CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC
TẾ
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
1.1. Khái niệm
Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận
(Điều 3 khoản 8- Luật Thương mại 2005) Mua bán hàng hoá quốc tế là hoạt động mua
bán hàng hoá được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất, tạm
xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Việc MBHHQT phải được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng bằng văn bản, hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 27-
Luật Thương mại 2005)
Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hoá chính là hợp đồng. Hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế (MBHHQT) trước hết là một hợp đồng mang đầy đủ đặc trưng của
một hợp đồng mua bán hàng hoá, nhưng có thêm yếu tố quốc tế. Tính quốc tế của hợp
đồng MBHHQT có thể được xác định bằng nhiều cách, được công nhận cả trên phạm vi
luật pháp quốc tế và phạm vi luật pháp quốc gia. Việc xác định yếu tố quốc tế này căn
cứ vào nơi kinh doanh hoặc nơi thường trú của các đối tác, hay những tiêu chuẩn tổng
quát hơn như việc đánh giá hợp đồng “có quan hệ quan trọng tới nhiều quốc gia”, “liên
quan đến sự lựa chọn giữa luật của các nước khác nhau”, hoặc “có ảnh hưởng đến các
quyền lợi trong buôn bán quốc tế”
(1)
. Theo giả định của nguyên tắc hợp đồng thương
mại quốc tế ( PICC- Principles of International Commercial Contracts) thì quan điểm về
các hợp đồng “quốc tế” nên được giải thích theo nghĩa rộng nhất, để loại trừ những
trường hợp không liên quan đến yếu tố quốc tế, ví dụ khi tất cả các yếu tố cơ bản của
hợp đồng chỉ liên quan đến một quốc gia cụ thể.
1
“
Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế” Người dịch: Lê Nết-NXB TP HCM 1999.
Điều 1 Công ước La Haye 1964 về mua bán hàng hoá quốc tế những tài sản hữu
hình, hợp đồng MBHHQT được định nghĩa: “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là
hợp đồng, trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng
hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí kí kết hợp đồng
giữa các bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau” Công ước Viên 1980 của Liên
hợp quốc về hợp đồng MBHHQT đã gián tiếp định nghĩa loại hợp đồng này khi quy
định trong Điều 1: “Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá
được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”.
Ở Việt Nam, Luật Thương mại 1997 đề cập đến “hợp đồng mua bán hàng hoá
với thương nhân nước ngoài” ở Điều 80, và chỉ đề cập đến những điểm khác biệt của
loại hợp đồng này thông qua sự khác biệt trong quốc tịch của các chủ thể tham gia hợp
đồng: “hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán
hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương
nhân nước ngoài”. Luật Thương mại Việt Nam 2005 cũng chỉ đưa ra quy định hình
thức hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là “thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn
bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương” (Điều 27.2)
Việc đưa ra một khái niệm rõ ràng, chính xác cho hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế chưa được quan tâm thích đáng trong khoa học pháp lý Việt Nam. Điều này có
thể do Việt Nam mới tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế và trong thực tiễn
chưa có vụ tranh chấp nào liên quan đến việc xác định luật áp dụng, căn cứ vào tính
quốc tế cuả hợp đồng
(2)
. Một số tác giả đã đưa ra khái niệm cho hợp đồng này trên tinh
thần của các công ước quốc tế, các văn bản pháp luật mà Việt Nam đề cập. Tiến sỹ
Phan Thị Thanh Hồng – Đại học KT Đà Nãng đưa ra khái niệm: “hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các thương nhân cớ trụ sở kinh doanh đặt
ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng
và chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên khác gọi là Bên nhập khẩu và nhận thanh
toán. Bên nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán cho bên xuất khẩu, nhận hàng và quyền sở
hữu hàng hoá theo thoả thuận.”
(3)
Một khái niệm khá phổ biến nữa là của ông Vũ Hữu
2 Dương Anh Sơn: “Tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương”. Tạp chí KHPL Số 6/2004,
phiên bản html: Ngày truy cập 6/3/2008.
3 Phan Thị Thanh Hồng: “Hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế”. NXB Lao Động 2005.
Tửu-giảng viên cao cấp, già giáo ưu tú Đại học Ngoại Thương Hà Nội thì “hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng mua
bán ngoại thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước
khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (Bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào
quyền sở hữu của một bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua) một tài sản nhất định
gọi là hàng hoá; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng”
(4)
….
