Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Áp dụng một số phương pháp “phản hồi” nhằm nâng cao hiệu quả trong giảng dạy tiếng Hán (lấy việc dạy–học tiếng Hán trường Đại học Hải Phòng làm ví dụ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.93 KB, 9 trang )

Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

ÁP DỤNG MỘT SỐ PHƢƠNG PHÁP “PHẢN HỒI” NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG HÁN
(LẤY VIỆC DẠY–HỌC TIẾNG HÁN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÕNG
LÀM VÍ DỤ)
Đỗ Thị Thạnh, 2Phạm Thị Linh

1

Trƣờng Đại học Hải Phòng, 2Trƣờng Đại học Hạ Long

1

Tóm tắt
―Phản hồi‖ là phƣơng pháp kết hợp đa chiều nhằm nâng cao hiệu quả việc dạy và học.
Bài viết chủ yếu đƣa ra thực trạng áp dụng phƣơng pháp phản hồi đối với chuyên ngành
giảng dạy tiếng Hán tại trƣờng Đại học Hải Phòng, đồng thời tập trung thảo luận về hiệu
quả của việc ứng dụng phƣơng pháp ―phản hồi‖ kết hợp qua ba hƣớng: Lấy ý kiến từ
sinh viên; quay video bài giảng trên lớp và thông qua dự giờ sinh hoạt chuyên môn. Đặc
biệt bài viết đi sâu phân tích tính hữu hiệu của phƣơng pháp áp dụng công nghệ thông tin
―quay video lớp học‖ so với các phƣơng pháp truyền thống khác. Từ đó đƣa ra khuyến
nghị cho việc sử dụng phƣơng pháp ―phản hồi‖ trong dạy và học ngoại ngữ nói chung và
tiếng Hán nói riêng.
Từ khóa
dạy học tiếng Hán; phản hồi; quay video; dự giờ; ý kiến sinh viên

1. Mở đầu
Trƣờng Đại học Hải Phòng nằm ở thành phố cảng Hải Phòng, với trung tâm cơng nghiệp,
cảng biển lớn nhất phía Bắc Việt Nam, cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, thƣơng


mại của Vùng duyên hải Bắc Bộ. Do đó, Hải Phịng đã và đang thu hút rất nhiều nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài nhƣ Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Mỹ, Nhật, Hàn...Do đó, nhu cầu sử dụng
tiếng Trung Quốc ở Hải Phịng ngày càng lớn, dẫn đến điểm―nóng‖ tại thành phố cảng hiện
nay là cung không đủ cầu. Đây là nguyên nhân chính làm cho nhiều bạn trẻ chọn học tiếng
Trung Quốc. Lƣợng sinh viên thi vào chuyên ngành tiếng Trung Quốc khoa Ngoại ngữ,
trƣờng Đại học Hải Phòng ngày càng đông. Hiện số sinh viên đang theo học chuyên ngành
Tiếng Trung Quốc tại khoa Ngoại ngữ trƣờng Đại học Hải Phòng hơn 600 sinh viên, chƣa kể
các sinh viên khoa kinh tế, du lịch, sinh viên chuyên ngành tiếng Anh học ngoại ngữ hai
Tiếng Trung Quốc v.v... Do đó, việc dạy học sao cho có hiệu quả, mang lại nguồn cảm hứng
cho ngƣời học lại là một bài tốn khó cho các thầy cơ và những ngƣời quản lý.
Chúng tôi với hơn 10 năm giảng dạy tiếng Hán, thực trạng cho thấy một số giảng viên
tiếng Trung Quốc Đại học Hải Phòng đã thực sự cố gắng giảng dạy kết hợp công nghệ thông
tin cho việc giảng dạy hiệu quả, tích cực đƣa ―kênh hình‖ thay ―kênh chữ‖ vào bài giảng
nhằm thu hút sự chú ý và tạo sự hứng thú cho sinh viên. Có nhiều bài giảng thiết kế vô cùng
tâm huyết, bỏ ra rất nhiều công sức mài giũa.Tuy nhiên, việc lấy ―phản hồi‖ về bài giảng từ
nhiều hƣớng đối với ngành tiếng Hán còn nhiều hạn chế. Tổ chuyên môn tổ chức dự giờ trao
đổi chun mơn chia sẻ đóng góp ý kiến để xây dựng cho bài giảng hiệu quả hơn chƣa đƣợc
tổ chức thƣờng xuyên. Đặc biệt, trong thế giới công nghệ thông tin ngày nay, việc áp dụng
các phƣơng pháp phản hồi từ việc quay ―video lớp học‖, lấy ý kiến sinh viên thông qua phần

