Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hoà giải ngoài tố tụng theo pháp luật việt nam thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 74 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THẢO

PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG
HỊA GIẢI NGỒI TỐ TỤNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM –
THỰC TIỄN ÁP DỤNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành

: Luật học chất lượng cao

Hệ đào tạo : Chính quy
Khóa học

: QH-2014-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS.GVC NGUYỄN TRỌNG ĐIỆP

Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Khóa luận chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn tron Khóa luận đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.


Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Khóa luận tố nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thảo


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện Khóa luận tốt nghiệp, tơi đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình và vơ cùng q báu từ các thầy cơ, gia đình và bạn
bè.
Tơi xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình, nghiêm túc và khoa
học của TS. Nguyễn Trọng Điệp – Giảng viên Bộ môn Luật Kinh doanh,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các giảng viên, cán bộ
Thư viện Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tơi trong q trình hồn thành Khóa luận.
SINH VIÊN

Nguyễn Thị Thảo


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU. .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HỊA GIẢI NGỒI TỐ TỤNG ..................... 6

1.1.

Khái quát về tranh chấp thương mại ....................................................... 6

1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại........................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại ..................................................... 9
1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại........................................ 10
1.2.

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại .............. 11

1.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 12
1.2.2. Đặc điểm ............................................................................................... 14
1.2.3. Nguyên tắc hòa giải............................................................................... 16
1.2.4. Ưu và nhược điểm ................................................................................. 17
1.2.5. Các phương thức hòa giải ..................................................................... 19
1.2.6. Quy trình hịa giải ................................................................................. 21
1.2.7. Hình thức pháp lý và hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành............... 23
1.2.8. Vai trò, chức năng và ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết tranh chấp
thương mại....................................................................................................... 24
1.2.8.1. Vai trò, chức năng của hòa giải thương mại ..................................... 24
1.2.8.2. Ý nghĩa của hòa giải thương mại ...................................................... 25
1.2.9. Lịch sử hình thành và phát triển chế định hịa giải thương mại ở Việt
Nam

......................................................................................................... 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HỊA GIẢI NGỒI TỐ TỤNG Ở VIỆT
NAM ............................................................................................................... 30

2.1. Quy định pháp luật đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải. ............................................................................................................... 30


2.1.1. Các cam kết quốc tế của Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải. .................................................................................................. 30
2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải. .................................................................................................. 37
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam.. 40
2.3. Một số vấn đề pháp lý tiến bộ theo pháp luật Việt Nam khi giải quyêt
tranh chấp thương mại bằng hòa giải .............................................................. 44
2.4. Một số vấn đề pháp lý hạn chế khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải theo pháp luật Việt Nam.................................................................... 46
2.5. Nguyên nhân những hạn chế cơ bản của pháp luật Việt Nam về giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng. ....................................... 49
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỊA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ........................................................... 53
3.1. Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải thương mại. ........................................................... 53
3.1.1. Cơ sở lý luận. ........................................................................................ 53
3.1.2. Cơ sở thực tiễn. ..................................................................................... 55
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải thương mại ................................................................................ 56
3.3. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam. ........................................................... 57
3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải thương mại. ........................................................................................ 59
3.4.1. Đào tạo bồi dưỡng hòa giải viên ........................................................... 59
3.4.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức về ý nghĩa và

hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. . 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 65


PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất đáng lạc
quan theo cơ chế thị trường. Sau hơn 30 năm đổi mới và mở cửa đã có những
chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển.
Nhưng trong bối cảnh đó thì các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa
dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể
kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức, cá nhân nước ngồi.
Chính vì vậy tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được
quan tâm giải quyết kịp thời; hay nói cách khác, để các quan hệ kinh doanh
thương mại ngày càng phát triển thì cần có một phương thức giải quyết tranh
chấp có hiệu quả.
Pháp luật Việt Nam công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bao gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tịa án. Theo đó khi
xảy ra tranh chấp các bên có thể thương lượng với nhau để giải quyết, trường
hợp khơng thương lượng được thì có thể thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ
ba thông qua hòa giải, trọng tài hoặc tòa án. Mỗi phương thức đều có những
ưu điểm và nhược điểm riêng nhưng nhìn chung đều hướng tới việc giải quyết
xung đột giữa các bên, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các
bên khi tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại.
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp, bên cạnh thương lượng
và trọng tài thì phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải rất phổ biến
trên thế giới, đặc biệt được ưa chuộng tại các quốc gia có nền kinh tế phát
triển do những ưu điểm vượt trội của phương thức này so với phương thức tố
tụng. Tuy nhiên, tại Việt Nam phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa

giải trong hoạt động thương mại còn khá mới và chưa được sử dụng rộng rãi
bởi nhiều nguyên nhân về pháp lý cũng như con người. Trước khi có Nghị
định quy định về trình tự, thủ tục hịa giải thương mại thì việc giải quyết tranh
chấp bằng hịa giải đã được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật
1


