Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Vai trò của công nghệ trong công tác tư vấn nghề nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.26 KB, 11 trang )

VAI TRỊ CỦA CƠNG NGHỆ TRONG CƠNG TÁC TƯ VẤN NGHỀ NGHIỆP
PGS.TS. Trần Thành Nam1

Tóm tắt: Trong vấn đề liên quan đến nghề nghiệp được khách hàng quan

tâm đề cập thường có 2 nhóm chính: ra quyết định nghề nghiệp và nhu
cầu tìm việc. Trong bối cảnh hiện tại, cơng nghệ tích hợp trong các trang
web, các phương tiện truyền thông xã hội và các ứng dụng, đã mở rộng
các nguồn tài nguyên sẵn có để hỗ trợ các nhà tư vấn nghề nghiệp. Bài viết
bàn luận về những công cụ dựa trên nền tảng công nghệ để hỗ trợ cá nhân
trong việc đưa ra các quyết định nghề nghiệp cũng như hỗ trợ tìm kiếm
việc làm hiệu quả hơn theo mơ hình lý thuyết xử lý thơng tin nhận thức.
Trong bài viết, chúng tơi trình bày ứng dụng cơng nghệ và các chiến lược
cụ thể để đảm bảo rằng khách hàng có thể giải quyết những vấn đề khó
khăn liên quan đến nghề nghiệp.
Từ khóa: Cơng nghệ, Tư vấn nghề nghiệp, Mạng xã hội, ứng dụng.

1. Đặt vấn đề
Sự phát triển đáng kinh ngạc của công nghệ thời gian qua đã tăng cường cơ
hội cung cấp dịch vụ và kết nối với khách hàng có nhu cầu tư vấn nghề nghiệp. Với
những nhà tư vấn hướng nghiệp, việc tận dụng công nghệ như các công cụ trên
website, mạng xã hội, blogs hay các phần mềm điện thoại ngày càng trở nên cấp
thiết trong tiến trình tư vấn. Những cơng cụ này tạo ra cơ hội cho các nhà tư vấn để
tăng cường cung cấp dịch vụ và kết nối với khách hàng bên ngồi các văn phịng tư
vấn truyền thống. Gati và Asulin-Peretz (2011) cho rằng việc ứng dụng cơng nghệ
ngày càng đóng vai trị rất quan trọng đối với những nhà tư vấn trong quá trình tư
vấn nghề nghiệp cho khách hàng. Trong bài viết này, chúng tôi tập hợp một số quan
điểm và bằng chứng nghiên cứu đi trước về việc ứng dụng công nghệ trong hỗ trợ
cá nhân đưa ra các quyết định nghề nghiệp, tìm kiếm các cơ hội việc làm cũng như
đưa ra các gợi ý ứng dụng sức mạnh công nghệ để mở rộng và tăng cường hiệu quả
các dịch vụ tư vấn hướng nghiệp của các nhà tâm lý, xác định và giải quyết những


1

Khoa Các Khoa học giáo dục, Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội


248

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành

rào cản, khó khăn trong việc sử dụng cơng nghệ trong tư vấn hướng nghiệp. Bài viết
cũng đề cập đến các vấn đề khách hàng thường quan tâm trong quá trình tìm kiếm
sự tư vấn hỗ trợ.
2. Vai trị của công nghệ trong công tác tư vấn nghề nghiệp
2.1. Các vấn đề nghề nghiệp khách hàng thường quan tâm
Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội phát triển nghề nghiệp quốc gia Mỹ (2009)
khách hàng tới tư vấn thường quan tâm đến các nhóm vấn đề như: tự khám phá về
các đặc điểm của bản thân (điểm mạnh, điểm yếu của bản thân), cập nhật thông tin
về nghề nghiệp và yêu cầu của nghề nghiệp, có khả năng lập kế hoạch nghề nghiệp
và ra quyết định nghề nghiệp, ứng phó với những thách thức nghề nghiệp và các vấn
đề chuyển đổi nghề, tìm kiếm một cơng việc phù hợp, và lựa chọn tham gia những
chương trình đào tạo, chương trình giáo dục nào phù hợp với mong muốn, định
hướng của cá nhân. Nhìn một cách rộng hơn, sáu vấn đề được quan tâm có thể phân
chia thành hai nhóm vấn đề chính là (i) đưa ra quyết định nghề nghiệp (liên quan
đến bốn vấn đề đầu tiên) và tìm kiếm cơ hội việc làm (liên quan đến hai vấn đề còn
lại). Bài viết này sẽ lần lượt đề cập đến cả hai lĩnh vực dưới tác động của công nghệ.
Trong vài thập kỷ qua, các tác giả đi trước đã xác định những khó khăn gặp
phải và các yếu tố góp phần đưa ra quyết định nghề nghiệp thành cơng đối với cá
nhân. Theo Gati và Asher (2001), quá trình ra quyết định nghề nghiệp tương đối
phức tạp, bao gồm ba giai đoạn: kiểm tra trước, thăm dò chuyên sâu, và lựa chọn.

