Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNHVỰC HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.01 KB, 30 trang )

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ TỘI PHẠM HÀNG KHÔNG1

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
-----  -----

BÀI TIỂU LUẬN
Bộ môn: Công pháp quốc tế 2
----------

CHỦ ĐỀ:

PHÁP LUẬT VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH
VỰC HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Hữu Khánh Linh
Nhóm sinh viên: Nhóm 3
Lớp: K41H – Luật học.
Năm học: 2019 - 2020
Huế, tháng 6 năm 2020


PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ TỘI PHẠM HÀNG KHÔNG2

DANH SÁCH NHĨM 3
1.
2.
3.
4.
5.
6.


7.
8.

Trần Phương Trà ( Nhóm trưởng )
Thân Thị Ly Ly ( Thư ký )
Y Lệ Hiêng
Hồ Thị Thiết
Hồ Thị Học
Mai Trung Tín
Lê Văn Hậu
Brol Hum


PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ TỘI PHẠM HÀNG KHÔNG3

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI PHẠM HÀNG
KHƠNG QUỐC TẾ..............................................................................................................7
1.1

Tội phạm hàng khơng quốc tế................................................................................7

1.1.1. Khái niệm tội phạm hàng không quốc tế.............................................................7
1.1.2. Khủng bố hàng không quốc tế............................................................................9
1.1.3. Đặc điểm của tội phạm hàng không quốc tế.....................................................10
1.1.4. Những quy định pháp luật về tội phạm xâm phạm an ninh hàng không dân
dụng quốc tế.................................................................................................................11
1.2. Một số vấn đề lý luận chung về dẫn độ tội phạm................................................12
1.2.1. Khái niệm dẫn độ..............................................................................................12

1.2.2. Đặc điểm của dẫn độ.........................................................................................14
1.2.3. Mục đích, căn cứ của dẫn độ.............................................................................15
1.2.4. Đối tượng bị dẫn độ..........................................................................................16
CHƯƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI PHẠM HÀNG KHÔNG
QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ DẪN ĐỘ LOẠI TỘI PHẠM NÀY...........................................16
2.1. Những quy định về tội phạm trong lĩnh vực hàng không trong một số điều ước
quốc tế.............................................................................................................................. 16
2.1.1. Công ước Tokyo năm 1963 về tội phạm và một số hành vi khác thực hiện
trên tàu bay ……………………………………………………………………….16
2.1.2. Công ước Lahay năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu
bay………………………………………………………………………………...17
2.1.3. Công ước Montreal năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp pháp
chống

lại

an

tồn

hàng

dụng…………………………………………………18

khơng

dân


PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ TỘI PHẠM HÀNG KHÔNG4


2.1.4. Nghị định thư Montreal năm 1988 về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp
pháp

tại

cảng

hàng

không

dân

dụng

quốc

tế……………………………………….19
2.2. Thẩm quyền xét xử tội phạm hàng không quốc tế theo các điều ước quốc tế..........20
2.2.1.

Nguyên

tắc

xác

định


thẩm

quyền…………………………………………..20
2.2.2. Quy định về việc xác định thẩm quyền xét xử đối với tội phạm hàng không
quốc tế trong các điều ước quốc tế về an ninh hàng không dân
dụng…………….21
2.3. Quy định pháp luật về dẫn độ tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế............23
2.3.1. Nguồn của chế định dẫn độ tội phạm………………………………………
23
2.3.2.

Các

nguyên

tắc

pháp

luật

về

dẫn

độ

tội

phạm……………………………..24

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NHỮNG
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI PHẠM VÀ DẪN ĐỘ TỘI PHẠM TRONG LĨNH
VỰC HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM........................................................26
LỜI KẾT............................................................................................................................. 29
DANH MỤC THAM KHẢO..............................................................................................30


PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ TỘI PHẠM HÀNG KHÔNG5

LỜI MỞ ĐẦU
Tồn cầu hóa là một q trình lâu dài và là một xu thế khách quan, có tác động đến
tất cả các mặt của đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Q trình hợp tác quốc tế
ngày càng mạnh mẽ, đa dạng này đã có nhiều tác động tích cực và tiêu cực đến tất cả
quốc gia trên tồn thế giới. Một mặt, tồn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy
phát triển mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội; đem lại tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao cho nhiều vùng. Tuy nhiên, mặt khác, tồn cầu hóa cũng tác động đến nhiều khía
cạnh khác khi hoạt động và đời sống con người trở nên kém an toàn: từ an toàn kinh tế,
tài chính; văn hóa, xã hội; mơi trường và an tồn chính trị. Một trong những vấn đề đó là
sự hình thành và phát triển của tội phạm.
Hiện nay, thế giới đang chứng kiến việc nảy sinh một số loại tội phạm mới có tính
chất ngày càng phức tạp, nguy hiểm hơn; sử dụng những phương tiện phạm tội hiện đại
với nhiều phương thức, thủ đoạn mới hết sức tinh vi. Đặc biệt là những hành vi phạm tội
trong lĩnh vực hàng không quốc tế như: hành vi đe dọa đặt bom, mìn, vũ khí sinh học và
hóa học trên tàu bay đang bay; các hành vi phá hoại tàu bay, cảng hàng không, sân
bay...gây thiệt hại vô cùng to lớn về người, tài sản và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
hoạt động hàng khơng dân dụng quốc tế.
Trước tình hình đó, nhằm ngăn chặn, trừng trị những hành vi phạm tội trong lĩnh
vực này cũng như ngăn chặn người phạm tội bỏ trốn ra nước ngoài nhằm trốn tránh trách
nhiệm hình sự hoặc trốn tránh việc thi hành án của bản thân, các quốc gia trên thế giới đã
nhanh chóng thiết lập một khung pháp luật quốc tế nhằm mục đích ngăn chặn và trừng trị

một cách có hiệu quả loại tội phạm này
Từ lâu cộng đồng quốc tế đã cùng thừa nhận rằng việc truy nã và trừng trị tội
phạm có tính chất quốc tế là nhiệm vụ chung của cả cộng đồng quốc tế chứ không chỉ
riêng của một quốc gia. Việc ngăn ngừa và trừng trị chỉ có hiệu quả đối với tội phạm có
tính chất quốc tế với sự tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế đa dạng của các quốc gia.
Một loạt các điều ước quốc tế chuyên môn được thông qua trong đó có điều chỉnh về vấn
đề tội phạm hàng không quốc tế là minh chứng cho quyết tâm của nhân loại trước sự
bùng phát của loại tội phạm nguy hiểm này. Có thể nói, các điều ước quốc tế đa phương
và song phương tạo cơ sở pháp lý để các quốc gia cùng nhau hợp tác, hỗ trợ nhau trong
cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực hàng
khơng quốc tế nói riêng.


PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ TỘI PHẠM HÀNG KHÔNG6

Bên cạnh đó, các quốc gia đã cùng nhau ký kết những Hiệp định tương trợ tư pháp
về hình sự có những quy phạm quy định về vấn đề dẫn độ tội phạm và Hiệp định về dẫn
độ tội phạm riêng biệt nhằm mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc đấu tranh,
ngăn ngừa và trừng trị kẻ phạm tội.
Riêng đối với Việt Nam, cùng với việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật quốc
gia, Việt Nam đã ký kết một số điều ước quốc tế đa phương liên quan đến cơng tác đấu
tranh phịng, chống tội phạm trong lĩnh vực hàng khơng quốc tế.
Chính vì vậy, trên cương vị là một người học luật, trước những biến động phức tạp
của tình hình tội phạm thế giới, trước những yêu cầu cải cách tư pháp và hợp tác quốc tế
của nước nhà; việc nhận thức thống nhất về vấn đề tội phạm xâm phạm an ninh hàng
không quốc tế và vấn đề dẫn độ tội phạm này trong các pháp luật quốc tế là sự cần thiết
khách quan, đem lại nhiều giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn cho người nghiên cứu về
khoa học pháp lý. Với tất cả những lý do trên, nhóm 3 chúng em đã quyết định lựa chọn
đề tài "Pháp luật về tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế" làm đề tài nghiên cứu
cho bài tiểu luận dưới đây.