chuyên ngành mà chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về trình tự, thủ
tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng hòa giải.
Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, Nghị định về hòa giải thương mại được
“thai nghén” khoảng thời gian 5 năm trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cùng với đó là tình
trạng quá tải của tòa án đối với các tranh chấp có tính kinh doanh, thương mại
đã mở ra một kênh giải quyết tranh chấp mới với nhiều ưu điểm trong hoạt
động kinh doanh, thương mại. Do đó để thúc đẩy sự phát triển và áp dụng
rộng rãi của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, cần
phải có những cơng trình nghiên cứu chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm của
phương thức này cũng như thực tiễn liên quan đến hòa giải tại Việt Nam trên
cơ sở đối chiếu và so sánh, để tăng thêm sự hiểu biết xã hội và chấp nhận
rộng rãi phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải. Với lý
do như trên, tôi chọn đề tài “Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hịa giải ngồi tố tụng theo pháp luật Việt Nam – Thực tiễn áp dụng”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh đều muốn xây dựng
lòng tin, duy trì mối quan hệ kinh tế đối với các đối tác một cách lâu dài để
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, thương mại ổn định và phát triển. Tuy
vậy, đôi khi nhiều lý do chủ quan và khách quan, các mối quan hệ kinh doanh
thương mại giữa các nhà kinh doanh cũng có những bất đồng và mâu thuẫn
dẫn đến các tranh chấp trong việc thực hiện cam kết. Vì thế, giải quyết tranh
chấp thương mại là một vấn đề cấp thiết, hiện nay đã có nhiều cơng trình

nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, bằng
trọng tài, bằng tịa án như khóa luận tốt nghiệp năm 2009 “Giải quyết tranh
chấp thương mại bằng thương lượng” của tác giả Ngô Thế Lập – Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội; khóa luận tốt nghiệp năm 2010 “Hòa giải trong tố
tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả La Phương Na –
trường Đại học Luật Hà Nội; Tập bài giảng về giải quyết tranh chấp thương
2


mại, PGS.TS. Phan Thị Thanh Thủy – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội;
“Hòa giải thương mại và xu hướng phát triển tại Việt Nam”, TS.Nguyễn Thị
Minh, Phó vụ trưởng Vụ bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp, năm 2011; “Hồn
thiện cơ chế hịa giải ở Việt Nam – Bài học kinh nghiệm các nước”, ThS. Lê
Thị Hoàng Thanh, năm 2012; Luận văn thạc sĩ năm 2014 “Xây dựng pháp
luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hịa giải ở Việt
Nam” của tác giả Ngơ Thị Thanh Tuyền – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội; Luận văn Thạc sĩ năm 2014 “Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh
thương mại ở Việt Nam” của tác giả Phạm Lê Mai Ly – Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội;….
Các cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại. Tuy
nhiên các cơng trình trên chủ yếu tiếp cận phương thức hịa giải tranh chấp
kinh doanh thương mại từ góc độ luật thực định, mà hiện nay luật đã có nhiều
thay đổi. Sự ra đời của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải
thương mại và sự đổi mới của hàng loạt các Luật chuyên ngành khác đã làm
vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải vốn đã mới ở Việt
Nam nay lại càng mới hơn. Đề tài nghiên cứu việc quy định phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hịa giải ngồi tố tụng theo pháp luật Việt
Nam hiện hành có những ưu điểm, nhược điểm gì; thực tiễn áp dụng nó ra
sao; từ đó đề xuất các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện và củng cố hệ thống

pháp luật về hòa giải thương mại. Đây là vấn đề cấp thiết trong bối cảnh hội
nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung của phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải theo pháp luật Việt Nam hiện nay để từ
đó có cơ sở xây dựng, hoàn thiện và áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam.
3


3.2. Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất, tìm hiểu và phân tích khái niệm, đặc điểm của tranh chấp
thương mại. Từ đó làm rõ các vấn đề lý luận và nội dung của phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại bằng hịa giải.
Thứ hai, tìm hiểu các quy định pháp luật của Việt Nam cũng như thực
trạng của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng hòa
giải.
Thứ ba, kiến nghị một số giải pháp để xây dựng, hồn thiện và áp dụng
pháp luật có hiệu quả trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung về lý luận, thực tiễn pháp luật
Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam để giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải.
Đối với phương thức hòa giải để giải quyết tranh chấp thì có hịa giải tư
pháp tức là hịa giải gắn liền với hoạt động của Tòa án, Trọng tài (hay còn gọi
là hòa giải trong tố tụng), hòa giải hành chính gắn với hoạt động của các cơ
quan hành chính và hịa giải cơ sở mang tính chất xã hội đối với những tranh
chấp nhỏ. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài thì tác giả tập trung nghiên
cứu về hịa giải ngồi tố tụng – một phương thức để giải quyết tranh chấp gắn

với các tranh chấp trong hoạt động thương mại (hay còn gọi là hòa giải
thương mại).
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của
triết học Marx – Lenin và trên quan điểm, định hướng của Đảng cũng như của
Nhà nước trong việc phát triển kinh tế Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới
Đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học truyền
thống, như phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, đối chiếu, so sánh các
quy phạm pháp luật, các vụ việc thực tiễn giải quyết tranh chấp
6. Tính mới và đóng góp của đề tài
4