Đặc điểm của các quyết định nghề nghiệp là có tương đối nhiều các phương án lựa
chọn; lượng thơng tin về mỗi phương án rất rộng; có số lượng lớn các tiêu chí cần
xem xét liệu có đáp ứng với yêu cầu của các công việc và hứng thú nghề nghiệp
của cá nhân; tính bất định ở trong cả các đặc điểm của cá nhân lẫn bản chất của
các phương án lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Để hệ thống các khó khăn trong
q trình ra quyết định nghề nghiệp, Gati (2001) đã dựa trên quy trình ra quyết
định nghề nghiệp thông thường, xác định các đặc điểm khác biệt với một mẫu hình
“người ra quyết định nghề nghiệp hồn hảo” và định nghĩa nó là các khó khăn trong
mơ hình lý thuyết mà tác giả gọi là “hệ thống phân loại các khó khăn trong q trình
ra quyết định nghề nghiệp” (Pečjak và Košir, 2007). Hệ thống này phân loại các khó
khăn thành ba nhóm lớn, từ ba nhóm này tiếp tục chia thành mười nhóm nhỏ cụ thể
hơn. Các nhóm lớn lần lượt là: thiếu sự sẵn sàng, thiếu thông tin, và thông tin không
nhất quán. Nhóm đầu tiên, thiếu sự sẵn sàng, tổng hợp các khó khăn có trước q
trình ra quyết định, bao gồm: (1) thiếu động lực để bắt đầu quá trình ra quyết định
nghề nghiệp; (2) tính thiếu quyết đốn chung đối với tất cả các loại quyết định; và
(3) các niềm tin không hợp lý, hiểu là các kỳ vọng phi lý về quá trình ra quyết định


Phần 2. CƠNG NGHỆ VÀ GIÁO DỤC

249

nghề nghiệp. Hai nhóm lớn cịn lại đều bao gồm các khó khăn trong q trình ra
quyết định. Nhóm thiếu thơng tin đề cập tới bốn nhóm khó khăn: (4) thiếu hiểu biết
về các bước trong q trình ra quyết định; (5) thiếu thơng tin về bản thân mình; (6)
thiếu thơng tin về các lựa chọn nghề nghiệp khác nhau; và (7) thiếu thông tin về các
cách/các nguồn để có thêm thơng tin. Nhóm cuối cùng, thông tin không nhất quán,
gồm: (8) thông tin không đáng tin cậy (như chênh lệch giữa chỉ số thông minh và kết
quả học tập trên lớp); (9) mâu thuẫn nội tại (diễn ra bên trong cá nhân, ví dụ như sự
đối lập giữa các sở thích khác nhau của cá nhân hay khó khăn liên quan đến nhu cầu

phải cân đối/thỏa hiệp giữa các yếu tố/điều kiện); và (10) mâu thuẫn bên ngoài, liên
quan đến sự ảnh hưởng của những người có ý nghĩa.
Và để đưa ra quyết định nghề nghiệp thành công, lý thuyết RIASEC của
Holland (Holland, 1997) nhấn mạnh sự phù hợp giữa hứng thú, thiên hướng cá
nhân và mơi trường nghề nghiệp, trong khi đó lý thuyết nhận thức xã hội về nghề
nghiệp của Lent và Brown (Lent & Brown, 2008) lại nhấn mạnh đến các năng lực, kỹ
năng mà cá nhân đang có trong tương quan với kết quả cơng việc kỳ vọng. Cịn lý
thuyết xử lý thông tin nhận thức của các tác giả Peterson, Sampson, Reardon, & Lenz
(CIP; Peterson, Sampson, Reardon, & Lenz, 2002) thì xác định việc ra quyết định
nghề nghiệp được cấu thành từ ba thành tố sắp xếp theo mơ hình kim tự tháp (xem
hình 1) bao gồm: kiến ​​thức (Kiến thức hiểu biết về bản thân và kiến thức hiểu biết về
nghề nghiệp); ra quyết định; và xử lý thơng tin cấp cao (bao gồm các q trình theo
dõi và kiểm soát điều chỉnh điều khiển và đương đầu với những áp lực công việc).
Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng khung lý thuyết CIP làm điểm tựa để đánh giá vài trị
của cơng nghệ tác động đến việc ra quyết định nghề nghiệp.