Nội dung bài tiểu luận bao gồm 3 chương, xoay quanh các vấn đề lý luận, pháp lý
cơ bản và thực trạng chính về Tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế:

 Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
 Chương 2: Các quy định pháp luật về tội phạm hàng không quốc tế và vấn đề dẫn
độ loại tội phạm này.
 Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định pháp
luật về tội phạm và dẫn độ tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế tại Việt
Nam.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
TỘI PHẠM HÀNG KHƠNG QUỐC TẾ
1.1. Tội phạm hàng khơng quốc tế
1.1.1. Khái niệm
Trước tiên, để có cái nhìn tổng quan về tội phạm hàng không quốc tế, chúng ta
cần đi từ khái niệm tội phạm quốc tế.
Tội phạm quốc tế là những hành vi đặc biệt nguy hiểm, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự, từ đủ 18 tuổi trở lên, thực hiện một cách cố ý, xâm phạm hịa bình an ninh
quốc tế, gây lo ngại cho toàn thể cộng đồng quốc tế.
Tội phạm có tính quốc tế gồm bốn nhóm sau:
+ Nhóm thứ nhất: Các tội xâm phạm tội hợp tác hữu nghị và sự tồn tại bình thường
của các quan hệ quốc tế, bao gồm tội khủng bố, tội cướp máy bay, phương tiện
giao thơng khác…
+ Nhóm thứ hai: Các tội xâm hại môi trường sống của con người, di sản văn hóa của
dân tộc trên thế giới như buôn lậu, buôn bán trái phép chất ma túy, làm và bn
bán tiền giả…
+ Nhóm thứ ba: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người, tội cướp biển, tội
tuyên truyền các xuất bản phẩm đồi trụy…

+ Nhóm thứ tư: Các tội phạm có tính quốc tế khác như phá hoại các cơng trình ngầm
dưới biển, các tội phạm được thực hiện trên máy bay, tàu thủy..
 Từ đó, cụ thể, trên cơ sở thực tiễn và dựa vào các công ước quốc tế về an ninh hàng
không, có thể phân chia các hành vi phạm tội xâm phạm an ninh hàng không dân
dụng quốc tế thành hai loại:
 Loại thứ nhất: Gồm các hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay, gồm:
Một là, hành vi đe dọa của kẻ phạm tội đối với phi hành đoàn hoặc hành khách
bằng vũ khí, bắt thay đổi đường bay, hạ cánh xuống lãnh thổ của nước khác nhằm trốn
chạy khỏi sự truy tìm của nhà nước đối với hành vi phạm tội hoặc trốn chạy khỏi đồng
bọn của chúng.
Hai là, hành vi chiếm đoạt tàu bay nhằm vào lợi ích vật chất hoặc lợi ích kinh tế.
 Loại thứ hai: Gồm các hành vi khác đe dọa an ninh hàng không dân dụng như:
Một là, thực hiện hành vi bạo lực đối với một người trên tàu bay trong khi tàu bay
đang bay nếu như hành động này gây nguy hiểm đến an tồn của tàu bay đó.


Hai là, đặt hoặc chỉ đạo đặt vào tàu bay đang bay, dù bằng bất cứ phương thức
nào, một thiết bị hoặc chất sẽ phá hủy tàu bay hoặc gây thiệt hại cho tàu bay, dẫn đến làm
mất khả năng bay, hoặc làm hỏng tàu bay dẫn đến mất an toàn của tàu bay đang bay.
Ba là, phá hủy hoặc làm hỏng phương tiện dẫn đường hàng không hoặc cản trở
hoạt động của các thiết bị đó, nếu bất kỳ một hành động nào như vậy sẽ gây mất an tồn
của tàu bay đang bay.
Bốn là, chuyển những thơng tin mà biết là sai trái, từ đó gây nguy hại đến an toàn
của tàu bay đang bay.
Năm là, sử dụng bạo lực chống lại người đang làm nhiệm vụ dịch vụ hàng khơng
mà gây ra thương tích nặng hoặc tử vong. Sáu là, phá hủy hoặc làm thiệt hại nghiêm
trọng các trang thiết bị hàng không hoặc tàu bay đậu tại đó, nếu những hành vi này gây
nguy hại hoặc có thể gây nguy hại tới an ninh của sân bay.
 Xem xét các quy định về tội phạm hàng không trong các điều ước quốc tế về an ninh
hàng khơng, có thể thấy được sự phát triển ngày một hồn thiện của những quy định

về tội phạm hàng khơng quốc tế:
Trong Công ước Tokyo 1963 về an ninh hàng khơng thì tội phạm hàng khơng
được hiểu là hành vi cướp máy bay (không tặc). Đến Công ước LaHay 1970 và Công
ước Montreal 1971, quy định về tội phạm hàng không đã được mở rộng, bao gồm cả
những hành vi cưỡng đoạt tàu bay, làm hư hỏng tàu bay, những hành vi thực hiện đối với
người, trang thiết bị tại các sân bay, ảnh hưởng đến an toàn bay. Ngay cả những hành vi
đe dọa dùng vũ lực đối với một người trên tàu bay cũng bị coi là tội phạm hàng không
quốc tế.
Nguyên nhân chủ yếu của việc mở rộng khái niệm này là do thời kỳ cuối những
năm 60 thế giới trong tình trạng căng thẳng về nạn dịch đe dọa hàng khơng quốc tế như
bắt cóc, đánh bom, mìn, đưa chất cháy, nổ vào tàu bay…nhằm vào tổng thể hoạt động
hàng không của ngành hàng không, trong khi đó Cơng ước Tokyo 1963 cịn hạn chế, quy
định chưa cụ thể, chưa rõ ràng, Công ước Tokyo 1963 có ghi nhận hành vi chiếm đoạt tàu
bay là hành vi bất hợp pháp nhưng lại không coi hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay
là hành vi tội phạm hay vi phạm hành chính. Đó cũng là kết quả của sự thỏa thuận giữa
các quốc gia trong thời kỳ chiến tranh lạnh, là đặc trưng của luật quốc tế so với luật quốc
gia, khi thỏa thuận xây dựng các quy định pháp luật quốc tế thường bị chi phối bởi tổng
thể lợi ích giữa các quốc gia. Cơng ước LaHaye 1970 và Công ước Montreal 1971 đã
khắc phục được hạn chế của Công ước Tokyo 1963.
Tuy nhiên, việc quy định tội phạm hàng không quốc tế trong pháp luật của mỗi
quốc gia còn khác nhau. Chẳng hạn, hành vi cợt nhả, trêu ghẹo, khiếm nhã của hành
khách đối với nữ tiếp viên hàng không trên máy bay trong luật hình sự của một số nước


không định danh cụ thể đây là hành vi phạm tội, song một số nước lại xác định đây là
hành vi quấy rối tình dục. Hành vi trộm cắp hoặc đánh nhau giữa các hành khách trên
máy bay có thể được quy định trong luật hình sự của một số quốc gia. Những hành vi này
trái với các luật lệ, quy định về hàng không, vi phạm trật tự và kỷ luật hàng không: "Các
hành vi phạm tội hay không phạm tội có thể gây nguy hiểm cho an tồn của tàu bay hoặc
của người hay tài sản trên tàu bay hoặc nguy hiểm cho trật tự và kỷ luật trên tàu bay"

(Điểm b, khoản 1 Điều 1 Công ước Tokyo 1963 về an ninh hàng khơng). Do vậy, có
sự khác nhau trong quy định về tội phạm hàng không trong pháp luật của các quốc gia.

 Như vậy, tội phạm hàng không quốc tế theo các cơ sở pháp lý trên có thể được
định nghĩa ngắn gọn như sau: Tội phạm hàng không quốc tế là những hành vi
xâm phạm đến sự an toàn của tàu bay hoặc của người, tài sản trên tàu bay hoặc
gây nguy hiểm cho trật tự, kỷ luật trên tàu bay.
1.1.2. Khủng bố hàng không quốc tế
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc đưa ra định nghĩa chung về khủng bố là
cần thiết vì có như vậy mới nâng cao được hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng chống tội
phạm này.
Trong 13 điều ước quốc tế thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về đấu tranh chống
khủng bố hiện nay chỉ có ba Cơng ước trực tiếp nhắc đến khái niệm "khủng bố"
(Terrorism) ngay tại tiêu đề, đó là: Cơng ước New York năm 1997 về trừng trị khủng
bố bằng bom; Công ước New York năm 1999 về trừng trị việc tài trợ khủng bố; Công
ước New York năm 2005 về ngăn chặn các hành vi khủng bố hạt nhân. Các cơng ước
cịn lại quy định về những tội phạm mà việc thực hiện các tội phạm đó được coi như
biểu hiện của khủng bố quốc tế. Như vậy, hiện nay cộng đồng quốc tế vẫn chưa đưa ra
được định nghĩa chung hoàn chỉnh về khủng bố mà mới chỉ ghi nhận một số hành vi
nhất định là khủng bố và các biện pháp để hợp tác đấu tranh chống lại các hành vi này
Khái niệm khủng bố theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: Khủng bố là hoạt
động phá hoại, đe dọa bằng lời nói, hoặc truyền đi các hình ảnh hoặc video giết người
do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện làm thiệt mạng người, gây hoang mang khiếp sợ
hoặc tổn thất cho xã hội và cộng đồng, nhằm mục đích chính trị hoặc tôn giáo.
Khái niệm khủng bố trong Từ điển Công an nhân dân năm 2006: "Khủng bố
là dùng biện pháp tàn bạo làm cho khiếp sợ để hòng khuất phục. Khủng bố tinh thần"
Trong lịch sử hàng không quốc tế, đã xảy ra nhiều vụ khủng bố hàng không quốc
tế lớn. Đặc biệt là vụ khủng bố kinh hoàng ngày 11/9/2001 của mạng lưới khủng bố do
Osama bin Laden lãnh đạo nhằm vào nước Mỹ, mười chín tên khơng tặc chiếm quyền
kiểm soát bốn máy bay thương mại đang trên đường từ Boston, Newark và Washington