Như vậy, ta có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống nhất về
ý chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có yếu tố nước ngoài mà thông qua
đó, thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể đó
với nhau.
Yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng quốc tế được biểu hiện:
- Các bên tham gia giao kết hợp đồng MBHHQT là các thương nhân có quốc
tịch khác nhau (nếu chỉ xác định tính quốc tế bằng cách này thì gặp nhiều khó khăn và
đôi khi không xác định được do pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau xác định quốc
tịch của pháp nhân không giống nhau) và có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau
(đây là cách xác định theo Công ước Viên 1980 được áp dụng rất phổ biến);
- Hàng hóa - đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới quốc gia
hoặc giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác
nhau;
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc
chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác
nhau;
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là ngoại tệ đối
với ít nhất là một bên trong quan hệ hợp đồng;
- Luật điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, các điều ước quốc tế và các tập quán
quốc tế khác về thương mại và hằng hải.
1.2. Đặc điểm
4 Vũ Hữu Tửu: “Hợp đồng mua bán quốc tế”.Bài viết hỗ trợ kinh doanh. .Ngày 6/3/2008.
- Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận có ý chí giữa các bên giao kết. Đây là
đặc trưng rất cơ bản của một hợp đồng nói chung.
- Chủ thể của hợp đồng là bên bán và bên mua là các thương nhân có trụ sở kinh
doanh đặt tại các quốc gia khác nhau. Nếu các bên không có trụ sở kinh doanh thì sẽ
căn cứ vào nơi cư trú của họ. Việc căn cứ vào quốc tịch của cá nhân ít được sử dụng do
không phổ biến và đôi khi gặp khó khăn ví dụ hai người trực tiếp ký vào hợp đồng đều
mang quốc tịch Việt Nam nhưng đại diện cho các bên có trụ sở kinh doanh đặt tại các
quốc gia khác nhau, và hợp đồng này vẫn là hợp đồng MBHHQT.
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá phải qua biên giới quốc gia (biên giới hải
quan) hay giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước
khác nhau; hoặc hàng hoá không phải qua biên giới nhưng hàng được các tổ chức quốc
tế dùng ở lãnh thổ Việt Nam (sứ quán, công trình đầu tư nước ngoài…). Thuật ngữ
“biên giới hải quan” được sử dụng xuất phát từ thực tiễn hình thành các kho ngoại
quan, các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế, và những quy chế hải quan đặc biệt dành
cho sự hoạt động của các khu vực này làm cho biên giới lãnh thổ không thật chính xác
để xác định ranh giới di chuyển của hàng hoá xuất nhập khẩu
(5)
.
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc
chuyển giao quyền sở hữu của hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác
nhau;
- Đồng tiền tính giá hoặc thanh toán không còn là đồng nội tệ của một quốc gia
mà là ngoại tệ đối với ít nhất một bên ký kết. Phương thức thanh toán thông qua hệ
thống ngân hàng.
- Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng đa dạng và phức tạp. Không chỉ còn luật quốc
gia mà còn bao gồm các điều ước quốc tế về thương mại, luật nước ngoài và các tập
quán thương mại quốc tế.
- Cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là toà án, hay trọng tài
thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại là
cơ quan nước ngoài đối với ít nhất một trong các chủ thể.
5 Phan Thị Thanh Hồng: “Mộ số vấn đề cần lưu ý nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế”. . Ngày truy cập 6/3/2008.
2. Nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng MBHHQT có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật khác nhau
như các điều ước về MBHHQT, các tập quán quốc tế về thương mại, pháp luật của các
quốc gia… Việc nguồn luật nào điều chỉnh còn tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.
2.1. Điều ước quốc tế
Theo Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế: “Điều ước quốc tế là tất cả
các văn bản được ký kết giữa các quốc gia và do Luật quốc tế điều chỉnh”. Vậy có thể
nói, điều ước quốc tế về thương mại là sự thoả thuận bằng văn bản giữa hai hoặc nhiều
quốc gia ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhằm ấn định,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ thương mại quốc
tế.
Trong lĩnh vực mua bán hàng hoá quốc tế có một số điều ước quốc tế tiêu biểu:
- Điều kiện chung về giao hàng giữa các tổ chức kinh tế của các nước thành viên
Hội đồng tương trợ kinh tế (ĐKCGHSEV 1968/1988) điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Một điều ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực MBHHQT là công ước Viên
về mua bán hàng hoá quốc tế ngày 1/1/1980. Đến nay đã có hơn 60 nước phê chuẩn
công ước này (Xem phụ lục 1)..