Hình 1: Mơ hình xử lý thông tin nhận thức (CIP; Peterson, Sampson, Reardon, & Lenz, 2002)


250

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành

2.2. Công nghệ giúp nâng cao kiến thức và hiểu biết về bản thân
Theo lý thuyết CIP (Peterson và cộng sự., 2002), những kiến thức và hiểu biết
về bản thân bao gồm các đặc điểm của cá nhân như giá trị, sở thích và kỹ năng. Giúp
cá nhân tự nhận thức rõ những kiến thức về bản thân mình, họ sẽ có nhiều cơ hội
hài lịng với nghề nghiệp trong tương lai hơn. Hiện tại, cùng với sự phát triển của
cơng nghệ, có rất nhiều hình thức đánh giá trực tuyến giúp khách hàng tăng cường

sự hiểu biết về bản thân mình. Các hình thức đánh giá trực tuyến thường có hai
dạng chính là (i) bảng câu hỏi trả lời bằng giấy bút truyền thống được chuyển đổi thành
bản điện tử; và (ii) là các phần mềm hướng dẫn về nghề nghiệp tổng hợp. Trên thế giới, có
thể kể đến hệ thống PARiConnect ( cho khách hàng
có thể khám phá các đặc điểm nhân cách, xu hướng nghề nghiệp của bản thân từ bất
kỳ đâu với bất kỳ phương tiện nào kết nối internet với thông tin đăng nhập được
cá nhân hóa. Hay hệ thống dịch vụ lập kế hoạch giáo dục và hướng nghiệp (http://
www.sigi3.org/) vừa giúp khách hàng khám phá các giá trị, sở thích, tính cách của
họ cũng như những năng lực và kỹ năng hiện có đồng thời tư vấn lập kế hoạch
nghề nghiệp để cá nhân đạt được mục tiêu đặt ra. Tại Việt Nam, một số hệ thống
cũng được xây dựng trên cơ sở thích nghi các cơng cụ của nước ngồi như hệ thống
Những hệ thống này đã được chứng minh giúp cho cá nhân ứng
phó hiệu quả với sự thiếu quyết đoán trong nghề nghiệp (Niles & Garis, 1990). Và
mặc dù các hệ thống đánh giá trực tuyến như vậy đã giúp khách hàng nâng cao hiểu
biết về bản thân nhưng nếu khơng có sự phản hồi và khuyến nghị bước tiếp theo
của người tư vấn sau đánh giá thì sẽ không đạt hiệu quả tốt (Gati và Asulin-Peretz,
2011). Sắp tới, có lẽ việc đánh giá và giúp nâng cao nhận thức về bản thân sẽ được
thực hiện thông qua các trang mạng xã hội như Facebook hoặc Pinterest vì chúng
dễ tiếp cận hơn.
2.3. Công nghệ giúp nâng cao kiến thức về nghề nghiệp và lựa chọn nghề nghiệp
Theo mơ hình CIP, hiểu biết về nghề nghiệp bao gồm kiến ​​thức chung về ngành
nghề, loại công việc trong từng lĩnh vực cụ thể, vị trí, tính chất cơng việc khác nhau
trong các tổ chức, các năng lực, kỹ năng cần có (Peterson et al., 2002). Ngày nay, công
nghệ giúp khách hàng có thể dễ dàng truy cập và cập nhật và chính xác thơng tin về
từng ngành nghề để hỗ trợ cá nhân lựa chọn. Kinh nghiệm thế giới cho thấy công
nghệ giúp hỗ trợ rất hiệu quả việc xây dựng hệ thống phân loại nghề nghiệp của
quốc gia và hệ thống cơ hội việc làm. Ví dụ ở Canada, bảng Phân loại nghề nghiệp
quốc gia cung cấp thông tin mô tả cho hơn 500 nhóm nghề nghiệp, hơn 40.000 chức
danh công việc. Trong mỗi bộ hồ sơ nghề nghiệp đều có mơ tả chức danh cơng việc,
nhiệm vụ trách nhiệm, những cơng việc điển hình cần thực hiện, những cơng việc

