tịa án có thẩm quyền giải quyết. Ngược lại, trong
tố tụng trọng tài không đặt ra vấn đề thẩm quyền về mặt lãnh thổ. Các bên tranh
chấp có quyền lựa chọn bất cứ trung tâm trọng tài nào để giải quyết cho mình theo
ý muốn và sự tín nhiệm của họ. Khi tranh chấp đã được các bên thỏa thuận đưa ra
trung tâm trọng tài nào giải quyết thì trung tâm đó có quyền thụ lý tranh chấp.
Như vậy, về thẩm quyền lãnh thổ thì trọng tài linh động hơn Tịa án.
4.3.

Các giai đoạn tố tụng

Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ xét xử một lần các tranh chấp thương
mại. Phán quyết của trọng tài là quyết định chung thẩm, có hiệu lực thi hành ngay,
không bị kháng cáo, kháng nghị. Trong khi đó, trong tố tụng Tịa án có nhiều cấp
xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm, trong một số trường hợp phán quyết của Tịa án
cịn có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Chính vì thủ
tục tố tụng Tịa án phải thông qua nhiều giai đoạn xét xử khác nhau đôi khi có thể
dẫn tới việc kéo dài thời gian xét xử, đây là điều mà các nhà kinh doanh không
mong muốn.
4.4.

Điều kiện khởi kiện


Đối với tố tụng trọng tài, khi có tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp chỉ
có thể đưa vụ tranh chấp ra trung tâm trọng tài để giải quyết khi đã có sự thỏa
thuận trước về việc này. Điều này có nghĩa là: sự thỏa thuận trọng tài là điều kiện
quyết định quyền khởi kiện của đương sự. Đây là điều mà khơng có trong tố tụng
Tòa án: bất kỳ bên nào bị thiệt hại do hành vi vi phạm của bên cịn lại đều có thể
yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp (trừ khi các bên đã thỏa thuận trọng tài).
4.5.

Nguyên tắc xét xử tập thể
17


Tố tụng trọng tài khơng có ngun tắc xét xử tập thể như trong tố tụng Tòa
án. Việc chọn một hay nhiều trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình là
quyền của các bên tranh chấp, pháp luật khơng can thiệp.
4.6.

Tính cơng khai của hoạt động tố tụng

Trong tố tụng Tòa án, hầu hết các phiên tòa đều được tiến hành công khai,
các bản án thường được công bố rộng rãi trước công chúng. Điều này dẫn đến khó
khăn khi bảo vệ các thơng tin bí mật. Trong khi đó, trong tố tụng trọng tài, mọi
tình tiết và kết quả đều không được công bố công khai nếu không được sự chấp
thuận của các bên. Pháp luật không bắt buộc các phiên họp xét xử trọng tài phải
tiến hành cơng khai. Ngồi ra, quyết định của trọng tài cũng như những căn cứ để
trọng tài ra quyết định sẽ không được công bố công khai trừ khi các bên có u
cầu.
4.7.


Tính mềm dẻo, linh hoạt trong thủ tục tố tụng

Tố tụng trọng tài là một thủ tục hết sức mềm dẻo và linh hoạt. Các thủ tục tố
tụng đơn giản, thuận tiện, đảm bảo thời cơ kinh doanh của các bên tranh chấp, ví
dụ: trong tố tụng trọng tài các bên có thể chọn tổ chức trọng tài, chọn trọng tài
viên mà mình tín nhiệm, các bên cũng có thể chọn địa điểm để tiến hành trọng tài
mà thấy là thuận tiện, thậm chí các bên có thể thỏa thuận với nhau lập ra quy tắc
tố tụng áp dụng cho vụ kiện. Trong khi đó, tố tụng Tịa án bị ràng buộc bởi các
quy tắc tố tụng nghiêm ngặt, phải tuân thủ các yêu cầu nhiều khi mang tính nghi
thức, luật áp dụng được coi là bất di bất dịch.
5. Những ưu thế của giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường
trọng tài
Với cách thức tổ chức, hoạt động của mình, phương thức trọng tài thương
mại có những ưu điểm vượt trội sau:
18