638


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

mềm công nghệ là một yếu tố vô cùng quan trọng đã đƣợc chứng minh là hiệu quả trong môi
trƣờng dạy học của một số nƣớc trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, cụ thể ngành Tiếng
Trung Quốc Khoa Ngoại ngữ Trƣờng Đại học Hải Phòng vẫn chƣa đƣợc phổ biến rộng rãi.
Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên: Thứ nhất là việc đầu tƣ cơ sở vật chất (máy

trình chiếu, loa đài, phịng lab....)tác động tới các ý tƣởng sáng tạo của ngƣời dạy trong quá
trình áp dụng cơng nghệ tiên tiến vào bài giảng của mình đang vẫn còn hạn chế. Đây cũng là
một trong những yếu tố làm ảnh hƣởng đến sự hƣng phấn trong việc chuẩn bị bài giảng và
học tập. Thứ hai, chính sách đãi ngộ của nhà trƣờng đối với giảng viên cịn chƣa đƣợc tốt.
Chính điều này đã có nhiều chun gia giáo dục cho rằng, nếu không tạo đƣợc một cơ chế sử
dụng, đánh giá, đãi ngộ tƣơng xứng thì nhà giáo không yên tâm sống với nghề và điều này
ảnh hƣởng đến sự thành bại của công cuộc đổi mới giáo dục. Thứ ba, do đội ngũ giảng viên
còn hạn chế về số lƣợng, dẫn đến việc phân bổ thời gian giảng dạy dày đặc, thời lƣợng tiết
học, lƣợng thời gian học ngắn so với số lƣợng kiến thức khổng lồ. Và chính sự eo hẹp về thời
gian nên đôi khi giảng viên mới chỉ quan tâm đến bản thân đã hoàn thành việc trao truyền đủ
và đúng kiến thức hay chƣa, còn việc lấy ý kiến phản hồi từ sinh viên hay tổ chức họp nhóm
trao đổi chuyên mơn hoặc thiết kế quay video bài giảng thì thực sự chƣa đƣợc chú ý nhiều.
Do vậy, chúng tôi bằng những kinh nghiệm giảng dạy thực tế kết hợp với sự nghiên
cứu tìm tịi, mạnh dạn đƣa ra một số phƣơng pháp phản hồi tích cực để nhằm mục đích khắc
phục thực trạng trên nâng cao hiệu quả trong giảng dạy tiếng Hán.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Giáo dục đại học là gì?
Giáo dục đại học đƣợc xem nhƣ một dịch vụ thuần túy, trong đó ngƣời học đóng vai
trị là ―khách hàng trung tâm‖ đối với dịch vụ giáo dục đại học.64 Vì vậy, để có một giáo dục
đại học tốt làm hài lịng ―khách hàng‖ thì cần phải nâng cao chất lƣợng giảng dạy của giảng
viên. Do đó việc áp dụng các phƣơng pháp phản hồi thu thập thông tin để thiết kế một bài
giảng ý nghĩa và chất lƣợng là việc cần và nên làm trong giảng dạy.
Chủ trƣơng lấy việc áp dụng các phƣơng pháp ―phản hồi‖ về hoạt động giảng dạy của
giảng viên đƣợc Bộ Giáo dục - Đào tạo chỉ đạo từ năm học 2009-2010. Mục đích các hoạt
động ―phản hồi‖ này nhằm: Góp phần thực hiện Quy chế dân chủ trong cơ sở giáo dục đại
học; xây dựng đội ngũ giảng viên có phẩm chất đạo đức, lƣơng tâm nghề nghiệp và trình độ
chuyên môn cao, phƣơng pháp trong cách giảng dạy tiên tiến, hiện đại; Tạo thêm kênh thông
tin giúp giảng viên điều chỉnh hoạt động giảng dạy, nâng cao tinh thần trách nhiệm của giảng
viên trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của cơ sở giáo dục đại học; Tăng cƣờng tinh thần
trách nhiệm ngƣời học với quyền lợi, nghĩa vụ học tập, rèn luyện của bản thân, tạo điều kiện

để ngƣời học đƣợc phản ánh tâm tƣ nguyện vọng, đƣợc thể hiện chính kiến về hoạt động
giảng dạy của giảng viên; Nhà quản lý có kế hoạch cải tiến nâng cao chất lƣợng đào tạo và
chất lƣợng đội ngũ giáo viên.
64

Harvey, L. and Green, D. (1993), ― Quantifying Quality. the importance of student feedback‖, Quality in
Higher Educatiion, 18(1), tr9.