thay thế và thông tin về các ngành nghề liên quan. Bên cạnh bảng phân loại nghề


Phần 2. CÔNG NGHỆ VÀ GIÁO DỤC

251

nghiệp, Canada cũng xây dựng một Ngân hàng việc làm quốc gia (https://www.
jobbank.gc.ca/home) là nơi cung cấp nguồn thông tin về những công việc hiện tại
và xu hướng, triển vọng công việc, tiền lương, yêu cầu đào tạo và các cơ hội việc
làm. Trong hệ thống ln có khoảng hơn 100.000 cơ hội việc làm được liệt kê được
tích hợp với hệ thống thơng báo e-mail miễn phí hàng ngày cho những người quan
tâm về bất kỳ cơ hội công việc mới nào phù hợp. Tại Việt Nam, hiện cũng đã có
hệ thống ngân hàng việc làm được các tổ chức xây dựng ví dụ như https://www.
vietnamworks.com/ hoặc Những hệ thống công nghệ
này hiện đang hỗ trợ hữu hiệu cho cá nhân mở rộng kiến thức về ngành nghề và đa
dạng hóa các cơ hội lựa chọn nghề nghiệp.
2.4. Công nghệ giúp việc ra quyết định nghề nghiệp có căn cứ và hiệu quả hơn
Theo nghiên cứu của Gati và cộng sự thì cơng nghệ hiện đang góp phần hỗ trợ
khách hàng ra quyết định nghề nghiệp hiệu quả hơn (Gati, & Asulin-Peretz, 2011).
Bằng chứng nghiên cứu đi trước cũng khẳng định các hệ thống trực tuyến đang hỗ
trợ tăng cường kiến ​​thức về nghề nghiệp, các cơ hội lựa chọn việc làm và kiến ​​thức
nghề nghiệp (Osborn, Peterson, Sampson, & Reardon, 2003) làm cơ sở để ra quyết
định nghề nghiệp hiệu quả. Bộ câu hỏi đánh giá những khó khăn khi đưa ra quyết
định nghề nghiệp của Gati và cộng sự (Gati & Osipow, 2014) phát triển là một công
cụ trực tuyến được nghiên cứu kỹ giúp người dùng hiểu được về những khó khăn
có thể là rào cản đối với riêng cá nhân họ khi phải đưa ra một quyết định nghề
nghiệp hiệu quả.
Cũng có nhiều tác giả xem xét liệu các ứng dụng nào trên nền tảng điện thoại có
hỗ trợ quá trình ra quyết định nghề nghiệp một các hiệu quả hay khơng. Trong phạm

vi khảo sát, hiện có một số ứng dụng về lĩnh vực này ví dụ như ứng dụng iThoughts hỗ
trợ tạo ra sơ đồ các bước để ra quyết định nghề nghiệp một cách tin cậy và cũng được
sử dụng để cung cấp các thông tin về nghề nghiệp, các cơ hội việc làm, các hướng
dẫn về chiến lược ra quyết định nghề nghiệp khác nhau phù hợp với đặc điểm của
khách hàng. Một ứng dụng hỗ trợ ra quyết định hiệu quả nữa là ứng dụng Unstuck,
được thiết kế để giúp những người đang cảm thấy mắc kẹt trong việc ra quyết định
nghề nghiệp giải pháp tháo gỡ. Người dùng sẽ trả lời một loạt các câu hỏi được thiết
kế theo trình tự để giúp xác định điểm cốt lõi của vấn đề: các bên liên quan, trạng thái
cảm xúc khi đưa ra quyết định, cân nhắc quyết định… để giải quyết khó khăn của
mình. Những câu hỏi và cấu trúc này cũng có thể được tham khảo và sử dụng trong
tiến trình tư vấn hướng nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần kể đến các ứng dụng tương
tự hỗ trợ việc ra quyết định hỗ trợ nghề nghiệp như Decision Maker; Decide Now! hoặc
Sheepadvisor Decision Maker... Cịn ở Việt Nam, có thể kể đến một ứng dụng có chức
năng tương tự là ứng dụng Jobway ( />

252

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành

2.5. Công nghệ tăng cường năng lực xử lý thông tin cấp cao
Năng lực xử lý thông tin cấp cao hay còn được gọi là các năng lực xử lý siêu
nhận thức trong mơ hình CIP là những chiến lược nhận thức được vận dụng để giải
quyết các vấn đề lưỡng nan về nghề nghiệp thông qua việc tự phản tỉnh, tự nhận
thức, theo dõi và điều chỉnh kiểm soát hành động dựa trên những thông tin mới cập
nhật (Sampson, Reardon, Peterson & Lenz, 2002). Hiện tại, sự phát triển của công
nghệ đã được ứng dụng để tăng cường năng lực xử lý thông tin cấp cao về lĩnh vực
nghề nghiệp. Ví dụ hiện tại đã có rất nhiều ứng dụng trực tuyến hỗ trợ giải quyết
trầm cảm (Saulsberry và cs., 2013), cảm xúc tiêu cực và căng thẳng nghề nghiệp
(Manzoni và cs., 2008)… Vì nghiên cứu chỉ ra những cảm xúc tiêu cực, căng thẳng, lo