Tuy đã có nhiều đề tài nghiên cứu vấn đề hồn thiện hệ thống pháp luật
về hịa giải trong các tranh chấp kinh doanh thương mại, song các đề tài đó
nghiên cứu dựa trên nền tảng những quy định pháp luật cũ về hòa giải thương
mại. Hiện nay Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hịa giải thương mại ra đời, có
những quy định pháp luật mới cần được giải thích có hệ thống phục vụ cho
việc áp dụng hòa giải vào giải quyết các tranh chấp thương mại một cách có
hiệu quả; bên cạnh việc cập nhật những quy định pháp luật mới về hòa giải đề
tài cũng sẽ nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và thực tiễn về pháp
luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng hịa giải. Vì vậy, đề tài “Phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hịa giải ngồi tố tụng theo
pháp luật Việt Nam – thực tiễn áp dụng” về cơ bản là mới. Đề tài sẽ làm rõ
những vấn đề lý luận, khái niệm, đặc điểm, nội dung của phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải theo pháp luật hiện hành. Từ đó
tìm ra những điểm hạn chế trong các quy định pháp luật để góp phần hồn
thiện hơn hệ thống pháp luật về hịa giải cũng như việc áp dụng phương thức
này vào giải quyết các tranh chấp thương mại thực sự có hiệu quả.
7. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì khóa luận tốt nghiệp bao gồm
có ba chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hịa giải ngồi tố tụng
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng
phương thức hịa giải ngồi tố tụng ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hịa
giải ngồi tố tụng trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam.

5


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HỊA GIẢI NGỒI TỐ TỤNG
1.1.Khái qt về tranh chấp thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động
thương mại, đó là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong
hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như
hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả
nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm
nhất định đến hoạt động này cũng như các phương thức giải quyết. Tranh
chấp thương mại (hay tranh chấp kinh doanh thương mại) là thuật ngữ quen
thuộc trong đời sống kinh tế - xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này
mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây
bởi sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen
thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý
của người Việt Nam.
Tranh chấp có thể biểu hiện ở những dạng sau:
- Tranh chấp trong kinh doanh: được diễn ra giữa các chủ thể tham gia

kinh doanh, đó là tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản xuất đến
tiêu thụ trên thị trường hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư: loại tranh chấp
này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BOT, BTO, BT, thực hiện
điều ước quốc tế khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương hoặc đa
phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong
việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại đa phương, ví dụ tranh chấp
giữa Mỹ và EU về nhập khẩu chuối.

6


Có thể nói trong các loại hình tranh chấp trên thì tranh chấp về thương
mại là loại hình tranh chấp phổ biến nhất
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại
là tranh chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước
thành viên WTO khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp
định nào đó của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành
viên khác áp dụng một biện pháp thương mại hoặc không thực hiện một nghĩa
vụ; hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản trở, triệt tiêu hoặc
suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành viên
bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay khơng; hoặc khi có
bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục tiêu hiệp
định. Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp của WTO khi nó
được chính thức thơng báo cho Ban thư ký WTO.
Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là
bất đồng giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ theo các Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được

thơng báo chính thức cho Ban thư ký WTO vì vậy nó có đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại trong WTO là tranh chấp thương mại
quốc tế liên quốc gia, liên chính phủ
Thứ hai, các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế,
các cá nhân, pháp nhân không thể là một bên của tranh chấp
Thứ ba, khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO
Thứ tư, tranh chấp phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO.
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại trong từng giai đoạn là
khác nhau cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Lần đầu tiên khái niệm tranh
chấp thương mại được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997 tại Điều
238 như sau: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không
7


thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”.
Theo đó, nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại
năm 1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương
mại chỉ bao gồm ba nhóm: Hoạt động mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ
thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại. Tranh chấp thương mại và
hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại
bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được
coi là tranh chấp thương mại. Vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong
hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong đó có
cả những Cơng ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công
ước New York năm 1958) gây khơng ít những trở ngại, rắc rối trong thực tiễn
áp dụng và chính sách hội nhập [40].
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 không trực tiếp đưa ra định
nghĩa về tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt

động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm
về thương mại và tranh chấp thương mại của pháp luật Việt Nam với chuẩn
mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế.
Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra một khái niệm về hoạt động
thương mại theo đó khái niệm này mở rộng hoạt động thương mại bao gồm
tất cả mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này cho thấy khái
niệm về hoạt động thương mại đã thể hiện sự tương đồng với khái niệm kinh
doanh trong Luật Doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 cũng như Luật
doanh nghiệp năm 2014.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã liệt kê các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy sử dụng
thuật ngữ các tranh chấp kinh doanh, thương mại nhưng về nội hàm thì tương
đồng với các tranh chấp thương mại theo Luật Thương mại năm 2005.
Từ các tiếp cận trên có thể hiểu: tranh chấp thương mại là những mâu
thuẫn, bất đồng, xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể (có thể là
8


thương nhân hoặc không phải là thương nhân) trong quá trình thực hiện các
hoạt động thương mại (các hoạt động có mục đích sinh lời).
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại
Tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp phát sinh từ những
quan hệ do ngành luật thương mại điều chỉnh, vì vậy nó có những đặc trưng
khác biệt so với tranh chấp dân sự và tranh chấp lao động. Về cơ bản tranh
chấp kinh doanh thương mại có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (trạng thái xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ thương mại. Quan
hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều
kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại,các bên
vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề ra.

Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.
Thứ hai, những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát
sinh từ hoạt động thương mại. Theo đó, tranh chấp thương mại phải là những
mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác.
Thứ ba, về chủ thể, tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp
phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân, pháp nhân) kinh doanh với nhau.
Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong
những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (khơng phải là thương
nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao
dịch trên bên khơng có mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại
[Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005]. Khoa học pháp lý gọi giao dịch
này là giao dịch hỗn hợp. Về bản chất, hoạt động khơng nhằm mục đích sinh
lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động
9


thương mại thuần túy, nhưng bên khơng nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp
dụng luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại
và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh
chấp thương mại [65].
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp thương mại là do các bên trong tranh
chấp tự định đoạt. Điều này thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp có quyền
lựa chọn giải pháp giải quyết tranh chấp phù hợp trong các phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại được pháp luật quy định như thương lượng, hòa
giải, trong tài, Tòa án. Tuy nhiên, các bên vẫn phải đảm bảo tôn trọng lợi ích
của nhau và lợi ích của nhà nước.

Tóm lại, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn phát sinh giữa các
chủ thể (có thể là thương nhân hoặc khơng) trong q trình hoạt động thương
mại. Nó đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan của nền kinh tế thị
trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần phải được giải quyết
một cách minh bạch và hiệu quả để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương
mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Cùng với sự phát triển của
các quan hệ kinh tế dưới sự tác động trực tiếp của quy luật cạnh tranh, tranh
chấp thương mại cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại, gay gắt, phức tạp
hơn về tính chất và quy mơ. Chính vì thế, việc áp dụng hình thức và phương
thức giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách
quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo
đảm nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa, thông qua đó góp phần tạo mơi
trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế.
1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại
Giải quyết tranh chấp thương mại có thể được hiểu là việc lựa chọn các
hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột
lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể
chấp nhận được, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm của
10


mình đối với bên bị vi phạm. Hoặc có thể hiểu giải quyết tranh chấp thương
mại là việc các bên tranh chấp thơng qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến
hành các giải pháp nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi
ích trong hoạt động thương mại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Tranh chấp thương mại xảy ra khơng chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của các bên trong quan hệ thương mại mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của nền kinh tế đất nước. Việc giải quyết tranh chấp thương mại là

yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế đang ngày càng hội
nhập của Việt Nam, nó cần phải đáp ứng những yêu cầu sau: đảm bảo quyền
tự do kinh doanh của các chủ thể; giữ gìn bí mật kinh doanh và uy tín của các
bên tranh chấp; khơng làm hạn chế hay cản trở hoạt động thương mại; nhanh
chóng khơi phục và duy trì các quan hệ hợp tác và tín nhiệm của các bên
trong hoạt động thương mại, đảm bảo chi phí giải quyết tranh chấp là ít tốn
kém nhất.
Nói chung, giải quyết tranh chấp thương mại là quá trình các bên trong
quan hệ tranh chấp tìm ra các phương thức, biện pháp để tháo bỏ những
xung đột, mâu thuẫn về lợi ích của các bên. Q trình giải quyết tranh chấp
này không chỉ giúp các bên bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của họ
mà cịn giúp cho nền kinh tế có cơ hội ngày càng phát triển ổn định.
1.2.Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại
Một nền kinh tế phát triển là một nền kinh tế ở đó tồn tại những phương
thức giải quyết tranh chấp hiệu quả. Bởi lẽ, suy cho cùng khi tham gia vào
môi trường kinh doanh thương mại, các chủ thể đều theo đuổi tìm kiếm mục
tiêu lợi nhuận, mục tiêu này đã làm các chủ thể có những hành vi xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác hoặc có thể do những lý do
khách quan khác mà nảy sinh tranh chấp giữa các bên trong quan hệ kinh
doanh thương mại. Để thúc đẩy sự tham gia của các chủ thể vào hoạt động
kinh doanh thương mại thì cần có cơ chế giải quyết tranh chấp hữu hiệu để
11