D.C tới San Francisco và Los Angeles đâm vào tịa tháp phía bắc và phía nam của Trung


tâm thương mại thế giới. làm ba tòa nhà trong khu Trung tâm thương mại thế giới đổ
sập. Vụ tấn công khủng bố này gây hỗn loạn khắp nước Mỹ
Như vậy, khủng bố hàng không quốc tế cũng là tội phạm hàng khơng
nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả thiệt hại của tội phạm này gây ra
rất to lớn. Thuật ngữ "khủng bố hàng không quốc tế" được sử dụng dùng để xác định
tổng thể các hành vi khủng bố quốc tế được thực hiện nhằm chống lại và đe dọa an ninh
của các hoạt động hàng không dân dụng quốc tế. Thuật ngữ này bao gồm nhiều hành vi
khác nhau, trong đó nổi bật nhất là hành vi bắt cóc hoặc cưỡng bức tàu bay mà thường
được gọi bằng thuật ngữ pháp lý chung là "hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay".
Khủng bố hàng không quốc tế phải được hiểu là các hành vi khủng bố quốc tế,
nghĩa là các hành vi đó thỏa mãn bốn điều kiện sau:
+ Là tội phạm theo luật hình sự của các quốc gia.
+ Hành vi này xâm hại đến khách thể kép (nó nhằm vào lợi ích của quốc gia hay tổ
chức quốc tế, đồng thời gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tự do của con người).
+ Có yếu tố quốc tế, yếu tố này phát sinh trong mối quan hệ tổng thể của các hành vi
đối với nhau - từ góc độ quốc tế. Đó là mối quan hệ giữa chủ thể tội phạm với các
thành phần khách thể của tội phạm.
+ Các hành vi này bị truy cứu và trừng phạt trên cơ sở các điều ước quốc tế hoặc
nguyên tắc phổ cập quốc tế.
 Có thể thấy rằng, tội phạm hàng khơng quốc tế là các hành vi trái với các quy định
của luật hàng không quốc tế và được điều chỉnh tại các điều ước quốc tế có liên quan
tới an ninh hàng khơng quốc tế. Cịn khủng bố hàng khơng quốc tế là các hành vi
phải đáp ứng bốn điều kiện nêu trên, trong khi đó tội phạm hàng khơng quốc tế
khơng nhất thiết phải đáp ứng.
Chúng ta có thể khẳng định rằng: Khủng bố hàng không quốc tế là các hành vi
khủng bố quốc tế có liên quan tới các loại hình hoạt động của hàng khơng dân dụng
quốc tế. Khủng bố hàng không quốc tế được xem là hành vi cực kỳ nguy hiểm cho xã

hội, là một trong những loại hình nghiêm trọng nhất của khủng bố quốc tế. Tính nguy
hiểm cho xã hội của khủng bố hàng không quốc tế là gây thiệt hại lớn cho Nhà nước,
gây tử vong cho nhiều người không chỉ trên máy bay mà cịn ở mặt đất. Nó làm chấn
động môi trường hàng không, làm mất niềm tin của con người vào sự an tồn của ngành
hàng khơng dân dụng quốc tế. Các quốc gia đều nhận thức được vấn đề này, vì vậy một
trong những lĩnh vực mà cộng đồng quốc tế đã thành công nhất trong việc điều chỉnh
bằng pháp luật quốc tế là phòng chống tội phạm khủng bố hàng không quốc tế, đảm bảo
an ninh hàng không dân dụng quốc tế.
1.1.3. Đặc điểm của tội phạm hàng không quốc tế


Hiện nay, các hành vi xâm phạm an ninh hàng khơng dân dụng quốc tế ngày càng
phức tạp và có chiều hướng ra tăng. Những kẻ phạm tội thường sử dụng một số phương
pháp dụng như:
Một là, lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của lực lượng an ninh hàng khơng những
kẻ phạm tội mang vũ khí, bom, mìn…lên tàu bay.
Hai là, sử dụng vũ khí đe dọa, khống chế phi hành đồn, tiếp viên hàng khơng,
hành khách và sử dụng họ làm con tin để gây sức ép, thực hiện các hành vi phạm tội.
Đặc biệt, các phần tử này còn sử dụng máy bay như một loại vũ khí để tấn cơng vào các
mục tiêu đã định trước
Ba là, bằng thủ đoạn sử dụng các chất độc, chất gây mê làm tê liệt phi hành đoàn,
nhân viên an ninh nhằm cướp máy bay nhằm mục đích cá nhân như trốn chạy sự truy
đuổi của các cơ quan chức năng hoặc vì động cơ kinh tế
Bốn là, sử dụng các loại bom, mìn, hóa chất gây nổ...mang lên tàu bay. Năm là,
phá hoại cảng hàng không bằng cách đặt các thiết bị bom, mìn tại khu vực hành khách
làm thủ tục bay, kho xăng… nhằm làm cho hoạt động tại các cảng hàng không ngừng
trệ, gây hoang mang, lo sợ cho hành khách.
Sáu là, đe dọa với phi hành đồn rằng đang nắm giữ bom, mìn, hóa chất gây
nổ… nhằm đe dọa, yêu cầu phi hành đoàn phải thực hiện những yêu sách của kẻ phạm
tội.

Đặc biệt đối với các hành vi khủng bố hàng khơng quốc tế thì các phần tử khủng
bố hiện nay có đủ khả năng để thực hiện những vụ tấn công khủng bố ngày càng chuyên
nghiệp, với quy mô lớn, phức tạp. Các phần tử khủng bố cũng sử dụng những phương
pháp phạm tội như trên nhưng với sự liên kết giữa các phần tử khủng bố, các tổ chức
khủng bố ngày càng chặt chẽ hơn mà biểu hiện của sự liên kết đó là cùng vạch kế
hoạch, cùng phối hợp thực hiện, giúp đỡ huấn luyện, thậm chí cịn có sự giúp đỡ lẫn
nhau về tài chính để thực hiện cuộc khủng bố giữa các tổ chức khủng bố hoặc nhóm
khủng bố; phương thức tấn công khủng bố ngày một đa dạng (tấn cơng đơn lẻ hoặc tấn
cơng liên hồn)…
Mục tiêu tấn cơng của kẻ khủng bố thường là những trung tâm thương mại, trung
tâm chính trị, cơ quan, tổ chức nước ngồi, những nơi tập trung đông người và việc
cướp, sử dụng máy bay như là một loại vũ khí tấn cơng vào các mục tiêu đã lựa chọn.
Kế hoạch khủng bố thường được chúng vạch ra một cách chi tiết, cụ thể, có sự phân
chia nhiệm vụ đối với từng phần tử
1.1.4. Những quy định pháp luật về tội phạm xâm phạm an ninh hàng không
dân dụng quốc tế của Việt Nam


Là một thành viên của Liên hợp quốc, có truyền thống tơn trọng và u chuộng
hịa bình, với mong muốn góp phần vào việc ổn định an ninh quốc tế, thời gian qua Việt
Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế đa phương của Liên hợp quốc về đấu
tranh, phịng, chống tội phạm nói chung và tội phạm hàng khơng quốc tế nói riêng, bao
gồm: Cơng ước năm 1963 về các tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu
bay; Công ước năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay; Công ước
năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an tồn hàng khơng dân
dụng; Công ước năm 1973 về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những
người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao; Nghị định thư năm
1988 về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng hàng không phục vụ
hàng không dân dụng quốc tế; Công ước quốc tế năm 1999 về trừng trị việc tài trợ cho
khủng bố.