lắng là rào cản đối với việc ra quyết định nghề nghiệp nên những ứng dụng này có
thể rất hữu ích hỗ trợ cá nhân trong việc nâng cao năng lực quản lý căng thẳng góp
phần vào việc đưa ra quyết định nghề nghiệp chính xác. (Evans et al., 2008).
Ngồi ra, việc ghi nhật ký về các buổi trao đổi có thể cung cấp cho khách hàng
một hình thức chia sẻ thuận tiện hơn về các vấn đề nghề nghiệp họ đang quan tâm
(Wood, & Brantley, 2007). Nhiều ứng dụng ghi nhật ký được thiết kế để hỗ trợ
q trình này. Ví dụ như ứng dụng phần mềm Day One Journaling. Ngoài ra, để
giúp điều chỉnh những suy nghĩ nghề nghiệp tiêu cực, các ứng dụng như Flip Head
Thought-Stopping được phát triển để giúp khách hàng thay thế những suy nghĩ tiêu
cực của mình bằng những suy nghĩ tích cực hơn. Một số ứng dụng khác cùng thể
loại này như MoodKit – công cụ giúp cải thiện tâm trạng và thay đổi suy nghĩ tiêu
cực bằng cách kiểm tra những suy nghĩ của cá nhân nhiều lần trong ngày và ghi
lại các khuôn mẫu nhận thức tiêu cực có thể trở thành một thói quen xấu gây cản
trở nghề nghiệp của họ. Rồi ứng dụng Self-Help for Anxiety Management hỗ trợ cho
những người có khn mẫu lo lắng và thiếu quyết đốn trong vấn đề nghề nghiệp
(Peterson, Sampson, Reardon, & Lenz, 2002). Những ứng dụng như vậy chưa xuất
hiện nhiều ở Việt Nam. Sắp tới đây sẽ có ứng dụng Shining Mind của Trung tâm
hướng nghiệp, nghiên cứu và ứng dụng tâm lý thuộc trường Đại học Giáo dục,
ĐHQGHN sẽ là một trong những ứng dụng phần mềm đầu tiên về vấn đề này.
2.6. Cơng nghệ và mạng xã hội đẩy mạnh q trình tìm kiếm cơ hội việc làm
Theo Osborn, Dikel và Sampson, (2011), cùng với sự phát triển của internet,
công nghệ và mạng xã hội đã mang lại rất nhiều cơ hội việc làm cho người tìm việc
khi so sánh với các cách tiếp cận truyền thống khác. Một cuộc khảo sát đã được thực
hiện bởi Hiệp hội các trường đại học và người sử dụng lao động quốc gia 2009 tại
Mỹ cho thấy có hơn 35.000 sinh viên các trường đại học đã sử dụng các tài nguyên
trực tuyến để tìm kiếm việc làm. Cụ thể là có đến 96% sinh viên báo cáo đã truy cập
trang web của các công ty có thơng báo tuyển dụng và 91% sinh viên hứng thú và


Phần 2. CÔNG NGHỆ VÀ GIÁO DỤC


253

đã sử dụng các trang web tìm việc để xem xét các cơ hội vị trí việc làm phù hợp. Van
Rooy, Alonoso, và Fairchild (2003) cũng cho rằng Internet đang tạo cơ hội để nhà
tuyển dụng chia sẻ đầy đủ thơng tin vị trí việc làm, các yêu cầu và các lựa chọn cho
người tìm việc dễ dàng hơn. Mặc dù chưa có đầy đủ các bằng chứng nghiên cứu
định lượng để khẳng định mạng xã hội là một công cụ hiệu quả giúp tư vấn định
hướng và ra quyết định nghề nghiệp nhưng ít nhất mạng xã hội đã được chứng
minh là một cơng cụ hiệu quả hơn để tìm kiếm các cơ hội việc làm khi so sánh với
các trang web giới thiệu công việc truyền thống.
Một khảo sát gần đây được công bố bởi Jobvite cho thấy 94% người sử dụng
lao động sử dụng hoặc có kế hoạch sử dụng mạng xã hội cho công tác tuyển dụng
(Quigley, 2013). Tác động đang phát triển của mạng xã hội đối với quá trình tìm
kiếm việc làm càng trở nên rõ ràng nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của người
tìm việc, cân nhắc các nguồn lực và đưa ra quyết định tuyển dụng. Như vậy, một
người làm công việc tư vấn nghề nghiệp hiện nay cũng không thể bỏ qua lợi thế của
mạng xã hội. Ở nước ngoài, nếu bạn quan tâm đến việc làm trong lĩnh vực tâm lý
học hoặc sức khỏe tâm thần thì bạn có thể sử dụng Twitter để theo dõi (tài khoản @
PologistsologyJobs) để tự giới thiệu bản thân và tìm kiếm các cơ hội việc làm.
LinkedIn cũng là một công cụ mạnh mẽ được tạo ra để kết nối các chuyên
gia trên thế giới với mục đích để hỗ trợ cơng việc của họ đạt hiệu suất cao hơn và
thành công hơn (LinkedIn, 2014). Trong phần bảng công việc của một công ty trên
LinkedIn, người dùng có thể tìm kiếm các cơ hội mở theo tiêu đề cơng việc, từ khóa,
tên cơng ty, địa điểm…. Tại www.linkedin.com/alumni/ có cung cấp thơng tin liên
quan đến tất cả các tài khoản LinkedIn đã đăng ký từ cựu sinh viên tại một trường
cao đẳng hoặc đại học cụ thể, chẳng hạn như vị trí địa lý, nơi làm việc, chức danh
công việc, những bằng cấp đào tạo những kết nối của họ với những người dùng
khác. Như vậy, thơng qua các nhóm này, người tìm việc có thể theo dõi nhóm, đăng
bài, đọc tin tức liên quan đến ngành, kết nối với các chuyên gia khác, và tham gia