- Quy tắc La Hay ngày 15/6/1955 về Luật áp dụng vào hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế.
- Công ước Rôma về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
được ký tại Rôm ngày 19/6/1980.
- Công ước Liên Mỹ về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế được ký ở
Mehico City ngày 17/5/1994, được thông qua bởi Hội nghị quốc tế Liên Mỹ về tư pháp
quốc tế tổ chức tại Mehico City
(6)
.
Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết hơn 60 Hiệp định thương mại song phương.
Trong đó phải kể đến: Hiệp định Buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU là hiệp định
thương mại chứa đựng những điều khoản liên quan đến xuất xứ của hàng hoá, điều
khoản liên quan đến hạn ngạch (quota) và quy định danh mục mặt hàng. Việc ký kết các
6 Nguyễn Vũ Hoàng: “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường toà án” NXB Thanh Niên
2004. Trang 23.
hiệp định thương mại, là thành viên của các công ước quốc tế sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận
lợi và thống nhất cho hoạt động MBHHQT giữa các thương nhân Việt Nam với các
thương nhân nước ngoài
(7)
.
2.2. Luật quốc gia
Trong hoạt động thương mại quốc tế, luật quốc gia áp dụng thông thường là luật
của nước bên bán, nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, có thể là luật của nước
thứ ba, luật nơi ký hợp đồng, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ hợp đồng được thực
hiện…
(8)
Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT trong các trường
hợp:
- Các bên ký hợp đồng về việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng.
Việc thoả thuận áp dụng luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng phải được ghi trong
hợp đồng MBHHQT.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT được quy định trong
các điều ước quốc tế liên quan xác định luật của một quốc gia đương nhiên trở thành
luật áp dụng cho các hợp đồng đó. Thông thường, luật quốc gia áp dụng sẽ là luật của
nước bên bán, nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, có thể là luật của nước thứ
ba, luật nơi ký kết hợp đồng, luật của nước mà các bên mang quốc tịch,…
2.3. Án lệ
Án lệ hay tiền lệ pháp về thương mại cũng được các thương nhân tham gia ký
kết hợp đồng thương mại quốc tế coi trọng và lựa chọn, đặc biệt là ở các quốc gia theo
hệ thống thông luật (Common law). Trong thương mại quốc tế, việc công nhận và sử
dụng các phán quyết của toà án cũng như thừa nhận vai trò tích cực của án lệ đang ngày
một gia tăng tại các nước có hệ thống pháp luật khác nhau. Cơ quan xét xử có thể vận
dụng án lệ tương tự để giảm nhẹ những khó khăn phức tạp trong việc tra cứu, mà các
tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế thường tập trung vào một số vấn đề và
có nhiều trường hợp tương đồng.
7 Trần Văn Nam - Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thương mại quốc tế”. Đại học kinh tế
quốc dân. 2005. Trang 100.
8 Bùi Xuân Nhự (Chủ biên): “Giáo trình Tư pháp quốc tế”. ĐH Luật HN. NXB Công an nhân dân.1997. Tr 38-
41
2.4. Tập quán thương mại quốc tế
Các tập quán thương mại quốc tế hình thành từ rất lâu đời. Các tập quán này sẽ
trở thành nguồn luật đìều chỉnh các hợp đồng MBHHQT nếu các chủ thể tham gia ký
kết hợp đồng chấp nhận các tập quán thương mại quốc tế sẽ là nguồn luật điều chỉnh.
Khi được dẫn chiếu vào hợp đồng MBHHQT, các tập quán thương mại sẽ có
hiệu lực bắt buộc áp dụng đối với các chủ thể ký kết, chúng được chia thành nhóm: Các
(1)
tập quán có tính chất nguyên tắc; các tập quán thương mại quốc tế chung và các tập
quán thương mại khu vực. Ví dụ, một tập quán thông dụng trong mua bán quốc tế được
Phòng Thương mại quốc tế (The International Chamber of Commerce - ICC) soạn thảo
và ban hành một tập quán thông dụng trong mua bán quốc tế là Incoterms (phụ lục 2).
II. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG
ƯỚC VIÊN 1980
Công ước này được ký kết ngày 11/4/1980 tại Viên (Áo). Ban đầu ký kết chỉ có
6 quốc gia thành viên. Số lượng các quốc gia phê chuẩn Công ước ngày càng tăng lên
và đến nay đã có trên 60 quốc gia thành viên (phụ lục 1). Công ước Viên là nguồn luật
chủ yếu để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hiện nay.