Việt Nam đang tích cực nghiên cứu khả năng gia nhập bốn điều ước quốc tế cịn
lại và đã ký kết Cơng ước của ASEAN về chống khủng bố. Đồng thời, Chính phủ Việt
Nam, Bộ Công an Việt Nam đã ký nhiều hiệp định, thỏa thuận song phương về hợp tác
phòng, chống khủng bố. Trong đó, phải kể đến những hiệp định tương trợ tư pháp, dẫn
độ.
Nhận thức được tính chất đặc biệt nguy hiểm của tội phạm khủng bố nên Nhà
nước Việt Nam ln có thái độ rất kiên quyết trong phát hiện, ngăn chặn và trừng trị
loại tội phạm này. Theo các quy phạm pháp luật Việt Nam, tội khủng bố có một số đặc
điểm cơ bản sau:
+ Là một trong những tội được quy định trong Chương các tội xâm phạm an ninh quốc
gia và theo đó dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội phạm là phải có mục
đích nhằm chống chính quyền nhân dân;
+ Hành vi khách quan của tội phạm này được biểu hiện: xâm phạm hoặc đe dọa xâm
phạm tính mạng, xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc những hành vi khác uy
hiếp tinh thần của con người; đối tượng tác động của tội phạm chỉ có thể là con
người cụ thể mà không phải là tài sản hoặc các vật khác
+ Những hành vi tuy xâm phạm đến con người nhưng khơng nhằm mục đích chống
chính quyền hoặc hành vi khác xâm phạm đến tài sản... sẽ bị điều tra, xử lý theo các
tội danh khác tương ứng.
1.2. Một số vấn đề lý luận chung về dẫn độ tội phạm
1.2.1. Khái niệm dẫn độ
Trải qua quá trình phát triển của lịch sử, dẫn độ trở thành nội dung tương trợ tư
pháp về hình sự được áp dụng phổ biến, là một yêu cầu khách quan trong hoạt động
tương trợ tư pháp giữa các quốc gia, nhu cầu dẫn độ được đặt ra trước khi các quốc gia
ký kết các điều ước quốc tế.


Dẫn độ được quy định trong pháp luật quốc gia cũng như trong các điều ước quốc
tế, trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả của hợp tác quốc tế
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, về bản chất pháp lý của dẫn độ tội

phạm cịn có rất nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng dẫn độ người phạm
tội là chế định của Cơng pháp quốc tế, vì đây là quan hệ giữa hai quốc gia có chủ quyền,
thực hiện chủ yếu thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế hoặc thông qua con đường
ngoại giao giữa các quốc gia.
+ Có quan điểm cho rằng, dẫn độ người phạm tội là chế định của luật tố tụng hình sự, vì
nó gần như một thủ tục bắt người phạm tội. Điều này cũng có cơ sở nhất định vì như
pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam đều có những quy định về vấn đề này là một
bộ phận trong pháp luật tố tụng hình sự quốc gia, mặt khác hầu hết việc yêu cầu hoặc
quyết định việc dẫn độ theo pháp luật quốc gia được quyết định bởi Tòa án, một trong
những chủ thể của pháp luật tố tụng hình sự.
+ Tuy nhiên, có thể nói quan điểm dẫn độ người phạm tội là một chế định của luật hình
sự là hợp lý hơn cả vì về bản chất dẫn độ người phạm tội chính là xác định hiệu lực
của luật hình sự quốc gia với một cá nhân, cá nhân đó có đủ điều kiện để phải chịu
trách nhiệm hình sự hay khơng, hay nói cách khác cả quốc gia yêu cầu hay quốc gia
được yêu cầu dẫn độ đều phải nghiên cứu các bằng chứng, các dấu hiệu để xác định
người đó có phải là tội phạm hay không.
 Trên cơ sở tổng kết quan điểm khoa học và thực tiễn đấu tranh chống tội phạm tại
Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm:
Dẫn độ người phạm tội là một chế định của luật hình sự nhằm tăng cường sự hợp tác
giữa các quốc gia trong việc đấu tranh phòng và chống các tội phạm quốc tế và các tội
phạm xuyên quốc gia, được thể hiện trong việc: một quốc gia này (nước được yêu cầu)
căn cứ vào các quy định của hiệp ước quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự đã được ký
kết (hoặc các quy phạm pháp luật quốc tế) trong trường hợp hiệp ước chưa được ký kết)
chuyển giao người phạm tội đang ở trên lãnh thổ của nước đó theo đề nghị của quốc gia
kia (quốc gia yêu cầu) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt đối với
người ấy.
 Tuy nhiên, khái niệm trên chỉ đề cập đến dẫn độ tội phạm quốc tế và tội phạm
xuyên quốc gia. Mà tội phạm quốc tế là khái niệm chỉ hành vi đặc biệt nguy hiểm được
quy định trong luật hình sự quốc tế xâm phạm sự tồn tại hịa bình và an ninh của nhân
loại; tội phạm xuyên quốc gia được hiểu là tội phạm có các giai đoạn được thực hiện trên

nhiều quốc gia khác nhau. Như vậy, nếu khái niệm dẫn độ người phạm tội chỉ nhằm tăng
cường phòng chống tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm quốc tế là chưa bao quát hết,
trường hợp không phải là tội phạm quốc tế hoặc tội phạm xuyên quốc gia nhưng có thể
vẫn phải dẫn độ.


 Tổ chức cảnh sát quốc tế Interpol đưa ra khái niệm: Dẫn độ người phạm tội là quá
trình được thực hiện bởi một quốc gia (nước được yêu cầu) chuyển giao một cá nhân
có mặt trên lãnh thổ nước mình đến quốc gia khác (nước yêu cầu) nơi người đó đã vi
phạm hoặc để thi hành một hình phạt đã được quyết định chống lại người đó.
 Như vậy, dẫn độ là hình thức hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, theo đó quốc gia
được u cầu dẫn độ trao người có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã
có hiệu lực pháp luật đang ở trên lãnh thổ của quốc gia mình cho quốc gia yêu cầu dẫn độ
để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để chấp hành hình phạt.
 Dẫn độ được thực hiện trong mối quan hệ giữa quốc gia yêu cầu và quốc gia
được yêu cầu. Quốc gia yêu cầu dẫn độ là quốc gia mà người bị yêu cầu dẫn độ
mang quốc tịch, quốc gia mà tội phạm xảy ra trên lãnh thổ hoặc quốc gia bị thiệt
hại do tội phạm gây ra. Còn quốc gia được yêu cầu dẫn độ là quốc gia nơi hiện
diện thể nhân bị yêu cầu dẫn độ. Trong khi đó, Tịa án hình sự quốc tế khơng
phải tịa án của quốc gia yêu cầu mà là tòa án quốc tế có thẩm quyền xét xử các
tội phạm quy định tại Điều 5 Quy chế Tịa án hình sự quốc tế.
+ Theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của
Việt Nam có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài dẫn độ
và thực hiện dẫn độ cho quốc gia yêu cầu để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để
chấp hành hình phạt. Cơ sở pháp lý này không phải là quy phạm định nghĩa về dẫn
độ nhưng các quy định của điều luật này không chỉ phù hợp với quan niệm truyền
thống quốc tế về dẫn độ mà còn phù hợp với quy định khác trong luật quốc gia.
+ Luật Tương trợ tư pháp Việt Nam năm 2007 đưa ra khái niệm về dẫn độ tại khoản 1
Điều 32 quy định: "Dẫn độ là việc một nước chuyển giao cho nước khác người có
hành vi phạm tội hoặc người bị kết án hình sự đang có mặt tại lãnh thổ nước mình để

nước được chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người
đó"
1.2.2. Đặc điểm của dẫn độ
Qua những phân tích về khái niệm dẫn độ, ta có thể hiểu dẫn độ là một trong
những hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia và có những đặc điểm
sau:
Thứ nhất, dẫn độ là việc một nước chuyển giao một người phạm tội cho một
quốc gia khác. Việc chuyển giao này được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của nước có yêu
cầu. Người bị dẫn độ là người thực hiện hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước yêu cầu,
đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án bằng một bản án, sau đó bỏ trốn
sang nước được yêu cầu. Việc chuyển giao do các cơ quan có thẩm quyền của các quốc
gia tiến hành
Thứ hai, dẫn độ chỉ được thực hiện khi có yêu cầu dẫn độ từ một quốc gia. Nước
mà người phạm tội mang quốc tịch, nước nơi hành vi phạm tội xảy ra, nơi tội phạm


hồn thành hoặc nước có quyền lợi bị tội phạm xâm phạm đều có quyền yêu cầu dẫn độ.
Tuy nhiên, việc chấp nhận dẫn độ hay không lại phụ thuộc vào nước được yêu cầu dẫn
độ.
Nếu trường hợp, nhiều nước yêu cầu dẫn độ cùng một đối tượng thì nước được
yêu cầu dẫn độ căn cứ vào quy định pháp luật quốc gia mình và điều ước quốc tế có liên
quan để chấp nhận yêu cầu dẫn độ của một trong những nước đó.
Thứ ba, dẫn độ nhằm hai mục đích: dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
dẫn độ để thi hành án. Hoạt động này do nước yêu cầu dẫn độ thực hiện sau khi đã tiếp
nhận người được yêu cầu dẫn độ từ quốc gia được yêu cầu;
Thứ tư, dẫn độ thường được thực hiện trên cơ sở các điều ước quốc tế hoặc mối
quan hệ giữa các quốc gia. Điều ước quốc tế về dẫn độ bao gồm điều ước song phương
hoặc đa phương yêu cầu các quốc gia ký kết hoặc gia nhập phải thực hiện những quy
định của điều ước đó. Nếu có một yêu cầu dẫn độ phù hợp với điều ước có liên quan
giữa các nước thành viên thì u cầu đó phải được thi hành. Nếu từ chối khơng có cơ sở