thảo luận liên quan đến các cơ hội như việc thực tập hè tại bệnh viện tại một quốc
gia hoặc khu vực nào đó.
Facebook cũng là một kênh hỗ trợ nghề nghiệp. Các công ty và các nhà tuyển
dụng đang sử dụng facebook như một nền tảng quảng bá hình ảnh và thương hiệu
cơng ty. Nhiều cơng ty lớn đã sử dụng FacebookAds để phổ biến thông tin tổ chức và
công khai các cơ hội việc làm. Bên cạnh đó, với mạng lưới kết nối của từng cá nhân,
nhiều người chỉ cần đơn giản chia sẻ mong muốn tìm kiếm cơ hội việc làm của họ là
có thể nhận được các tư vấn.
Viết Blog cũng là một cách thức tốt để giới thiệu về năng lực bản thân và tìm
kiếm các cơ hội việc làm. Các blogger có thể bắt đầu bằng việc vào các nền tảng như


254

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành

Wordpress hoặc Tumblr để bắt đầu sáng tạo theo phong cách của riêng mình. Khi
những định dạng cơ bản của blog đã được hồn thiện, các blogger sẽ có cơ hội để
chia sẻ thông tin về những vấn đề quan tâm. Ví dụ một người tìm việc quan tâm
đến cơ hội trở thành giáo viên của một trường tiểu học có thể chia sẻ các mẫu kế
hoạch bài học, viết về một kinh nghiệm làm việc với trẻ trong một lớp học hoặc bình
luận về một sự kiện giáo dục mới được đề cập trên truyền thông. Nhiều nhà tuyển
dụng hiện cũng sử dụng các nền tảng blogs để phổ biến về các vị trí cơng việc cũng
như quảng bá văn hóa cơng ty. Blog của các nhân viên từ các công ty như Microsoft,
PepsiCo và Target đã cung cấp người tìm việc cái nhìn sâu sắc về vị trí công việc,
nhiệm vụ cụ thể, và những quyền lợi. Người tìm việc có thể sử dụng thơng tin này
để xác định xem vị trí làm việc tại cơng ty có phù hợp hay không, cũng như các chiến
thuật để tăng cường cơ hội được đơn xin việc.
Với những cải tiến về chất lượng hình ảnh và tính năng quay phát video trực

tiếp làm cho việc xây dựng hồ sơ video đang là một phương thức sáng tạo và hấp
dẫn để người tìm việc giới thiệu về nền tảng giáo dục, năng lực kinh nghiệm cũng
như xu hướng tính cách cá nhân để bổ sung cho bản lý lịch truyền thống. Nó sẽ giúp
cho các nhà tuyển dụng có cái nhìn sâu sắc hơn về nhiều khía cạnh của người xin
việc. Hiện tại các trang web như Mayomann.com, Résumébook.tv và Interviewclip.com
đang cung cấp các tài khoản miễn phí và trả phí để giúp mọi người sáng tạo và tải
lên các lý lịch video cá nhân.
Cuối cùng, công nghệ đang giúp tạo ra các hội chợ nghề nghiệp ảo. Đây là một
sự thay thế tuyệt vời cho các hội chợ nghề nghiệp truyền thống khi mà chi phí đi lại
và tổ chức hội chợ nghề nghiệp trực tiếp trở nên đắt đỏ và chỉ số ít người tìm việc có
thể tiếp cận và kết nối với nhà tuyển dụng. Với một gian hàng hội chợ trực tuyến,
nhà tuyển dụng có thể tổ chức các cuộc thảo luận và chuyển tiếp thông tin về các
ứng viên về công ty và tiếp cận với mọi cá nhân có kết nối internet. Người tham gia
sẽ xem các câu hỏi theo chuỗi chủ đề và trả lời. Với những ứng viên có tiềm năng,
các gian hàng hội chợ ảo sẽ cung cấp các cuộc nói chuyện riêng. Người tìm việc cũng
có thể sử dụng các thiết bị công nghệ để tham gia vào hội chợ ảo từ bất cứ nơi đâu
có kết nối. Ứng viên có thể tải lên sơ yếu lý lịch và các thông tin phù hợp khác dưới
dạng các tập tin điện tử hoặc truyền thống đa phương tiện để giới thiệu các kỹ năng
liên quan. Họ cũng có lựa chọn tham gia các phòng thảo luận điện tử hoặc kết nối
trực tiếp với nhà tuyển dụng. Tuy nhiên để tìm việc thành công, cũng giống như với
các hội chợ nghề nghiệp truyền thống, người tìm việc nên được chuẩn bị, thể hiện
sự chuyên nghiệp, tự tin, và luôn cập nhật những thông tin sau đó.