639


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

2.2. Phƣơng pháp “phản hồi” trong dạy học là gì?
―Phản hồi‖ (tiếng Anh: feedback) là quá trình xảy ra khi một phần đầu ra của một hệ
thống đƣợc chuyển trở lại làm một phần của đầu vào, tức là nhƣ một phần của chuỗi tín hiệu
nguyên nhân và kết quả tạo thành một mạch hoặc vòng lặp.65 Phản hồi trong quá trình dạy
học là giảng viên và sinh viên cùng nhận xét, đánh giá, đƣa ra ý kiến đối với những yếu tố cụ
thể có ảnh hƣởng tới quá trình học tập nhằm mục đích là điều chỉnh, hợp lí hố q trình dạy
và học.
Cho đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu về việc sử dụng ý kiến phản hồi từ bạn học.
Caulk (1994) và Rollinson (1998) đã đúc kết từ kinh nghiệm thực tế của mình rằng 80% ý
kiến phản hồi từ bạn học là có ích và sinh viên có thể dựa vào đó để sửa lại bài viết của mình
một cách hiệu quả. Ngồi ra, Bartels (2003) chỉ ra rằng thay vì chỉ thụ động nhận lấy phản hồi
từ phía giáo viên, việc sử dụng ý kiến phản hồi từ bạn học sẽ tập cho sinh viên khả năng tƣ
duy thông qua việc đƣa ra nhận xét cho một bài viết và tranh luận về các ý kiến trái chiều.
Nghiên cứu của Centra (1979) đã cho thấy vào cuối những năm 70 của thế kỷ 20 hầu hết các
trƣờng đại học ở Châu Âu và ở Mỹ đã sử dụng 3 phƣơng pháp phản hồi đánh giá hiệu quả
giảng dạy của giảng viên: Đồng nghiệp đánh giá, chủ nhiệm khoa đánh giá và sinh viên đánh

giá, trong đó các thơng tin thu thập đƣợc từ bảng đánh giá của sinh viên đƣợc công nhận là
quan trọng nhất. Giai đoạn những năm 1980 đến nay, tiếp tục có nhiều nghiên cứu thực
nghiệm về phƣơng pháp phản hồi đánh giá hiệu quả của giảng viên với 4 phƣơng pháp đƣợc
sử dụng chủ yếu là sinh viên đánh giá, đồng nghiệp đánh giá, chủ nhiệm khoa đánh giá và
giảng viên tự đánh giá. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tế, trong bài viết này chúng tơi
đƣa ra 3 phƣơng pháp ―phản hồi‖ mang tính hiệu quả cao nhƣ sau:
3. Một số phƣơng pháp “phản hồi” nâng cao hiệu quả trong giảng dạy tiếng Hán
3.1. Phản hồi qua đồng nghiệp thông qua dự giờ, sinh hoạt chuyên môn
Sinh hoạt chuyên môn là sự suy ngẫm chia sẻ các ý kiến của giáo viên về bài học sau
khi dự giờ. Những giáo viên dự giờ tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến ngƣời học và
ngƣời dạy, đƣa ra bằng chứng về những gì họ nhìn thấy đƣợc về cách học cách suy nghĩ, giải
quyết vấn đề của học sinh trên lớp học. Không tập trung vào việc đánh giá giáo viên mà chủ
yếu khuyến khích ngƣời dạy tìm ra ngun nhân bài học cịn chƣa đạt hiệu quả, sinh viên vì
sao lại chƣa hiểu bài. Mong muốn ngƣời dạy có khả năng điều chỉnh lại phƣơng pháp và nội
dung dạy sao cho phù hợp với đối tƣợng học sinh để nâng cao chất lƣợng bài giảng. Bên cạnh
đó, thƣờng xun sinh hoạt chun mơn sẽ tạo cơ hội cho tất cả ngƣời dạy nâng cao năng lực
chuyên môn, khả năng sáng tạo trong dạy học. Giáo viên cùng chia sẻ những kinh nghiệm và
hợp tác tìm ra phƣơng hƣớng cụ thể cho bài giảng phù hợp với mọi đặc điểm của sinh viên.
Đây là phƣơng pháp tuyệt vời cho sự phát triển năng lực chuyên môn đội ngũ giảng viên, tăng

65

Andrew Ford (2010). ―Chapter 9: Information feedback and causal loop diagrams‖. Modeling the
Environment. Island Press. tr. 99 ff. ISBN 9781610914253. This chapter describes causal loop diagrams to
portray the information feedback at work in a system. The word causal refers to cause-and-effect relationships.
The word loop refers to a closed chain of cause and effect that creates the feedback.