Thứ nhất, khác với tố tụng tòa án được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự
áp dụng để giải quyết tất cả các vụ việc trong lĩnh vực dân sự nói chung, thủ tục
trọng tài áp dụng cho các tranh chấp trong hoạt động thương mại đơn giản hơn,
các bên có thể chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp giúp đẩy
nhanh thời gian giải quyết tranh chấp; thủ tục trọng tài không trải qua nhiều cấp
xét xử như ở toà án, cho nên hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc cho các bên
đương sự.
Thứ hai, các bên đương sự được quyền lựa chọn trọng tài viên giải quyết
tranh chấp, cho phép họ lựa chọn được các chun gia có chun mơn và kinh
nghiệm thực tế về vấn đề tranh chấp, có uy tín trong nghành nghề đảm bảo chất
lượng giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, tính bảo mật thơng tin được coi trọng, trọng tài tơn trọng tính bảo
mật thơng tin cho tồn bộ q trình, phiên họp trọng tài cũng được thực hiện khơng

cơng khai (khác với ngun tắc Tịa án xét xử cơng khai trong tố tụng tịa án). Vậy
nên, các bên trong tranh chấp có thể đảm bảo được uy tín của mình trên thương
trường. Ngày nay, tính bảo mật ngày càng được doanh nghiệp chú ý trong bối
cảnh các vấn đề tài chính của doanh hiện nay rất nhạy cảm với các thông tin liên
quan tới doanh nghiệp (đặc biệt là với các công ty đã niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán).
Thứ tư, thẩm quyền của hội đồng trọng tài được thiết lập dựa trên sự tự
nguyện thỏa thuận của các bên mà không phụ thuộc vào quyền lực nhà nước. Mềm
dẻo hơn, linh hoạt hơn (cho phép sử dụng nhiều ngôn ngữ) phù hợp để giải quyết
các tranh chấp có yếu tố nước ngồi.
Thứ năm, phán quyết của trọng tài có đặc điểm giống như bản án của tịa án
đó chính là mang tính chung thẩm và bắt buộc các bên phải thi hành. Tại Việt
Nam, phán quyết trọng tài VIAC có thể được đưa thẳng tới cơ quan thi hành án
19


(Cục thi hành án dân sự) để được cưỡng chế thi hành; phán quyết trọng tài VIAC
cũng có thể được cho công nhận và thi hành tại hơn 150 quốc gia và vùng lãnh
thổ là thành viên Công ước NewYork về công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài.
Chương 2: Các quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam
1. Những quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại
Thỏa thuận trọng tài thương mại là thỏa thuận bằng văn bản, các bên ký đưa
tất cả hoặc một phần tranh chấp đã có hoặc sẽ có khả năng tranh chấp ra giải quyết
bằng hình thức trọng tài. Trái ngược với tòa án giải quyết mọi tranh chấp phát
sinh trừ khi có thỏa thuận khác của các bên đương sự. Và thỏa thuận là điều kiện
tiên quyết để đưa tranh chấp ra giải quyết bằng phương pháp trọng tài thương mại.
1.1.

Hình thức thỏa thuận


Trong hầu hết các trường hợp thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện dưới
hình thức văn bản. Điều này đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một
chứng cứ xác thực việc các bên muốn giải quyết bằng hình thức trọng tài. Pháp
luật của hầu hết các nước đều quy định thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản,
tuy nhiên điều khoản trọng tài cũng có thể bằng miệng, nhưng rất ít.
Ở Việt Nam, Theo Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại, thoả thuận
trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây
cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex,
thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa
các bên;

20


c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi
chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa
thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương
tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại
của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Thơng thường, có hai cách để thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài:
Thứ nhất, trước khi có tranh chấp, các bên dự đoán trước và sẽ thỏa thuận
hình thức trọng tài ngay từ đầu. Thỏa thuận này sẽ được ghi vào hợp đồng xác lập
mối quan hệ giữa các bên. Vì điều khoản này chỉ mang tính dự liệu nên thường
ngắn gọn, sau này khi xảy ra tranh chấp các bên sẽ bàn sâu hơn

Thứ hai, khi có tranh chấp, các bên thỏa thuận dùng phương pháp trọng tài
để giải quyết tranh chấp của mình. Thỏa thuận này sẽ được lập thành một văn bản
riêng (theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại ) và coi như
gắn liền với hợp đồng chính. Tuy nhiên, trên thực tế hình thức thỏa thuận trọng
tài này thường ít được sử dụng vì sau khi xảy ra tranh chấp, các bên khó lịng mà
ngồi lại để thỏa thuận mà thường tìm đến cơ quan tịa án để giải quyết.
1.2.