chắc chắn rằng quyền lợi của họ sẽ được bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Giải
quyết tranh chấp thương mại một cách kịp thời và hiệu quả đem lại những lợi
ích sau: 1) Tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế; 2) Cho phép
hạn chế đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt
ở mức chi phí thấp nhất; 3) Bảo vệ một cách có hiệu quả quyền, lợi ích hợp
pháp và chính đáng của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ kinh doanh

thương mại, từ đó tạo niềm tin, thực hiện cơng bằng và bình đẳng cho các
doanh nghiệp trong nước và nước ngồi [58].
Có thể nói, hịa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh
chấp hiệu quả đáp ứng nhu cầu trên, hòa giải thương mại đã được sử dụng
phổ biến ở các quốc gia trên thế giới từ nhiều năm nay, đặc biệt là các quốc
gia phát triển. Ở Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp này còn khá
mới và ít được phổ biến như là một phương thức giải quyết thay thế độc lập.
1.2.1. Khái niệm
Tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đã và
đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó,
từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh
hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”. Sự hội nhập này đã
mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế Việt Nam, song bên cạnh đó cũng cịn
phát sinh nhiều khó khăn, đặc biệt là sự phức tạp của các tranh chấp thương
mại. Vì thế, cần phải có những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
nhanh gọn, tiết kiệm và có thể duy trì được mối quan hệ hợp tác giữa các bên.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải (hay hòa giải thương mại) là
một trong những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trên thế giới và
đáp ứng được những yêu cầu về tính hiệu quả như thủ tục nhanh gọn, tiết
kiệm chi phí,… Cùng với thương lượng và trọng tài, hịa giải thương mại
được coi là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thay thế
12


(ADR). Phương thức giải quyết tranh chấp thay thế được hiểu một cách chính
xác những gì mà nó thể hiện đó là phương thức giải quyết tranh chấp thay cho
việc khởi kiện ra tòa [61, tr.196]. Điều này đặt ra câu hỏi là nó thay thế cho
cái gì. Ở đây, “thay thế” hàm nghĩa những khác biệt với hình thức tố tụng của

Tịa án. Ngồi ra, “thay thế” cịn hàm ý có một sự tự do lựa chọn, các bên có
quyền lựa chọn sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khác
như thương lượng, hịa giải,…vì những ưu điểm vượt trội của nó so với
phương thức giải quyết tranh chấp thơng qua Tịa án.
Hịa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiệu
quả, tuy nhiên hiện nay quan niệm về hòa giải còn nhiều vấn đề chưa thống
nhất và vẫn còn nhiều định nghĩa khác nhau về hòa giải, cụ thể như sau:
Theo từ điển Tiếng Việt “Hòa giải là thuyết phục các bên đồng ý chấm
dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” [48, tr.430]. Khái niệm này
đã đề cập đến hành động và mục đích của hịa giải nhưng chưa nêu được các
yếu tố như bản chất, nội dung và chủ thể của hòa giải.
Theo từ điển Luật học Black’s Law định nghĩa “Hòa giải là sự can
thiệp, sự làm trung gian hòa giải, hành vi của người thứ ba làm trung gian
giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh
chấp giữa họ, việc giải quyết tranh chấp thơng qua người trung gian hịa giải
(bên trung lập)” [38. Tr.307]. Định nghĩa này đã nhắc đến chủ thể, bản chất
của hòa giải, khắc phục được một phần hạn chế trong định nghĩa của Từ điển
Tiếng Việt.
Theo định nghĩa của Luật mẫu của Ủy ban Pháp luật thương mại Quốc
tế (UNCITRAL) về hịa giải thương mại thì “Hịa giải là một q trình trong
đó các bên u cầu một hay nhiều bên thứ ba (hòa giải viên) tham gia nỗ lực
hỗ trợ các bên nhằm giải quyết êm thấm tranh chấp phát sinh từ hoặc liên
quan một mối quan hệ trên cơ sở hợp đồng hoặc một mối quan hệ pháp luật
khác. Hịa giải viên khơng có quyền áp đặt các bên phải thực hiện một giải
pháp giải quyết tranh chấp” [Khoản 3 Điều 1].
13


Theo định nghĩa của giáo trình luật thương mại thì “Hòa giải là
phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung

gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải
pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh” [60, tr.441].
Theo giáo trình pháp luật về cạnh tranh và giải quyết thương mại “Hịa
giải là hình thức giải quyết tranh chấp thương mại có sự tham gia của bên
thứ ba với vai trò làm trung gian để giúp các bên có được tiếng nói chung
trong việc giải quyết các bất đồng” [61, tr.323].
Theo Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương mại
định nghĩa “Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm
trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định
này” [Khoản 1 Điều 3].
Một vài quan điểm khác cho rằng hòa giải còn được hiểu ở góc độ rộng
hơn là một q trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với
nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ. Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối
của q trình thương lượng trong đó các bên cố gắng điều hịa những ý kiến
bất đồng thơng qua sự hỗ trợ của bên thứ ba trung lập.
Có thể thấy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hòa giải, nhưng qua
các khái niệm trên có thể hiểu: “Hịa giải thương mại là một phương thức
giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng
thỏa thuận chấp nhận hay chỉ định giữ vai trị trung gian để hỗ trợ cho các
bên tìm kiếm giải pháp thích hợp giúp chấm dứt những mâu thuẫn, xung đột
đang tồn tại giữa các bên”.
1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải có sự
hiện diện của bên thứ ba đóng vai trị là hịa giải viên để trợ giúp các bên tìm
kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp, xung đột. Đây là điểm khác
biệt cơ bản giữa hòa giải và thương lượng vì thương lượng là việc tự giải
14