thì nước được u cầu dẫn độ đã vi phạm nghĩa vụ quốc tế. Hoạt động dẫn độ phải tuân
thủ nguyên tắc của pháp luật quốc tế và nguyên tắc riêng của dẫn độ.
 Các đặc điểm nêu trên là căn cứ để phân biệt dẫn độ với các hoạt động tương trợ
tư pháp khác hoặc với các biện pháp hợp tác phòng chống tội phạm như: chuyển giao
người bị kết án, trục xuất, đẩy trả, giao nộp, áp giải, dẫn giải, chuyển giao đặc biệt…
1.2.3. Mục đích, căn cứ của dẫn độ
Mục đích chung của dẫn độ là buộc người đã thực hiện hành vi phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm do mình gây ra. Đồng thời cịn có tác dụng ngăn
ngừa, răn đe những người phạm tội khác đang có ý định bỏ trốn và tăng cường hợp tác
giữa các quốc gia trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Cơ sở pháp lý để yêu cầu dẫn độ và thực hiện dẫn độ là các điều ước quốc tế về
dẫn độ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kí kết hoặc gia nhập. Dẫn độ
trong trường hợp này là thực hiện nghĩa vụ quốc tế đã được cam kết.


Trong trường hợp Việt Nam chưa kí kết hoặc chưa gia nhập các điều ước quốc tế
có liên quan, vẫn có thể yêu cầu dẫn độ và thực hiện dẫn độ trên ngun tắc có đi
có lại nhưng khơng trái pháp luật Việt Nam, pháp luật và tập quán quốc tế.

Nội dung của nguyên tắc có đi có lại thể hiện: Quốc gia này chỉ thực hiện dẫn độ
cho quốc gia kia nếu quốc gia kia đã hoặc đảm bảo sẽ thực hiện dẫn độ cho quốc gia
này. Khác với dẫn độ theo điều ước, dẫn độ theo nguyên tắc có đi có lại khơng phải là
nghĩa vụ quốc tế. Trong luật quốc tế khơng có tập qn quốc tế về nghĩa vụ dẫn độ.
Nguyên tắc có đi có lại là cơ sở thay thế cho điều ước quốc tế trong việc yêu cầu dẫn độ


và thực hiện dẫn độ nhưng nguyên tắc có đi có lại đóng vai trị quan trọng cả trong
trường hợp có điều ước, cũng như khơng có điều ước quốc tế về dẫn độ.
Dẫn độ là chế định của luật quốc tế nhưng cũng đồng thời chịu sự điều chỉnh
của luật quốc gia. Việc dẫn độ không chỉ căn cứ vào điều ước quốc tế mà còn phải tuân

theo pháp luật quốc gia. Những quy định liên quan của pháp luật quốc gia phải được cơ
quan có thẩm quyền xem xét khi quyết định yêu cầu dẫn độ và thực hiện dẫn độ.
1.2.4. Đối tượng bị dẫn độ
Dẫn độ chỉ áp dụng đối với cá nhân nhưng không phải mọi cá nhân đều bị dẫn
độ.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Việt Nam chỉ thực hiện dẫn độ
người nước ngồi (Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015), tức là người khơng có quốc tịch
Việt Nam. Người nước ngồi bị dẫn độ có thể là cơng dân của nước yêu cầu, công dân
nước thứ ba hoặc người không quốc tịch. Quốc tịch của cá nhân bị yêu cầu dẫn độ
thường được các quốc gia thỏa thuận xác định vào thời điểm thông qua quyết định dẫn
độ.
Tuy nhiên, trong trường hợp người bị yêu cầu dẫn độ là người đang cư trú ở Việt
Nam vì lí do có khả năng bị truy bức ở quốc gia yêu cầu dẫn độ do có sự phân biệt về
chủng tộc, tơn giáo, quốc tịch, dân tộc, thành phần xã hội hoặc quan điểm chính trị thì
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Việt Nam từ chối dẫn độ
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Việt Nam từ chối dẫn độ nếu người
bị yêu cầu dẫn độ là cơng dân nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên tắc
không dẫn độ công dân nước mình xuất phát từ chủ quyền tồn vẹn và tuyệt đối của
quốc gia.
Tuy nhiên, các quốc gia thường thỏa thuận nếu khơng dẫn độ cơng dân nước
mình thì quốc gia được yêu cầu dẫn độ chuyển giao vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền
nước mình để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Thỏa thuận đó thể hiện
nguyên tắc quốc tế aut judicare, tráchedere (hoặc truy cứu hoặc dẫn độ).
CHƯƠNG 2
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI PHẠM HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ
VÀ VẤN ĐỀ DẪN ĐỘ LOẠI TỘI PHẠM NÀY
2.1.

Những quy định về tội phạm trong lĩnh vực hàng không trong một số điều
ước quốc tế

2.1.1. Công ước Tokyo năm 1963 về tội phạm và một số hành vi khác thực hiện
trên tàu bay


Công ước áp dụng đối với các hành vi vi phạm pháp luật hình sự và các hành vi
khác có thể hoặc thực sự đang ảnh hưởng đến án toàn của tàu bay, người hoặc tài sản
trên tàu bay, hoặc gây mất trật tự, kỷ luật trên tàu bay. Các hành vi vi phạm được nêu tại
Điều 1 Công ước, gồm:
+ Một là, các hành vi vi phạm luật hình sự;
+ Hai là, các hành vi, dù là hành vi phạm tội hay khơng, có thể hoặc gây nguy hiểm tới
an toàn của tàu bay hoặc của người hoặc tài sản trên tàu bay, hoặc gây nguy hiểm cho
trật tự và kỷ luật trên tàu bay.
+ Ba là, các hành vi phạm tội được thực hiện hoặc các hành vi do một người nào đó
thực hiện trên tàu bay khi tàu bay đó đang bay hoặc đang ở trên vùng biển khơi hoặc
tại lãnh thổ bất kỳ quốc gia nào.
Bên cạnh đó, tại Điều 11, Cơng ước cịn xác định phạm vi áp dụng đối với hành
vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay. Theo đó, quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện
pháp thích hợp để khơi phục và duy trì quyền kiểm sốt hợp pháp cho người chỉ huy tàu
bay khi có cá nhân trên tàu bay sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để thực hiện
hoặc sắp thực hiện được hành vi can thiệp, chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay đang bay.
Công ước Tokyo 1963 điều chỉnh các hành vi tội phạm và các hành vi khác thực
hiện trên tàu bay, khi các hành vi đó thỏa mãn điều kiện: Địa điểm thực hiện hành vi là
trên tàu bay và thời gian thực hiện hành vi là khi tàu bay đang bay.
Khái niệm "tàu bay đang bay" được quy định tại khoản 1 Điều 3 của Công ước:
"Tàu bay được coi là đang bay trong chuyến bay kể từ thời điểm nạp nhiên liệu để cất
cánh cho đến thời điểm kết thúc lăn bánh sau khi hạ cánh".
Công ước cũng xác lập quyền tài phán của quốc gia nơi tàu bay được đăng ký; quy
định thẩm quyền của người chỉ huy máy bay được áp dụng các biện pháp thích hợp, kể
cả hạn chế tự do của bất kỳ người nào mà người chỉ huy có lý do để cho rằng đã hoặc
sắp thực hiện hành vi gây mất an toàn cho tàu bay; quy định nhiệm vụ và quyền hạn của

các quốc gia thành viên trong việc tiếp nhận người vi phạm do người chỉ huy tàu bay
chuyển giao, thực hiện việc giam giữ người phạm tội và trao quyền kiểm sốt tàu bay đó
cho người chỉ huy hợp pháp. Tuy nhiên, Công ước Tokyo không thừa nhận hành vi
chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay là tội phạm hình sự. Điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu quả điều chỉnh của Công ước. Công ước này không được áp dụng đối với tàu
bay được sử dụng phục vụ Quân đội, Hải quan và Cảnh sát
2.1.2. Công ước Lahay năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay
Theo quy định của Cơng ước thì một người bị coi là thực hiện hành vi phạm tội
trên tàu bay trong khi đang bay khi


+ Sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, hoặc bằng bất kỳ hình thức nào khác, bất
hợp pháp chiếm giữ hoặc kiểm sốt tàu bay đó, có ý định thực hiện bất kỳ hành vi
nào như vậy;
+ Là đồng phạm của kẻ thực hiện hoặc có ý định thực hiện bất kỳ hành vi nào như vậy,
thực hiện một hành vi phạm tội.
Như vậy, Công ước đã thừa nhận hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay là
hành vi phạm tội, quy định này đã khắc phục hạn chế của Công ước Tokyo 1963. Mặt
khác, Công ước Lahay 1970 còn điều chỉnh đối với cả hành vi đồng phạm trong việc
thực hiện hành vi chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay.
Khái niệm "tàu bay đang bay" được quy định tại khoản 1 Điều 3 của Công ước,
theo đó, tàu bay đang trong chuyến bay kể từ thời điểm mà tất cả các cánh cửa ngoài của
tàu bay được đóng lại sau khi xếp tải cho đến thời điểm bất kỳ cửa nào của tàu bay được
mở ra để dỡ tải.
Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên hình sự hóa các hành vi đã được quy
định trong Công ước là tội phạm và phải áp dụng các biện pháp nghiêm khắc để trừng trị
người phạm tội. Bên cạnh đó, các quốc gia thành viên đã thực hiện việc giam giữ người
phạm tội phải dẫn độ hoặc truy tố người đó ra trước pháp luật. Ngồi ra, Công ước cũng
yêu cầu các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ nhau trong việc
thực hiện các thủ tục tố tụng hình sự đối với tội phạm và người phạm tội.