Thỏa thuận trọng tài vô hiệu

Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài có liên quan chặt chẽ đến các điều kiện luật
định về năng lực chủ thể tham gia thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền trọng tài, ý chí
tự nguyện của các chủ thể và hình thức của thỏa thuận. Một thỏa thuận trọng tài
có hiệu lực khi đáp ứng được đủ các điều kiện trên theo luật định hay những thỏa
thuận trọng tài vô hiệu khi không đáp ứng đủ những điều kiện đó.
21


Thứ nhất, điều kiện về năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể là vấn đề đầu
tiên và là tiền đề nên rất cần được quan tâm khi tiến hành đàm phán thỏa thuận
trọng tài vì một trong hai bên khơng có năng lực chủ thể sẽ khiến điều khoản này
vơ hiệu. Đối với mỗi chủ thể, sẽ có những quy phạm pháp luật khác nhau để điều
chỉnh sao cho phù hợp với từng loại chủ thể riêng biệt. Chủ thể gồm: cá nhân,
pháp nhân và cơ quan nhà nước và đều có pháp luật riêng để điều chỉnh. Ví dụ:
theo Khoản 1 Điều 16 Bộ Luật Dân sự 2015: “Năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự” và theo Điều
86 Bộ Luật dân sự 2015: “1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả
năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự
của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác; 2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ

thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành
lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký;3. Năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.”
Thứ hai, điều kiện về thẩm quyền của trọng tài. Với nguyên tắc tôn trọng
sự thỏa thuận của các bên và tính ưu việt của mình, trọng tài ngày càng được sử
dụng nhiều hơn khi xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, khơng phải tranh chấp nào cũng
có thể sử dụng phương pháp trọng tài thương mại ngay cả khi các bên đã nhất trí.
Điều đó xảy ra khi pháp luật có quy định cấm sử dụng phương pháp trọng tài
thương mại. Ví dụ : Trong thương mại quốc tế, Việt Nam đã tuyên bố bảo lưu
đối với Công ước New York 1958 tại quyết định số 453 QĐ/CTN của Chủ tịch
nước ngày 17/07/1995, không cho phép thỏa thuận trọng tài đối với tất cả các vấn
đề liên quan đến trật tự công cộng. Các vấn đề phổ biến mà không được áp dụng
trọng tài như : vấn đề liên quan đến nhân thân (năng lực chủ thể, ly hôn...), các
22


hợp đồng ký kết do lừa đảo hoặc vô đạo đức; tranh chấp về phát minh, nhãn hàng
hóa...
Thứ ba, điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài. Điều kiện về hình
thức là điều kiện cơ bản nhất, đó là sự thể hiện ra bên ngoài của các bên đương sự
khi đã thống nhất ý chí. Như đã phân tích tại mục 1.1, hầu hết các quốc gia đều
yêu cầu thỏa thuận trọng tài phải được ký kết bằng văn bản, quy định này đã trở
thành tập quán quốc tế chung bởi chỉ có thể xác lập bằng văn bản mới tạo ra sự
tin tưởng cho các bên, đồng thời là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên khi
phát sinh tranh chấp. Vi phạm về hình thức là một trong những nguyên nhân làm
cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc phán quyết của trọng tài không được cơng
nhận.
Thứ tư, điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể. Suy cho cùng, thỏa thuận
trọng tài là một loại hợp đồng, trong đó ý chí tự nguyện của chủ thể đóng vai trị