quyết tranh chấp giữa các bên mà khơng có sự xuất hiện của người thứ ba.
Đồng thời đó cũng là điểm khác biệt với phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài và tịa án, hịa giải viên khơng có quyền phán xét cũng như
không đưa ra bất cứ quyết định hay giải pháp nào ràng buộc các bên tranh
chấp như trọng tài viên và thẩm phán. Hòa giải viên có vai trị là khuyến
khích và trợ giúp các bên đạt được sự thống nhất ý chí và đưa ra quyết định
cuối cùng.
Thứ hai, giống như thương lượng, hòa giải là giải pháp tự nguyện, tùy
thuộc vào sự tự nguyện và thiện ý của các bên tham gia tranh chấp. Tuy
nhiên, q trình hịa giải các bên tranh chấp cũng vẫn chịu sự chi phối nhất
định mang tính thể thức như điều lệ của Trung tâm hòa giải, các quy định cơ
bản của pháp luật về thủ tục hòa giải. Hòa giải là một cơ chế linh hoạt, mềm
dẻo cho các bên tranh chấp bởi khi sử dụng hòa giải để giải quyết tranh chấp,
mối quan hệ giữa các bên thường thân thiện hơn, giữ được quan hệ hợp tác,
làm ăn trong tương lai. Bởi lẽ, khi sử dụng phương thức hịa giải thì khơng có
kẻ thắng, người thua mà là đi tìm giải pháp tối ưu để cả hai cùng thắng. Trong
khi đó, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và tòa án phải thực
hiện theo thủ tục tố tụng do pháp luật quy định, sau khi giải quyết tranh chấp
kết quả sẽ có kẻ thắng người thua nên mối quan hệ giữa các bên có thể trở nên
căng thẳng trong tương lai. Chính vì vậy trong thực tiễn hoạt động thương
mại của các nước phát triển, các doanh nhân có xu hướng lựa chọn cách thức
giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại.
Thứ ba, văn bản về kết quả hòa giải thành được xem xét công nhận
theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tức là khi văn bản hịa giải thành
được cơng nhân bởi Tịa án thì nó có giá trị như một bản án, vì vậy nó có hiệu
lực buộc phải thực hiện.
Từ những đặc điểm trên có thể rút ra được bản chất của hòa giải thương
mại như sau:

15



Hịa giải là q trình các bên đàm phán với nhau về việc giải quyết
tranh chấp với sự trợ giúp của một bên thứ ba độc lập (hòa giải viên) [64,
Tr.103]. Hịa giải khác với thương lượng ở sự có mặt của bên thứ ba và cũng
khác phương thức trọng tài ở chỗ, hịa giải viên khơng có quyền xét xử và ra
phán quyết như trọng tài viên. Vai trò của hịa giải viên trong q trình hịa
giải chỉ dừng lại ở việc khuyến khích và trợ giúp các bên tìm ra một giải pháp
mang tính thực tế mà tất cả các bên liên quan đều có thể chấp nhận sau khi
xem xét, nghiên cứu những lợi ích và nhu cầu của họ.
1.2.3. Nguyên tắc hòa giải
Hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại độc lập với tố tụng tòa án và trọng tài và được tiến hành bởi một cơ quan
có chức năng hịa giải độc lập. Hòa giải thương mại được tiến hành theo
nguyên tắc quy định tại Điều 4 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP như sau:
Thứ nhất, hịa giải mang tính chất tự nguyện, thể hiện ở chỗ các bên tự
nguyện đưa tranh chấp ra hịa giải, khơng bên nào ép buộc bên nào tham gia
vào. Sự tự nguyện được thể hiện bằng việc các bên có thể quyết định quy
trình hịa giải, quyền tự do thỏa thuận về phương pháp, lựa chọn hịa giải viên,
tự do ý chí về các giải pháp giải quyết tranh chấp, thỏa thuận lựa chọn
phương án giải quyết thích hợp, quyền của các bên chấm dứt hịa giải khi
khơng đạt được mục tiêu. Hịa giải viên sẽ cung cấp những nhận định, đánh
giá về nội dung vụ tranh chấp cũng như ý kiến tư vấn về cách thức giải quyết
vụ tranh chấp, nhưng những nhận định và ý kiến của hịa giải viên chỉ có tính
chất tham khảo và khơng có tính chất ràng buộc đối với các bên. Việc các bên
có đi đến thỏa thuận hịa giải hay khơng và nội dung của thỏa thuận đó sẽ do
các bên tự quyết định.
Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ uy tín, các yếu tố bí mật, bí mật kinh doanh
của các bên tranh chấp trong hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại.
Hịa giải là một q trình giải quyết tranh chấp có tính tự nguyện, riêng