Công ước chỉ áp dụng nếu nơi cất cánh hoặc hạ cánh thực tế của tàu bay là nơi tội
phạm được thực hiện nằm ngoài lãnh thổ của quốc gia nơi đăng ký quốc tịch của tàu bay,
bất kể tàu bay đang thực hiện chuyến bay quốc tế hay chuyến bay nội địa (khoản 3, Điều
3 Công ước).
2.1.3. Công ước Montreal năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp pháp
chống lại an tồn hàng khơng dân dụng
Theo Điều 1, Cơng ước Montreal năm 1971 thì một người bị coi là phạm tội nếu
thực hiện một cách bất hợp pháp và cố ý một trong các hành vi sau đây:
+ Thực hiện hành vi bạo lực đối với người trên một tàu bay đang trong chuyến bay nếu
hành vi đó chắc chắn sẽ gây nguy hiểm cho an toàn của tàu bay trong khi bay.
+ Phá hủy tàu bay đang phục vụ hoặc làm hư hỏng tàu bay đó khiến nó khơng thể bay
được hoặc chắc chắn sẽ gây nguy hiểm cho an toàn của tàu bay trong khi bay.
+ Đặt hoặc chỉ đạo đặt vào tàu bay đang phục vụ, bằng bất kỳ thủ đoạn nào, thiết bị
hoặc chất chắc chắn sẽ phá hủy tàu bay đó hoặc để làm hư hỏng tàu bay đó khiến nó
khơng thể bay được hoặc làm hư hỏng tàu bay mà chắc chắn sẽ gây nguy hiểm cho
sự an toàn của tàu bay đang bay.
+ Cung cấp thơng tin mà người đó biết là khơng đúng sự thật và do đó gây nguy hiểm
cho sự an toàn của tàu bay đang bay.


+ Bất kỳ cá nhân nào cố gắng thực hiện một trong các hành vi tội phạm nêu tại khoản 1
Điều 1 Công ước.
+ Là đồng phạm với người thực hành hoặc cố gắng thực hiện các hành tội phạm này.
Như vậy, Công ước Montreal năm 1971 đã tăng số lượng các hành vi chịu sự điều
chỉnh của Công ước so với Công ước Tokyo năm 1963 và Công ước Lahay năm 1970.
Đồng thời, Công ước Montreal năm 1971 không xác định điều kiện về địa điểm thực
hiện tội phạm là tiêu chuẩn để áp dụng. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của Công ước cũng
được mở rộng.
+ Tại khoản 2 Điều 4 quy định: không phụ thuộc vào tàu bay thực hiện chuyến bay
quốc tế hay nội địa, công ước chỉ áp dụng đối với các trường hợp quy định tại điểm

a, b, c và e khoản 1 Điều 1 nếu Nơi cất cánh và hạn cánh thực tế hoặc dự định của tàu
bay nằm ngoài lãnh thổ của quốc gia nơi tàu bay đó được đăng ký.
+ Tội phạm được thực hiện trên lãnh thổ quốc gia không phải là quốc gia nơi tàu bay
đăng ký quốc tịch.
+ Trong các trường hợp nêu tại điểm d khoản 1 Điều 1: phá hủy hoặc làm hư hỏng thiết
bị không lưu hoặc can thiệp vào hoạt động của các thiết bị đó thì cơng ước này sẽ
được áp dụng nếu các thiết bị không lưu được sử dụng cho không lưu quốc tế.
+ Cơng ước Montreal năm 1971 cịn điều chỉnh đối với cả các hành vi đồng phạm thực
hiện các hành vi phạm tội được quy định trong Công ước.
Ngồi ra, Cơng ước cịn bổ sung khái niệm tàu bay đang được coi là trong
"chuyến bay" kể từ thời điểm tất cả các cửa ngoài của tàu bay được đóng lại sau khi xếp
tải cho đến thời điểm khi bất kỳ cửa nào của tàu bay được mở ra để dỡ tải; tàu bay được
coi là đang phục vụ tính từ khi các nhân viên phục vụ ngồi mặt đất hoặc tổ bay bắt đầu
công việc chuẩn bị trước cho chuyến bay cụ thể của tàu bay cụ thể cho tới 24 giờ sau bất
kỳ lần hạ cánh nào, thời gian khai thác trong mọi trường hợp sẽ được kéo dài trong toàn
bộ thời gian tàu bay đang bay (khoản a, b Điều 2). Các quy định mới này đảm bảo việc
trừng trị toàn diện, nghiêm khắc đối với các hành vi phạm tội xâm phạm an ninh hàng
không quốc tế.
2.1.4. Nghị định thư Montreal năm 1988 về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp
pháp tại cảng hàng không dân dụng quốc tế
Năm 1988 tại Montreal các quốc gia tham gia Hội nghị quốc tế về luật hàng
không đã thông qua Nghị định thư về trấn áp các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các
cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế nhằm đảm bảo cho sự an toàn
về người, tài sản cũng như hoạt động bình thường tại các cảng Hàng không dân dụng.
Nghị định thư được ký ngày 24 tháng 12 năm 1988, có hiệu lực từ ngày 06 tháng 8 năm
1989. Nghị định thư bổ sung cho Công ước Montreal 1971.
Nghị định thư Montreal 1988 đã bổ sung thêm một số hành vi:


Tại Điều 2 của Nghị định thư Montreal 1988 bổ sung cho Công ước Montreal

1971 quy định: Bất kỳ người nào thực hiện hành vi phạm tội nếu cố ý và bất hợp pháp
sử dụng bất kỳ một thiết bị hoặc vũ khí nào để:
+ Thực hiện một hành vi bạo lực đối với người ở sân bay phục vụ hàng khơng dân
dụng quốc tế, xâm hại hoặc có thể xâm hại nghiêm trọng đến sức khỏe hoặc dẫn đến
chết; hoặc
+ Phá hủy hoặc làm hư hỏng nặng các thiết bị và các cơng trình của sân bay phục vụ
hàng không dân dụng quốc tế hoặc tàu bay chưa khai thác đỗ tại đó hoặc làm gián
đoạn các dịch vụ tại sân bay, nếu hành động như vậy đe dọa hoặc có thể đe dọa an
tồn ở sân bay đó.
+ Nếu một hành vi nói trên gây hoặc chắc chắn sẽ gây nguy hiểm cho an tồn tại cảng
hàng khơng đó.
Nội dung cơ bản của Nghị định thư: Quy định bổ sung một số loại tội phạm được
cấu thành từ hành vi cố ý sử dụng một cách bất hợp pháp bất kỳ thiết bị, chất hoặc vũ
khí nào để thực hiện hành vi bạo lực chống lại người, hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản,
các phương tiện tại cảng hàng không
2.2.
Thẩm quyền xét xử tội phạm hàng không quốc tế theo các điều ước quốc tế
2.2.1. Nguyên tắc xác định thẩm quyền
Vấn đề xác định thẩm quyền xét xử và giải quyết xung đột pháp luật về thẩm
quyền xét xử được quy định trong các điều ước quốc tế. Theo đó, các quốc gia thành
viên cơng ước phải có nghĩa vụ trong việc xác định thẩm quyền tài phán của mình trên
cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.