Phần 2. CÔNG NGHỆ VÀ GIÁO DỤC

255

3. Những thách thức khi sử dụng thế mạnh của công nghệ trong tư vấn nghề
nghiệp

Mặc dù công nghệ mang lại rất nhiều lợi ích cho cả nhà tuyển dụng và người tìm
việc hiểu biết về bản thân, về nghề nghiệp và tăng cường các cơ hội việc làm nhưng đi
cùng với nó cũng có nhiều thách thức cũng như quan ngại về vấn đề đạo đức.
Thách thức đầu tiên của việc tích hợp công nghệ trong công tác tư vấn nghề
nghiệp liên quan đến các khía cạnh đạo đức. Việc ứng dụng cơng nghệ vào trong
q trình tư vấn nghề nghiệp ln phải chú ý các nguy cơ rủi ro về bảo mật và quyền
riêng tư; các khía cạnh chất lượng và độ tin cậy của việc tiếp xúc đánh giá trực tuyến;
sự rõ ràng với khách hàng về những hành vi nào có thể chấp nhận được và hành vi
nào khơng thể chấp nhận. Mặc dù các vấn đề bảo mật, quyền riêng tư và sự an tồn
của khách hàng ln được đặt ưu tiên hàng đầu, các nhà tâm lý cũng nên lưu tâm
đến sự cơng bằng xã hội. Ví dụ như trong tình huống nhà tuyển dụng sử dụng mạng
xã hội để tìm ứng viên trên các trang mạng xã hội như Facebook có thể vơ tình đọc
được các thơng tin về lịch sử của cá nhân như tôn giáo, các sự kiện đã trải qua trong
cuộc đời hay tình trạng hôn nhân những điều mà ứng viên không cần thiết phải
trình bày ở trong cuộc phỏng vấn nhưng lại dẫn đến quyết định khơng được tuyển
dụng có thể dẫn đến nguy cơ không công bằng. Hay cũng phải lưu ý khách hàng
về việc tuyển dụng qua hệ thống công nghệ có thể dẫn đến việc ứng viên khơng thể
hiện hết khả năng do không thực sự thoải mái với những thiết bị công nghệ được sử
dụng. Những người hạn chế về kỹ năng sử dụng máy tính và các thiết bị cơng nghệ
có thể bị đánh giá thấp hơn mặc dù họ có thể có tiềm năng hơn. Trong quá trình tư
vấn, một vấn đề cần lưu tâm nữa là cần tư vấn khách hàng sử dụng một ứng dụng
hỗ trợ nhưng ln đặt lợi ích của họ lên cao nhất. Ví dụ như thay vì u cầu khách
hàng truy cập hoặc trả tiền mua một ứng dụng có thể tư vấn khách hàng tải xuống
những ứng dụng miễn phí có chức năng tương tự. Ngồi ra, người làm cơng tác tư
vấn cũng sẽ phải đương đầu với tình trạng tiến thối lưỡng nan về việc nên khuyến
khích khách hàng sử dụng ứng dụng và công nghệ nào, phân tích ưu hạn chế và
các nguy cơ của từng ứng dụng đó. Cuối cùng, trong q trình tư vấn trực tuyến
với sự hỗ trợ của cơng nghệ (ví dụ như video conference) người tư vấn ln phải có
kế hoạch dự phịng cho những trường hợp cơng nghệ hoặc kết nối thất bại. Trong
trường hợp đó, số điện thoại liên lạc khẩn cấp rất quan trọng.