tư mà ở đó các bên có thể trao đổi trực tiếp, thẳng thắn với nhau về các tài
16


liệu, chứng cứ liên quan đến tranh chấp trong đó có cả những vấn đề về bí
mật kinh doanh. Trong q trình hịa giải các bên cùng nhau thảo luận về các
phương án khác nhau do hòa giải viên đưa ra, chủ động đưa ra những yêu cầu
hoặc nhượng bộ để đạt tới một giải pháp dung hịa lợi ích của hai bên. Điều
đó giữ gìn được uy tín của mỗi bên vừa duy trì mối quan hệ thương mại lâu
dài, do đó việc bảo tồn bí mật, tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các bên và của
hòa giải viên trong q trình hịa giải là điều vơ cùng quan trọng. Bởi nếu hịa
giải khơng được thì tài liệu, bí mật của các bên sẽ có nguy cơ lộ ra, do vậy các
bên cần có tinh thần hợp tác thân thiện để các bên an tâm tiến hành hòa giải.
Thứ ba, đảm bảo tính khách quan, phù hợp quy định của pháp luật và
các tập quán thương mại quốc tế, không trái thuần phong mỹ tục và đạo đức
xã hội, khơng xâm phạm đến quyền lợi ích của bên thứ ba.
Tính khách quan thể hiện ở chỗ bên thứ ba làm trung gian hòa giải phải
đảm bảo sự tin cậy của các bên với những tư vấn, đề xuất phương án giải
quyết của hòa giải viên. Hòa giải viên không được thể hiện thái độ thiên vị
đối với bất cứ bên tranh chấp nào trong việc điều khiển quá trình hịa giải
cũng như trong việc đưa ra các nhận định hay ý kiến tư vấn. Trong trường
hợp một trong các bên thấy hòa giải viên thiên vị vi phạm nguyên tắc khách
quan, bên đó có quyền yêu cầu thay đổi hòa giải viên hoặc yêu cầu chấm dứt
và rút lui khỏi q trình hịa giải.
Hơn nữa trong q trình hịa giải phải đảm bảo thỏa thuận hịa giải
khơng trái với thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Đặc biệt thỏa thuận hịa
giải cịn khơng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.
Ví dụ: Các quan hệ tranh chấp kinh doanh thương mại giữa các bên có liên
quan trực tiếp đến người tiêu dùng, thì thỏa thuận hịa giải giữa các bên phải
khơng xâm phạm đến quyền lợi chính đáng mà người tiêu dùng được hưởng.

1.2.4. Ưu và nhược điểm
 Về ưu điểm:

17


Thứ nhất, hòa giải thương mại linh hoạt về thủ tục. Hịa giải có thể
được tiến hành trong nhiều mơi trường khác nhau, thủ tục có thể được thỏa
thuận và điều chỉnh cho thích nghi. Tính linh hoạt đem lại lợi thế là các bên
được bày tỏ ý kiến xem quá trình nào thì phù hợp với họ; cho phép có những
điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp và các bên tranh chấp đòi hỏi phải vậy;
tránh khả năng về việc có những yêu cầu về thủ tục kỹ thuật q phức tạp.
Trong hịa giải thường khơng có quy định nào về chứng cứ và cũng khơng có
quy định về kiểm chứng cũng như xem xét về mặt thủ tục.
Thứ hai, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
đáp ứng nhu cầu phổ biến của các nhà kinh doanh là khi tranh chấp phát sinh,
các bên muốn tự thương lượng hoặc thông qua người thứ ba trung lập để giải
quyết tranh chấp theo con đường hữu nghị chứ khơng muốn dựa vào hình
thức tài phán (Tịa án hay Trọng tài) để phân xử các tranh chấp ngay từ ban
đầu. Hòa giải được tiến hành trên cơ sở ý chí tự nguyện của các bên tranh
chấp, khơng ai có thể hiểu rõ mọi tình tiết, ngun nhân tranh chấp bằng
chính các bên tranh chấp, do đó, sẽ có khả năng giải quyết tranh chấp một
cách nhanh chóng. Bên cạnh đó hịa giải đảm bảo sự tham gia đầy đủ, trực
tiếp của các bên, khuyến khích các bên dàn xếp với nhau, bày tỏ nguyện vọng
của mình nên sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian và quan trọng là khi hịa giải
thành, khơng có kẻ thằng người thua như khi giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài hoặc tịa án nên khơng gây ra tình trạng đối đầu, vẫn duy trì được mối
quan hệ hợp tác, làm ăn giữa các bên.
Thứ ba, bên thứ ba là hòa giải viên do các bên lựa chọn nên thường là
những người có trình độ chun mơn cao trong lĩnh vực thương mại. Vì vậy,

họ dễ dàng nắm bắt được nguyện vọng của các bên tranh chấp, từ đó biết cách
làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để giải quyết
tranh chấp một cách thuyết phục và có tính khả thi, cơ hội thành cơng cao.
Ngồi ra, kết quả hịa giải được ghi nhận và chứng kiến bởi người thứ ba nên