 Nguyên tắc thẩm quyền theo lãnh thổ quốc gia
Một quốc gia có chủ quyền hoàn toàn, riêng biệt, đầy đủ, chủ quyền quốc gia
được coi là tối cao và bất khả xâm phạm. Do đó, nguyên tắc thẩm quyền theo lãnh thổ
quốc gia trong việc xác định thẩm quyền xét xử tội phạm là quốc gia nơi hành vi phạm
tội được thực hiện.
Trong một số Công ước quy định: Quốc gia mà phương tiện bay mang quốc tịch
hoặc quốc gia mà tàu biển mang cờ cũng có thẩm quyền giải quyết nếu hành vi phạm tội

được thực hiện trên phương tiện bay hoặc trên tàu biển của quốc gia đó. Tuy nhiên,
nguyên tắc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ lại không thể áp dụng nếu hành vi phạm
tội được thực hiện trên lãnh thổ quốc tế như vùng biển quốc tế, vùng trời quốc tế, vùng
khoảng không vũ trụ…

 Nguyên tắc thẩm quyền theo quốc tịch
Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân và quốc gia được thể hiện qua quốc tịch của
một cá nhân; Quốc tịch của một cá nhân là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của một cá


nhân cụ thể đối với quốc gia họ mang quốc tịch và ngược lại. Hiến pháp, pháp luật của
các quốc gia đều quy định về việc bảo vệ công dân của mình.
Hầu hết các nước áp dụng nguyên tắc trên cơ sở: Quyền lực nhà nước đối với
công dân của mình khơng giới hạn cả về khơng gian và thời gian. Nhà nước có nghĩa vụ
bảo vệ quyền lợi, tính mạng, sức khỏe… của cơng dân mình và có quyền áp dụng hình
phạt đối với những hành vi phạm tội của họ bất kể họ đang ở trong nước hay ở nước
ngồi Theo ngun tắc này thì quốc gia có người phạm tội là cơng dân nước mình thì có
thẩm quyền xét xử cơng dân đó, khơng phụ thuộc vào nơi hành vi phạm tội được thực
hiện.

 Nguyên tắc xác định thẩm quyền xét xử dựa trên cơ sở đảm bảo an ninh quốc gia.
Đảm bảo an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm
thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Mọi hành vi xâm phạm an ninh quốc
gia đều phải bị xử lý nghiêm minh, kịp thời theo đúng quy định của pháp luật. Người chỉ
huy, cầm đầu, chủ mưu, ngoan cố chống đối thì bị nghiêm trị.
Nguyên tắc xác định thẩm quyền xét xử dựa trên cơ sở đảm bảo an ninh quốc gia
nhằm đảm bảo cho quốc gia có khả năng truy tố, xét xử các tội phạm xâm phạm đến sự
ổn định, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
một quốc gia.
Trong thực tiễn quốc tế, nguyên tắc này ít được áp dụng vì việc xác định có hay

không hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, ở mức độ nào, hậu quả của hành vi phạm
tội…thuộc quyền quyết định của mỗi quốc gia.

 Nguyên tắc thẩm quyền xét xử phổ cập
Trong các điều ước quốc tế đều khẳng định: mọi tội phạm đều phải bị trừng trị
thích đáng. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong luật quốc tế nhằm giải
quyết thực tế phát sinh khi kẻ phạm tội cố tình lẩn trốn pháp luật.
Nguyên tắc này cho phép tất cả các quốc gia liên quan có thể xác lập quyền tài
phán. Theo đó, quốc gia nơi kẻ phạm tội đang hiện diện và không bị dẫn độ có nghĩa vụ
xác lập thẩm quyền xét xử của mình phù hợp với luật pháp quốc gia. Tuy nhiên, nguyên
tắc này chỉ được áp dụng đối với một số tội phạm xác định, đồng thời không quan tâm
đến việc hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ nước nào, chống lại ai và ai là
người thực hiện hành vi tội phạm
2.2.2.

Quy định về việc xác định thẩm quyền xét xử đối với tội phạm hàng không
quốc tế trong các điều ước quốc tế về an ninh hàng không dân dụng

Tại Điều 3, Công ước Tokyo 1963, quốc gia có thẩm quyền xét xử các tội phạm
hàng không là quốc gia đăng tịch phương tiện bay. Đồng thời, Công ước cũng không


loại trừ quyền tài phán về hình sự được thực hiện phù hợp với luật pháp quốc gia. Ngồi
ra, Cơng ước còn quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các
biện pháp cần thiết để khẳng định quyền tài phán của mình. Điều 4, Công ước Tokyo
quy định: dành cho các quốc gia thành viên hữu quan khác cũng có thẩm quyền tài phán
bên cạnh quốc gia đăng tịch tàu bay, đó là các quốc gia sau:
Một là, quốc gia mà hậu quả của hành vi tội phạm phát sinh trên lãnh thổ nước mình.
Hai là, quốc gia có kẻ phạm tội là công dân hoặc cá nhân thường trú trên lãnh thổ nước
mình.

Ba là, quốc gia mà hành vi phạm tội được thực hiện để chống lại công dân hoặc người
thường trú của quốc gia đó.
Bốn là, quốc gia mà hành vi tội phạm hàng không vi phạm các quy tắc, quy định về
chuyến bay của tàu bay hoặc hoạt động của tàu bay đang có hiệu lực tại nước này.
Năm là, quốc gia mà việc thực hiện thẩm quyền tài phán của nước này là cần thiết để
đảm bảo tuân thủ bất kỳ nghĩa vụ nào hoặc cam kết quốc tế mà quốc gia đó đã tham gia
trong các điều ước quốc tế đa phương.
Công ước Tokyo 1963 không quy định cơ chế giải quyết vấn đề xung đột về thẩm
quyền, đây là điểm hạn chế của công ước. Công ước Lahay 1970 và Cơng ước Montreal
năm 1971 đều có các quy định giống nhau về nguyên tắc xác định thẩm quyền tài phán
của quốc gia thành viên có liên quan đối với các hành vi phạm tội thuộc đối tượng điều
chỉnh của hai công ước. Theo Điều 4 Công ước Lahay 1970, Điều 5 Công ước Montreal
1971, các quốc gia thành viên sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để xác định thẩm
quyền xét của mình, cụ thể trong các trường hợp:
+ Tội phạm được thực hiện trên tàu bay của quốc gia đăng tịch phương tiện bay.
+ Khi tàu bay nơi tội phạm đã được thực hiện, hạ cánh trên lãnh thổ nước mình cùng
với kẻ tình nghi phạm tội vẫn ở trên phương tiện bay đó.
+ Khi tội phạm được thực hiện trên tàu bay thuê, không có phi hành đồn, nơi người
hoặc pháp nhân th tàu bay có trụ sở chính hoặc nếu khơng có trụ sở chính thì
thường trú ở quốc gia đó.
Ngồi ra, Cơng ước Montreal 1971 cịn có quy định dành cho quốc gia có quyền,
nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết xác lập thẩm quyền tài phán của mình khi tội
phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước, được thực hiện trên lãnh thổ quốc gia đó.
Vấn đề pháp lý quan trọng trong luật hàng không quốc tế cần được quan tâm,
nghiên cứu cụ thể mà trước đó Cơng ước Tokyo chưa đề cập đến là việc ghi nhận
nguyên tắc thẩm quyền phổ cập trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
hàng khơng quốc tế, mà Công ước Lahay và Công ước Montreal đã khắc phục được điều


đó. Nội dung của nguyên tắc phổ cập được ghi nhận trong hai công ước này, quy định

các quốc gia thành viên có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp thích hợp để xác
định thẩm quyền tài phán của mình đối với các tội phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của
hai công ước với điều kiện: Trên lãnh thổ của các quốc gia thành viên này kẻ tình nghi
phạm tội đang hiện diện và không được dẫn độ cho quốc gia hữu quan khác để tiến
hành xét xử theo thẩm quyền.
Tuy nhiên, phạm vi áp dụng nguyên tắc thẩm quyền phổ cập ở hai công ước là
không giống nhau. Công ước Lahay cho phép áp dụng nguyên tắc này đối với tất cả các
hành vi phạm tội thuộc sự điều chỉnh của nó, cịn Cơng ước Montreal 1971 quy định chỉ
cho phép áp dụng nguyên tắc thẩm quyền phổ cập đối với một số hành vi phạm tội nhất
định như hành vi sử dụng vũ lực, hành vi phá hoại hay phá hủy tàu bay, hành vi đặt, để
các trang thiết bị, vật thể lên tàu bay nhằm phá hoại, phá hủy tàu bay.
Công ước Lahay 1970 và Công ước Montreal 1971 đều không loại trừ bất kỳ
quyền tài phán về hình sự nào phù hợp với luật pháp quốc gia và quy định nghĩa vụ
"trừng phạt nghiêm khắc" tội phạm hàng không quốc tế. Đây là cách giải quyết theo
phương pháp trung hòa do bất đồng sâu sắc về quan điểm phân định thẩm quyền xét xử.
Việc không định danh và đưa ra mức án cụ thể mà chỉ xác định nghĩa vụ trừng phạt
nghiêm khắc của các quốc gia thành viên tuy chưa phải là giải pháp toàn diện và triệt để
cho vấn đề nhưng là kết quả của sự thỏa thuận, nhất trí chung mà các quốc gia có thể
chấp nhận được, tạo điều kiện cho việc nhanh chóng thơng qua các cơng ước, đồng thời
loại bỏ xung đột pháp luật giữa các quốc gia.