640



Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

thêm tình đồn kết giữa các đồng nghiệp. Làm việc nhóm thúc đẩy sự phát triển vững mạnh
hơn trong nền giáo dục mang tính khoa học và sáng tạo.
Để có một buổi sinh hoạt chun mơn tiếng Hán qua dự giờ bài giảng mang hiệu quả
cao ta cần chuẩn bị chu đáo tất cả các khâu. Giao nhiệm vụ cụ thể cho những thành viên liên
quan, đảm bảo những yêu cầu đề ra một cách nhanh gọn, chính xác và đặc biệt đảm bảo quy
trình mang tính khoa học và lơgic cao.
Thứ nhất, ngƣời quản lý cần phải có một kế hoạch sinh hoạt chuyên môn nhất định
cho mỗi học kỳ. Có văn bản thơng báo cụ thể cho từng giáo viên đƣợc biết ngay từ đầu kỳ học.
Đồng thời ngƣời quản lý cũng nên nêu rõ sinh hoạt chun mơn theo nội dung gì? Theo các
kỹ năng mơn học cụ thể hay theo từng bài học cụ thể. Có sự động viên khuyến khích và biện
pháp thích hợp để các tổ viên tham gia sinh hoạt chuyên môn một cách tích cực nhất. Ngƣời
quản lý cần tăng cƣờng các cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, tài liệu tham khảo giảng dạy
và đặc biệt tạo cơ hội cho giảng viên tham gia các đợt giao lƣu với trƣờng bạn, với các cuộc
hội thảo khoa học trong và ngoài nƣớc (hội thảo giảng dạy tiếng Hán khu vực Thái Bình
Dƣơng.v.v...) để phục vụ cho bài giảng ý nghĩa hơn.
Thứ hai, tổ trƣởng tổ chuyên môn, nên đặt ra lịch trình cụ thể cho buổi sinh hoạt
chun mơn sau khi dự giờ. Có định hƣớng chọn lọc các bài học dự giờ (ví dụ: Giá tiền; bƣu
điện, ngân hàng...); hoặc đúc kết các đề xuất của các giảng viên về việc chọn lọc bài học dự
giờ. Khuyến khích các thành viên trong tổ đăng ký thi đua dạy tốt qua dự giờ của đồng nghiệp.
Thứ ba, đối với giảng viên bộ môn nên mạnh dạn đăng ký bài học dự giờ với tổ trƣởng
bộ môn hoặc cấp trên, đƣa ra tên bài học và thời gian giảng dạy cụ thể. Hăng say tìm tịi
nghiên cứu các biện pháp hữu hiệu phục phụ tốt cho bài học bộ môn.
Buổi sinh hoạt chuyên môn mỗi giảng viên tự rút ra bài học cho bản thân mình để giờ
dạy lần sau hiệu quả hơn. Kết thúc buổi sinh hoạt tổ trƣởng tổ chun mơn tổng hợp lại các ý
kiến đóng góp của từng giảng viên đã đƣa ra những điều đạt đƣợc và chƣa đạt đƣợc đồng thời
ghi chép lại. Các giảng viên phải nghiêm túc đƣa ra các bằng chứng sát thực cho bài học vì
sao khơng hiệu quả thơng qua việc quay video, chụp ảnh. Các giảng viên không đánh giá giờ