1. Phạm vi áp dụng
Công ước Viên được áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên
có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau. Theo Điều 1, Công ước Viên chỉ coi
trọng nơi đặt trụ sở thương mại chứ không chú ý tới quốc tịch của các bên tham gia hợp
đồng.
Công ước được áp dụng khi các bên tham gia hợp đồng có trụ sở ở các quốc gia
là thành viên của Công ước.. Công ước cũng được áp dụng nếu chỉ có một bên có trụ sở
tại nước phê chuẩn Công ước, nhưng quy định xung đột về luật điều chỉnh đã dẫn tới
việc áp dụng luật của nước này ví dụ như khi các bên thoả thuận áp dụng luật của nước
bên bán, mà nước bên bán là thành viên của Công ước; hoặc trường hợp các bên thoả
thuận áp dụng luật của nước thứ 3, mà nước này là thành viên của Công ước. Ngoài ra,
Công ước cũng có thể được áp dụng khi hai bên không có trụ sở thương mại tại nước
thành viên Công ước nhưng lại thoả thuận áp dụng Công ước. Trường hợp này, Công
ước cũng cho phép các bên có thể thoả thuận không áp dụng hoặc không áp dụng hoàn
toàn một điều khoản nào đó của Công ước trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng
(9)
.
2. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
2.2. Giao kết hợp đồng MBHHQT
2.2.1. Chào hàng (Offer order)
Chào hàng là “đề nghị về việc giao kết hợp đồng được gửi đích danh cho một
hoặc một vài người” (Điều 14). Có hai loại: chào hàng cố định –Firmed (người đề nghị
bày tỏ ý chí rằng buộc bởi lời đề nghị của mình nếu có sự chấp nhận); chào hàng tự do
–Free (đề nghị được gửi cho một hoặc nhiều người không xác định). Hiệu lực chào
hàng chỉ phát sinh khi chào hàng tới nơi người được chào hàng (Điều 15 khoản 1).
Chào hàng cũng có thể bị huỷ nếu thông báo của người chào hàng về việc huỷ chào
hàng gửi đến tới nơi người được chào trước hoặc cùng lúc với chào hàng (Điều 15
khoản 2). Một chào hàng sẽ mất hiệu lực khi người chào hàng nhận được thông báo về
việc từ chối chào hàng (Điều 17).
2.2.2. Chấp nhận chào hàng (Accept order)
Chấp nhận chào hàng là “một lời tuyên bố hay một hành vi khác của người được
chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng” (Điều 14.khoản 1). Sự im lặng hoặc không
hành động của người nhận được chào hàng không được coi là chấp nhận chào hàng.
Một chấp nhận chào hàng có hiệu lực pháp lý từ khi người chào hàng nhận được chấp
thuận chào hàng, và được gửi tới trong thời hạn mà người chào hàng đã quy định trong
chào hàng. (Điều 18 khoản 2).
Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm sự chấp nhận chào hàng có hiệu
lực (Điều 23), và từ thời điểm này các bên có những quyền và nghĩa vụ được quy định
trong hợp đồng.
9 Trần Văn Nam - Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thương mại quốc tế”. Đại học kinh tế
quốc dân. 2005. Trang 104 – 205
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng
3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán
3.1.1. Nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng hoá
Công ước Viên quy định về giao hàng và chuyển giao chứng từ liên quan đến
hàng hoá từ Điều 31 đến Điều 34 của Công ước. Theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao
hàng và các chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua đúng thời gian. Thời gian
này là thời điểm mà các bên đã thoả thuận, nếu không thoả thuận cụ thể trong hợp đồng
thì có thể căn cứ vào hợp đồng để xác định được. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng
số lượng, chất lượng, quy cách phẩm chất như mô tả trong hợp đồng. Về địa điểm giao
hàng, nếu các bên không thoả thuận thì bên bán phải giao hàng theo quy định tại Điều
31 Công ước.
3.1.2. Quyền của bên bán
Công ước nêu rõ, bên bán có quyền được thanh toán theo những quy định trong
hợp đồng. Trường hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ của mình thì bên bán có quyền thực
hiện những biện pháp bảo hộ pháp lý cũng theo quy định của Công ước như sau:
- Yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hay thực hiện các nghĩa vụ khác của
người mua, trừ phi họ sử dụng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác không thích hợp với
các yêu cầu đó (Điều 62).