 Điểm yếu cơ bản của luật quốc tế về an ninh hàng không trong lĩnh vực xác định
thẩm quyền tài phán là đều chấp nhận khả năng phát sinh xung đột về thẩm quyền
xét xử và ghi nhận nguyên tắc thẩm quyền phổ cập như là nguyên tắc bổ sung. Điều
này đã hạn chế rất lớn hiệu quả điều chỉnh của hệ thống điều ước về an ninh hàng
không trong quá trình đấu tranh với các hành vi can thiệp bất hợp pháp trong hoạt
động hàng không dân dụng quốc tế.
2.3.
Quy định pháp luật về dẫn độ tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế
2.3.1. Nguồn của chế định dẫn độ tội phạm

Có hai hệ thống nguồn luật của dẫn độ tội phạm là pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia.
Pháp luật quốc tế: trong khuôn khổ hợp tác quốc tế nhằm đấu tranh phịng,
chống tội phạm nói chung và trong việc dẫn độ tội phạm nói riêng thì cơ sở pháp lý quan
trọng nhất của hoạt động tương trợ tư pháp giữa các quốc gia là các điều ước quốc tế.
Các điều ước này quy định về thủ tục dẫn độ và ấn định nghĩa vụ dẫn độ của các bên liên
quan, do đó các bên ký kết không thể từ chối dẫn độ nếu yêu cầu dẫn độ đáp ứng đủ điều
kiện được quy định. Những điều ước quốc tế về dẫn độ có thể là Hiệp định song phương
hoặc đa phương. Năm 1980, Liên hợp quốc xây dựng Hiệp định mẫu về dẫn độ. Hiệp


định này chứa đựng những quy định khung về dẫn độ và các quốc gia có thể tham chiếu
khi đàm phán, ký kết những Hiệp định song phương về dẫn độ.
+ Việt Nam đã ký kết hơn 10 Hiệp định tương trợ tư pháp có quy định về vấn đề dẫn
độ với các quốc gia khác nhau như: Liên Xô (từ Điều 87 đến 74), Tiệp khắc (từ Điều
61 đến Điều 79), Cu Ba (từ Điều 53 đến Điều 73), Hungary (từ Điều 58 đến Điều
75), Bungary (từ Điều 59 đến Điều 74), BaLan (từ Điều 52 đến Điều 69), Liên bang
Nga (từ Điều 62 đến Điều 77), Cộng hòa nhân dân Lào (từ Điều 52 đến Điều 76),
Hiệp định dẫn độ với Hàn Quốc, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa các nước
ASEAN… Những điều ước này là cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ tội phạm giữa Việt
Nam và các quốc gia khác.
 Nếu khơng có điều ước quốc tế thì các quốc gia vẫn có thể tiến hành dẫn độ trên cơ
sở áp dụng nguyên tắc có đi có lại.
Trên thực tiễn tư pháp quốc tế, các quốc gia đã cùng nhau ký kết các điều ước
quốc tế điều chỉnh từng nhóm vẫn đề như các điều ước về vấn đề hình sự (gồm các vấn
đề về tống đạt giấy tờ, hồ sơ tài liệu...), vấn đề dẫn độ người phạm tội, vấn đề chuyển
giao người bị kết án để thi hành án…
2.3.2. Các nguyên tắc pháp luật về dẫn độ tội phạm
* Nguyên tắc sự hưởng quốc tịch đối với dẫn độ: Pháp luật một số quốc gia quy
định không dẫn độ công dân của quốc gia mình cho quốc gia khác. Xét về phương diện

chủ quyền quốc gia, mỗi quốc gia có quyền tài phán đối với cơng dân của mình khơng bị
giới hạn ở phạm vi lãnh thổ.
* "Không dẫn độ công dân nước mình" là một trong những nguyên tắc cơ bản
của thực tiễn pháp luật về dẫn độ quốc tế.
 Tại Điều 6 Công ước Châu Âu về dẫn độ năm 1957 quy định, mỗi bên có quyền từ
chối dẫn độ cơng dân của mình, trong trường hợp này, bên được yêu cầu phải giao
người phạm tội cho các cơ quan có thẩm quyền để thực hiện những thủ tục mà họ
cho là phù hợp.
 Điều 6, Hiệp định dẫn độ Việt Nam - Hàn Quốc quy định: các bên không có nghĩa vụ
phải dẫn độ cơng dân của mình theo Hiệp định này. Nếu việc dẫn độ bị từ chối trên
cơ sở quốc tịch thì theo đề nghị của bên yêu cầu, bên được yêu cầu sẽ đưa vụ án ra
trước cơ quan có thẩm quyền để truy tố.
 Nguyên tắc khơng dẫn độ cơng dân nước mình được nhiều nước thừa nhận, đặc
biệt ở các nước theo truyền thống pháp luật Civil Law. Tuy nhiên, nguyên tắc này không
phải lúc nào cũng được áp dụng mọi lúc, mọi nơi. Chẳng hạn như nước Ý mặc dù thiết
lập nguyên tắc khơng dẫn độ cơng dân của mình trong Điều 3 - Bộ luật hình sự, nhưng
vẫn có ngoại lệ trong trường hợp cơng ước quốc tế có quy định khác. Hà Lan chỉ dẫn độ


cơng dân của mình nếu việc dẫn độ khơng vì mục đích truy tố và bên yêu cầu phải giao
người bị kết án tù cho Hà Lan để thi hành ở nước này.
* Ngun tắc tính có thể dẫn độ của tội phạm: nguyên tắc được thừa nhận
chung trong các điều ước quốc tế là các tội phạm chính trị có thể khơng bị dẫn độ. Song
trong các điều ước quốc tế lại khơng có quy định rõ ràng thế nào về tội phạm chính trị
mà tùy thuộc vào pháp luật của quốc gia được yêu cầu dẫn độ xác định thế nào là tội
phạm chính trị. Trong một số Hiệp ước về dẫn độ người phạm tội có liệt kê các tội phạm
có thể bị dẫn độ, nhưng hầu hết các hiệp ước đều chỉ định nghĩa tội phạm có thể bị dẫn
độ trong các điều khoản chung, theo tính chất nghiêm trọng hoặc mức độ hình phạt dành
cho tội đó (như thời hạn phạt tù thấp nhất dành cho người phạm tội có thể bị dẫn độ
thường từ 01 năm tù trở lên).

* Nguyên tắc cả hai quốc gia đều phải coi là tội phạm: Theo nguyên tắc này,
việc dẫn độ chỉ có thể được thực hiện đối với người thực hiện hành vi được coi là tội
phạm và có thể bị trừng phạt theo pháp luật của cả bên yêu cầu và bên được yêu cầu.
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2015, Luật tương trợ tư pháp năm 2007 quy
định rằng, Việt Nam có thể từ chối dẫn độ nếu hành vi phạm tội không cấu thành tội
phạm theo pháp luật Việt Nam.
Nguyên tắc này được quy định trong các điều ước quốc tế song phương và đa
phương về dẫn độ và được thừa nhận rộng rãi, bởi lẽ: nước yêu cầu không thể yêu cầu
dẫn độ đối với người thực hiện hành vi không bị coi là tội phạm theo pháp luật nước
mình, và nước được yêu cầu cũng không thể dẫn độ một người thực hiện hành vi không
bị coi là tội phạm theo pháp luật nước đó.
Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này gặp nhiều khó khăn vì việc quy định
hành vi phạm tội trong pháp luật mỗi nước không giống nhau, có nhiều trường hợp cùng
một hành vi nhưng ở nước này thì bị coi là tội phạm nhưng ở nước khác thì khơng; và
nước u cầu sẽ gặp khó khăn khi xác định hành vi của người bị yêu cầu dẫn độ có phải
là tội phạm theo quy định của pháp luật nước được yêu cầu hay không. Do đó, chúng ta
nên so sánh các cấu thành tội phạm theo quy định pháp luật nước được yêu cầu. Theo
đó, nếu cấu thành tội phạm có một số điểm chung thì coi như nguyên tắc này được đáp
ứng. Điểm b, khoản 3, Điều 2 Hiệp định dẫn độ Việt Nam - Hàn Quốc quy định, các yếu
tố cấu thành tội phạm theo pháp luật của các bên không nhất thiết phải giống nhau.
* Nguyên tắc này yêu cầu hai điều kiện: hành vi phải được coi là tội phạm theo
pháp luật của cả nước yêu cầu và nước được yêu cầu và hành vi đó phải bị trừng phạt
hoặc sẽ bị trừng phạt theo pháp luật hai nước.
* Nguyên tắc không truy cứu hai lần: Theo nguyên tắc này, dẫn độ chắc chắn sẽ
bị từ chối nếu cá nhân được yêu cầu dẫn độ đã bị xét xử về chính hành vi phạm tội đó.


×