18


mức độ tôn trọng và tự nguyện thực hiện các cam kết đạt được trong hòa giải
sẽ cao hơn so với thương lượng.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải đảm bảo sự kín đáo và tính
bảo mật thể hiện ở việc: phiên họp hòa giải được tổ chức kín, khơng cơng
khai, người ngồi chỉ có thể biết được trình tự thủ tục và nội dung nếu được
các bên đồng ý; không công bố công khai nội dung được trao đổi trong phiên
họp; việc công bố điều khoản giải quyết là vấn đề phải được hai bên thỏa
thuận.
Thứ tư, kết quả hòa giải thành khi được một hoặc các bên u cầu tịa
án cơng nhận thì nó có giá trị buộc các bên phải thi hành y như một bản án.
Điều này tránh tình trạng kết quả hịa giải chỉ là trên giấy cịn việc thực thi
hay khơng là quyền của các bên. Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể về việc thi
hành kết quả hòa giải thành khi được tịa án cơng nhận, nhưng về cơ bản bước
đầu đã có một cơ quan có thẩm quyền đứng ra cơng nhận quyết định hịa giải
thành được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
 Về nhược điểm
Tuy hịa giải thương mại có nhiều ưu điểm vượt trội song vẫn còn tồn
tại một số những hạn chế sau. Trong q trình hịa giải vẫn cần sự thiện chí và
hợp tác của các bên, bởi lẽ nếu khơng có sự hợp tác, thấu hiểu nhau thì các
bên có thể tự ý chấm dứt hịa giải vào bất cứ giai đoạn nào. Như vậy khơng
những mục đích hịa giải khơng đạt được mà cịn trì hỗn, kéo dài thời gian
giải quyết tranh chấp có thể gây thiệt hại cho các bên.

1.2.5. Các phương thức hịa giải
Theo thơng lệ chung thì hịa giải được tiến hành cả ngồi tố tụng và
trong tố tụng của tòa án hoặc trọng tài:
Hòa giải trong thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được tiến hành tại Tòa
án, trọng tài khi các cơ quan này tiến hành giải quyết tranh chấp theo đơn kiện
của một bên. Trường hợp hòa giải thành, thẩm phán hoặc trọng tài viên sẽ ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên, quyết định này có hiệu lực
19


và được thi hành như một bản án của tòa án hay phán quyết của trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, hoạt động hòa giải trong tố tụng tại Tòa án được
ghi nhận và quy định trong BLTTDS 2015, từ các Điều 205 đến Điều 213.
Hoạt động hòa giải trong tố tụng tại trọng tài được quy định cụ thể tại Điều 58
Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, như đã chỉ ra trong phạm vi
nghiên cứu đề tài, Khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu về hịa giải ngoài tố tụng
với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập.
Hịa giải ngồi tố tụng là hình thức hịa giải qua bên thứ ba, được các
bên tiến hành trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tài phán như Tòa án
hoặc Trọng tài hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp
ngồi tố tụng. Đối với hịa giải thương mại pháp luật một số quốc gia trên thế
giới coi đây là công việc riêng của các bên nên không điều chỉnh trực tiếp và
chi tiết. Các bên tranh chấp thông tin cho nhau và trình bày quan điểm của
mình, hịa giải viên hướng các bên tham gia vào việc tìm kiếm những giải
pháp thích hợp nhằm loại trừ những ý kiến bất đồng, những xung đột về lợi
ích phát sinh giữa các bên. Sự nhất trí trong giải quyết tranh chấp được thể
hiện bằng văn bản, có sự xác nhận của bên thứ ba hịa giải và có giá trị ràng
buộc với các bên tham gia.
Nếu so sánh phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trong
tài, thì hịa giải ngồi tố tụng cũng có hai phương thức cơ bản là hòa giải vụ

việc và hòa giải quy chế, cụ thể:
Hòa giải vụ việc là phương thức hòa giải mà trong đó việc tổ chức và
giám sát do các bên tự quy định khơng có sự trợ giúp của bất kỳ tổ chức hoặc
người hòa giải thứ ba nào [61, tr.270]. Các bên có thể tự thỏa thuận để xây
dựng trình tự thủ tục hịa giải hoặc thống nhất thỏa thuận lựa chọn Quy tắc
hòa giải của bất kỳ trung tâm hòa giải nào.
Hòa giải quy chế do một tổ chức, hoặc trung tâm hòa giải chuyên
nghiệp, giám sát tố tụng trọng tài tiến hành, phải tuân theo quy tắc hịa giải
riêng của tổ chức hịa giải đó [60, tr.284]. Ví dụ quy tắc hịa giải của Trung
20


×