- Có thể chấp nhận cho người mua một thời gian bổ sung hợp lý để thực hiện
nghĩa vụ của họ (Điều 63 khoản 1).
- Tuyên bố huỷ hợp đồng trong các trường hợp quy định tại Điều 64.
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Điều 74.
- Ngoài ra, bên bán có thể yêu cầu trả tiền lãi khi bên mua chậm thanh toán, theo
quy định Điều 78.
3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua
3.2.1. Quyền của bên mua
Bên mua có quyền thực hiện một số biện pháp để bảo vệ lợi ích của mình khi
bên bán vi phạm nghĩa vụ của họ. Một số biện pháp được quy định trong Công ước là:
- Yêu cầu bên bán phải thực hiện nghĩa vụ của họ theo thoả thuận trong hợp
đồng. Ở đây có thể là yêu cầu bên bán cung cấp hàng hoá đúng thoả thuận trong trường
hợp hàng hoá chưa phù hợp; hoặc yêu cầu tiếp tục bổ sung hàng hoá nếu không đảm
bảo đủ số lượng; hoặc sửa chữa…
- Bên mua có thể cho phép bên bán thêm một thời hạn nhất định để thực hiện
hợp đồng nếu bên bán không đảm bảo được đúng thời hạn giao hàng (Điều 47).
- Bên mua cũng có quyền tuyên bố huỷ hợp đồng trong các trường hợp bên bán
không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tạo thành một vi phạm cơ bản hợp đồng hay
khi bên bán không giao hàng trong thời hạn bên mua gia hạn thêm hoặc bên bán tuyên
bố sẽ không giao hàng trong thời bạn bổ sung đó (Điều 49).
3.2.2. Nghĩa vụ của bên mua
Điều 53 Công ước Viên quy định: người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng
và nhận hàng theo quy định của hợp đồng.
- Về thanh toán tiền hàng: bên mua phải trả tiền vào ngày thanh toán đã quy định
hoặc có thể được xác định theo hợp đồng và theo Công ước, mà không cần phải có một
lời yêu cầu hay việc thực hiện một tục nào khác về phía người bán (Điều 59). Nghĩa vụ
thanh toán tiền hàng bao gồm việc áp dụng các biện pháp và tuân thủ các biện pháp mà
hợp đồng hoặc luật lệ đòi hỏi để có thể thực hiện được thanh toán.
- Về việc nhận hàng: Bên mua có các nghĩa vụ theo quy định của Công ước Viên
tại Điều 60. Theo đó, bên mua phải thực hiện mọi hành vi tạo điều kiện cho bên bán
giao hàng và tiếp nhận hàng hoá.
4. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi
phạm hợp đồng phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết. Theo
Công ước Viên, có các hình thức trách nhiệm pháp lý sau:
4.1. Tiếp tục thực hiện hợp đồng
Bên vi phạm hợp đồng phải tiếp tục thực hiện hợp đồng khi bên bị vi phạm vẫn
yêu cầu phải thực hiện đúng theo nghĩa vụ đó trong các trường hợp:
- Khi bên bán chậm giao hàng: Nếu bên mua yêu cầu bên bán tiếp tục thực hiện
hợp đồng thì bên mua sẽ định ra một thời hạn để bên bán hoàn thành nghĩa vụ. Trường
hợp bên mua không chấp nhận giao hàng chậm hơn thời hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng thì bên mua có thể yêu cầu huỷ hợp đồng và bồi thường thiệt hại.
- Khi bên bán giao hàng thiếu số lượng: bên mua có quyền yêu cầu bên bán giao
hàng bổ sung cho đủ số lượng.
- Khi bên mua chậm thanh toán: Bên bán vẫn yêu cầu bên mua trả tiền theo hợp
đồng, và có thể yêu cầu phải trả thêm lãi suất cho số tiền chậm thanh toán.
- Khi hàng được giao không phù hợp hoặc không đúng theo quy định của hợp
đồng: Bên bán phải giao hàng thay thế hoặc sửa chữa khuyết tật nếu có trừ khi việc sửa
chữa là không hợp lý căn cứ vào tình tiết của sự việc (Điêề 46).
- Khi bên mua không nhận hàng theo hợp đồng: Bên bán yêu cầu bên mua phải
nhận hàng. Nếu trong thời hạn do bên bán ấn định mà bên mua vẫn không nhận hàng,
bên bán buộc phải huỷ hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại phát sinh (Điều 62).