là một ngun tắc quan trọng trong quá trình xác lập. Vì vậy, thỏa thuận sẽ khơng
có hiệu lực nếu như khơng có sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể. Trong trường
hợp một bên chứng minh được họ bị ép buộc, lừa dối hoặc nhầm lẫn khi ký thỏa
thuận trọng tài và yêu cầu tịa án tun hủy thỏa thuận thì được chấp thuận.
Vậy nên, thỏa thuận trọng tài là một yếu tố không thể thiếu trong tố tụng
trọng tài thương mại. Thỏa thuận này sẽ loại trừ thẩm quyền xét xử của tịa án
trong đa số các trường hợp. Và có tác dụng ràng buộc các bên bởi nó được xác
lập trên cơ sở ý chí tự nguyện và bình đẳng của chính các bên. Từ đó, nếu khơng
có thỏa thuận trọng tài sẽ khơng có giải quyết tranh chấp bằng phương pháp trọng
tài.
2. Các nguyên tắc của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
2.1.

Nguyên tắc thỏa thuận
23


Luật tư nói chung và luật thương mại nói riêng, việc ý chí của các bên ln
được đặt lên hàng đầu (miễn sao không vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến đạo
đức xã hội ….) trong chế định trọng tài thương mại cũng khơng ngoại lệ. Các bên
tự mình thỏa thuận, thống nhất ý chí sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết
tranh chấp hay trọng tài chỉ có thẩm quyền khi các bên trao cho. Sự thỏa thuận
chỉ được xem là có hiệu lực khi một trong hai bên không bị lừa dối, nhầm lẫn.
Vậy nên, để đi đến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì thỏa thuận
chính là tiền đề.
2.2.

Ngun tắc độc lập
Một số tổ chức trọng tài yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng


họ đang và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kì sự kiện
hoặc chi tiết nào có thể có khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Theo
quy định tại Điều 20 Luật trọng tài thương mại năm 2010, trọng tài viên phải đàm
bảo những điều kiện tối thiểu (phân tích rõ hơn ở mục 3). Tất cả những quy định
trên đều nhằm đảm bảo nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan trọng
việc giải quyết tranh chấp thương mại. Khi tham giải giải quyết tranh chấp thương
mại, trọng tài viên phải thật sự là người thứ ba độc lập, vô tư, khơng liên quan đến
các bên có tranh chấp cũng như khơng có bất kì lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh
chấp đó. Trọng tài viên phải từ chối giải quyết tranh chấp, các bên có quyền yêu
cầu thay đổi Trọng tài viên giải quyết tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
- Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên;
- Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp;
- Có căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, khách quan;

24


- Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi
đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp
thuận bằng văn bản.
Kể từ khi được chọn hoặc được chỉ định, Trọng tài viên phải thông báo
bằng văn bản cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và các bên về những
tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vơ tư của mình. Nếu trọng tài viên
khơng vơ tư, khơng khách quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp , vi phạm
nghĩa vụ của trọng tài viên (trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, cơng bằng của
phán quyết trọng tài) thì quyết định của hội đồng trọng tài có trọng tài viên này sẽ
bị hủy (Điều 68 Luật trọng tài thương mại năm 2010). Trọng tài viên là người
được các bên có tranh chấp lựa chọn giải quyết tranh chấp cho họ. Để giải quyết
tranh chấp một cách cơng bằng, hợp lí, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của

các bên , trọng tài viên phải tuân theo các quy định của pháp luật. Trong nhà nước
pháp quyền mọi người sống và làm việc theo pháp luật, bản thân pháp luật đã hàm
chứa yếu tố công bằng và văn minh. Nhà nước luôn kêu gọi, đề ra khẩu hiệu “sống
và làm việc theo pháp luật” để từ đó mọi người nghiêm chỉnh chấp hành nhưng
không phải lúc nào và ở đâu người dân cũng đều thực hiện đúng theo pháp luật.
Khi giải quyết các tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài, trọng tài viên phải
tuân theo các quy định của pháp luật vì nếu trọng tài viên khơng căn cứ vào pháp
luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có
quyền u cầu thay đổi trọng tài.
2.3.

Nguyên tắc công bằng
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền

và nghĩa vụ của mình Theo khoản 3 Điều 4 Luật trọng tài thương mại thì “Các
bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách
25


×