4. Kết luận
Tóm lại, những bằng chứng đi trước đã khẳng định vai trò quan trọng của công
nghệ đã và đang ảnh hưởng lớn đến quá trình tư vấn nghề nghiệp cho khách hàng.
Sức mạnh cơng nghệ giúp tăng cường sự hiểu biết về bản thân, sự hiểu biết về nghề


256

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành

nghiệp, nâng cao năng lực xử lý thông tin cấp cao, hỗ trợ cá nhân ra quyết định nghề
nghiệp dựa trên bằng chứng đồng thời đẩy mạnh các cơ hội việc làm cho dù vẫn còn
một số thách thức và quan ngại về mặt đạo đức tồn tại. Mặc dù những vấn đề này
hiện đã được đề cập và quan tâm bởi các nhà nghiên cứu, nhưng vẫn chưa có nhiều
nghiên cứu về tính hiệu quả của các ứng dụng công nghệ đến kết quả tư vấn hướng
nghiệp. Điều này gợi ý cho các nhà tư vấn nghề nghiệp tại Việt Nam cần phát triển
các nghiên cứu đánh giá hiệu quả tác động của công nghệ cũng như các ứng dụng
mới trong công tác tư vấn nghề nghiệp và hỗ trợ cá nhân tìm kiếm việc làm phù hợp.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được tài trợ bỏi Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số
QG.18.34.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Evans, S., Ferrando, S., Findler, M., Stowell, C., Smart, C., & Haglin, D. (2008),
Mindfulness-based cognitive therapy for generalized anxiety disorder. Journal
of Anxiety Disorders, 22, 716–721. doi:10.1016/j.janxdis.2007.07.005

2.


Gati, I., & Asulin-Peretz, L. (2011), Internet-based self-help career assessments
and interventions: Challenges and implications for evidence based career counseling.
Journal of Career Assessment, 19, 259–273. doi:10.1177/1069072710395533

3.

Gati, I., & Osipow, S. (2001–2014), CDDQ.org. Retrieved from http://kivunim.
huji.ac.il/cddq/

4.

Holland, J. L. (1997), Making vocational choices: A theory of vocational personalities
and work environments. Odessa, FL: Psychological Assessment Resources

5.

Lent, R. W., & Brown, S. D. (2008), Social cognitive career theory and subjective
well-being in the context of work. Journal of Career Assessment, 16, 6–21.
doi:10.1177/1069072707305769

6.

Manzoni, G. M., Gorini, A., Preziosa, A., Pagnini, F., Castelnuovo, G., Molinari,
E., & Riva, G. (2008), New technologies and relaxation: An explorative study on obese
patients with emotional eating. Journal of Cybertherapy and Rehabilitation, 1,
182–192

7.


Niles, S., & Garis, J. W. (1990), The effects of a career planning course and a computerassisted career guidance program (SIGI PLUS) on undecided university students.
Journal of Career Development, 16, 237–248


Phần 2. CÔNG NGHỆ VÀ GIÁO DỤC

257

8.

Osborn, D. S., Peterson, G. W., Sampson, J. P., Jr., & Reardon, R. C. (2003), Client
anticipations about computer-assisted career guidance system outcomes. The Career
Development Quarterly, 51, 356–367. doi:10.1002/j.2161-0045.2003.tb00616.x

9.

Peterson, G. W., Sampson, J. P., Jr., Reardon, R. C., & Lenz, J. G. (2002), A
cognitive information processing approach to career problem solving and decision
making. In D. Brown (Ed.), Career choice and development (4th ed., pp. 312–
372). San Francisco, CA: Jossey-Bass

10. Pečjak, S., & Košir, K. (2007), Personality, motivational factors and difficulties in
career decision-making in secondary school students, Psihologijske teme, 16(1), 141158.
11. Quigley, K. (2013, September 5), Recruiters increasingly adopt marketing tactics in
fierce competition to hire: 2013 Jobvite social recruiting survey show.
12. Saulsberry, A., Marko-Holguin, M., Blomeke, K., Hinkle, C., Fogel, J., Gladstone,
T., . . . Van Voorhees, B. W. (2013), Randomized clinical trial of a primary care
internet-based intervention to prevent adolescent depression: One-year outcomes.
Journal of the Canadian Academy of Child and Adolescent Psychiatry/Journal
De l’Académie Canadienne De Psychiatrie De l’Enfant Et De l’Adolescent, 22,

106–117
13. Van Rooy, D. L., Alonso, A., & Fairchild, Z. (2003), In with the new, out with
the old: Has the technological revolution eliminated the traditional job search process?
International Journal of Selection and Assessment,11, 170–174. doi:10.1111/14682389.0024
THE ROLE OF TECHNOLOGY IN CAREER COUNSELING
Abstract: Career concerns are often fall into 2 main categories: career decision
making and job-search needs. Technology, in the form of websites, social media,
and applications, has expanded the resources available for counsellors. The
paper investigated multiple technological tools that might accompany each step
of the career decision-making process, organized through the lens of cognitive
information processing theory, as well as the job-search process. In this paper, we
also presented technology tools and strategies ensure that clients to address their
career concerns.
Keywords: Technology, Career counselling, Social media, Apps.



×