4.2. Bồi thường thiệt hại
Các thiệt hại mà bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường cho bên bị vi phạm:
- Những tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu;
- Những thu nhập bị bỏ lỡ do hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia;
Về tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do vi phạm hợp đồng, Công ước Viên quy
định: “là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu
do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng”. Mức tiền này cũng không được cao hơn thiệt hại
thực tế và những khoản đáng lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ.
4.3. Huỷ hợp đồng
Trách nhiệm pháp lý này chỉ áp dụng khi hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi
phạm tạo thành một hành vi nghiêm trọng. Tức là hành vi đó làm cho bên bị thiệt hại,
trong một chừng mực đáng kể bị mất đi cái mà họ chờ đợi trên cơ sở hợp đồng (Điều
25). Có thể liệt kê các trường hợp mà hình thức pháp lý huỷ hợp đồng được áp dụng:
- Việc không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của hợp đồng tạo thành một vi
phạm chủ yếu đối với hợp đồng như: Giao hàng không đúng chủng loại đã quy định
trong hợp đồng; Hàng kém phẩm chất, hàng giao thiếu bộ phận nào đó mà việc giao
thiếu này dẫn đến việc không thể khai thác, sử dụng được hàng đã giao…
- Bên bán không giao hàng trong thời hạn gia hạn thêm của bên mua, hoặc bên
bán tuyên bố không giao hàng trong thời gian gia hạn thêm đó.
- Bên mua không trả tiền, hay không nhận hàng; hoặc tuyên bố không trả tiền,
hay không nhận hàng trong thời gian gia hạn thêm mà bên bán quy định.
III. CÁC ĐIỀU KIỆN GIAO HÀNG INCOTERMS VỚI HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
Điều kiện cơ sở giao hàng quy định những cơ sở có tính nguyên tắc của việc
giao nhận hàng hoá giữa bên bán với bên mua như: Sự phân chia bên bán với bên mua
các trách nhiệm tiến hành việc giao nhận hàng như các trách nhiệm: Thuê mướn công
cụ vận tải (thuê mướn tàu lưu cước…) bốc hàng, dỡ hàng, mua bảo hiểm, khai hải
quan, nộp thuế xuất khẩu, nộp thuế nhập khẩu v.v…; Sự phân chia giữa bên bán và bên
mua các chi phí về giao hàng như các chi phí chuyên chở hàng, chi phí bốc hàng, chi
phí dỡ hàng, chi phí lưu kho, chi phí mua bảo hiểm… Sự di chuyển từ người bán sang
người mua những rủi ro về tổn thất hàng hoá
(10)
.
Những nội dung trên là cơ sở nảy sinh các thuật ngữ nhất định trong buôn bán
quốc tế như: Giao tại xưởng (ex work), giao hàng trên tàu (free on board), tiền hàng +
phí bảo hiểm và cước phí (cost insurance and freight)..v.v.. Nội dung của các điều kiện
giao hàng này khá rộng và mỗi nước, mỗi khu vực có cách giải thích không hoàn toàn
giống nhau. Phòng Thương mại quốc tế (ICC) đã tổng hợp, xuất bản bộ Incoterm
(International Commercial Terms- các điều kiện thương mại quốc tế) nhằm xây dựng
các nguyên tắc giải thích các điều kiện thương mại quốc tế để các bên có thể thoả thuận
áp dụng cho một hợp đồng mua bán. Mỗi điều kiện của Incoterms được chọn sẽ trở
thành một điều khoản của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế chứ không phải là của
hợp đồng chuyên chở hàng hoá.
Về cơ bản, Incoterms trả lời câu hỏi khi nào ngưòi bán hoàn thành đầy đủ nghĩa
vụ giao hàng của mình. Những hậu quả do việc người bán không hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng không được đề cập trong Incoterms. Khi áp dụng Incoterms, các bên được
khuyến cáo là nên dẫn chiếu đến một phiên bản cụ thể để tránh những hiểu lầm không
cần thiết do có những sự khác biệt tương đối giữa các phiên bản Incoterms được Phòng
Thương mại quốc tế xuất bản lần đầu 1936, các bản sửa chữa, tái bản 1953, 1967,
10 Vũ Hữu Tửu: “Incoterms trong mua bán hàng hoá quốc tế”. Bài viết hỗ trợ kinh doanh.
Ngày truy cập 6/3/2008.