dạy tốt hay khơng tốt, vì một bài học đƣợc thiết kế dựa trên nhiều yếu tố và thành phần; đặc
biệt khơng nên có sự ủng hộ của lãnh đạo đối với giờ dạy đó. Mà phải tập trung phân tích các
nguyên nhân chủ quan và khách quan, các mối quan hệ trong giờ học, tìm ra các biện pháp cải
tiến, nâng cao chất lƣợng bài học lần sau. Bằng cách đi sâu nghiên cứu phân tích các phƣơng
án dạy học đáp ứng năng lực của sinh viên, các mối quan hệ lớp học, các kỹ năng cần thiết để
nâng cao chất lƣợng việc học của sinh viên. Các ý kiến đƣa ra cần mang tính xây dựng cụ thể.
Cùng nhau suy nghĩ, vì sao bài giảng đó chƣa sinh động, sinh viên chƣa tích cực tham gia vào
hoạt động giờ học...sau đó mọi ngƣời cùng đƣa ra ý kiến thảo luận, mọi ngƣời nên tôn trọng
lắng nghe ý kiến của nhau.
3.2. Phản hồi qua việc lấy ý kiến của sinh viên
Hoạt động đánh giá giảng dạy qua việc khảo sát ý kiến phản hồi từ ngƣời học về hoạt
động giảng dạy của giảng viên bảo vệ quyền lợi chính đáng cho ngƣời học; đảm bảo tính dân
chủ, tạo cơ chế cho ngƣời học đƣợc đề xuất nguyện vọng, yêu cầu đối với môn học để đảm
bảo rằng những gì giáo viên dạy chính là những gì ngƣời học mong muốn. Đó là việc thu

641


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

nhận thông tin phản hồi từ ngƣời học. Cụ thể là tìm hiểu xem những kiến thức mà giảng viên
đã giảng dạy, những phƣơng pháp mà giảng viên đã tiến hành đã đƣợc sinh viên tiếp thu nhƣ
thế nào, hiệu quả cao hay thấp. Từ đó mỗi giảng viên tự nhìn nhận lại quá trình dạy học của
mình, thấy đƣợc mặt mạnh, mặt yếu để điều chỉnh phƣơng pháp giảng dạy cũng nhƣ dung
lƣợng kiến thức cho phù hợp. Mặt khác, đây cũng là một phƣơng pháp thu thập thông tin
giúp ngƣời quản lý hiểu mặt mạnh mặt yếu của từng giảng viên, qua đó có kế hoạch phân
cơng hợp lý, phát huy đƣợc sở trƣờng của mỗi giảng viên.
Do vậy sinh viên cần nhận thức rõ vai trò của mình trong hoạt động đánh giá tiết học.
Trong quá trình đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên, sinh viên cần thực hiện nghiêm

túc, chính xác và khách quan, đảm bảo thông tin phản hồi đối với giảng viên đƣợc phản ánh
một cách chính xác trong hoạt động dạy học đã đƣợc tiến hành. Bên cạnh các ý kiến đánh giá
cho các tiêu chí có sẵn, cần có thêm những ý kiến đóng góp thơng qua các câu hỏi mở, những
ý kiến góp ý của sinh viên sẽ là những thơng tin hữu ích giúp cho việc giảng dạy của giảng
viên đƣợc tiến hành tốt hơn.
Vậy làm thế nào để sinh viên có những ý kiến phản hồi một cách sát thực nhất. Thực
tế cho thấy, rất nhiều sinh viên rất muốn phản hồi nhƣng luôn mang tâm lý sợ khơng dám nói
ra, sợ giảng viên có ấn tƣợng khơng tốt với mình, sợ mình nói ra là sai, sợ vì cũng chƣa đủ tự
tin để nói ra và đặc biệt truyền thống Việt Nam từ xƣa đến nay khơng có trị đánh giá thầy vì
mọi ngƣời ln quan niệm là trị chƣa đủ trình độ để đánh giá thầy. Bên cạnh đó cũng có
nhiều sinh viên dám mạnh dạn phát biểu ý kiến của mình. Vậy để những đối tƣợng trên đều tự
nguyện bày tỏ ý kiến của mình, chúng ta nên làm nhƣ thế nào?
Trƣớc tiên, ngƣời quản lý sẽ báo cho ngƣời dạy biết kế hoạch sẽ lấy ý kiến phản hồi từ
sinh viên sau khi học xong một học phần, để giảng viên có tinh thần ngay từ đầu học kỳ dạy
học. Thứ hai, quản lý nhà trƣờng sẽ tổ chức buổi lấy ý kiến phản hồi của sinh viên ngay sau
khi kết thúc học phần. Trong phiếu đó chúng ta nên làm phiếu lấy ý kiến trắc nghiệm và tự
luận. Thứ ba, ban quản lý của trƣờng sẽ tiến hành chỉ đạo một buổi lấy ý kiến một cách
nghiêm túc khách quan để ngƣời học đƣa ra ý kiến công minh sát thực, tránh sự thiên lệch về
tình cảm, cách nhận thức sai lệch sẽ dẫn đến bài đánh giá thiếu tính khách quan và độ chính
xác. Tổng kết ý kiến phản hồi của sinh viên phải đảm bảo đƣợc các yếu tố sau đây:

Ý kiến phản hồi của sinh viên

Nội
dung dạy
học

Phƣơng
pháp dạy
học


Tài liệu
dạy học

Sự công bằng của
giảng viên qua hoạt
động kiểm tra đánh
giá kết quả học tập

Năng lực giảng viên
tổ chức, hƣớng dẫn,
tƣ vấn hoạt động
cho ngƣời học

642


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Cụ thể trong giờ giảng dạy từ mới tiếng Hán, có những giảng viên ngồi cho sinh viên
biết nghĩa của từ, từ loại của từ, cách sử dụng từ đó, trình tự cách viết của từ đó. Đồng thời sẽ
giảng giải từ đó bao gồm những bộ nào và mang ý nghĩa gì?
Ví dụ: Chữ Nhẫn (忍) mang nghĩa chịu đựng, nhẫn nhịn, gồm bộ tâm (心), bộ đao(刀),
bộ chủ (丶), theo phân tích triết tự ―Nhẫn‖ là chữ tƣợng hình, chữ ―đao‖ ở trên là cách phát
âm, chữ ―tâm‖ ở dƣới là trái tim chỉ ngƣời có tấm lịng bao dung rộng lƣợng, có sức chịu
đựng tốt.
Đặc biệt từ mới đó nó có liên quan đến câu chuyện hay thành ngữ, ca dao hoặc những
câu châm ngôn trong văn hóa cuộc sống hay khơng. Ngƣời dạy có thể sử dụng kỹ năng sƣ
phạm và kiến thức hiểu biết của mình để giảng từ đó cho dễ hiểu sinh động, tạo hứng thú cho

ngƣời học. Ví dụ: Chữ 安(An), gồm bộ ―宀‖ (miên) tƣợng trƣng mái nhà và chữ ―女‖(nữ). Ý
nói rằng, trong nhà có ngƣời phụ nữ thì gia đình mới yên ổn, an vui, hay ngƣời phụ nữ đem
lại sự an ổn, yên vui, làm đẹp cho gia đình. Chữ Điền (田) ,nghĩa là ruộng, nhƣng theo chiết
tự phân tích thì đó là ―Tâm điền‖. Trong chữ điền có bốn chữ đó là chữ Nhật (日); chữ Sơn
(山); chữ Vƣơng( 王); chữ Khẩu (口) và có câu thơ nhƣ sau:
Nhật nhật tung hoành nhật,
Tứ sơn điên đảo sơn,
Lưỡng vương tranh nhất quốc,
Tứ khẩu tung hoành gian.
Bài thơ này tƣơng truyền sứ thần Trung Hoa đem sang để thử nhân tài nƣớc Nam. Vua
và các quan trong triều khơng ai giải nghĩa đƣợc là gì. Một viên quan tâu với vua xin mời
trạng nguyên Nguyễn Hiền đến để hỏi nghĩa. Nguyễn Hiền giải thích nhƣ sau:
―Nhật nhật tung hoành nhật‖nghĩa là hai chữ ―nhật‖ đều bằng đầu nhau; ―Tứ sơn
điên đảo sơn‖ là 4 chữ ―sơn‖, ngƣợc xuôi cũng đều là chữ ―sơn‖ cả; ―Lưỡng vương tranh
nhất quốc‖, nghĩa là chữ ―vương‖ hai vua tranh một nƣớc; ―Tứ khẩu tung hồnh gian‖, có
nghĩa là 4 chữ ―khẩu‖ ngang dọc cũng đều thành chữ ―khẩu‖ cả. Tóm lại tất cả 4 câu thơ chỉ
nói đến chữ ―Điền‖. Giải xong, trạng nguyên Nguyễn Hiền viết thƣ đƣa cho sứ Trung Hoa,
ơng ta phải chịu là nƣớc Nam có nhân tài.
Bên cạnh đó, có những giảng viên chỉ dạy đơn thuần viết lên bảng, nói nghĩa của từ đó
là xong. Một cách dạy nói lên nét tinh hoa văn hóa của ngôn ngữ Trung Quốc, một cách dạy
cho thấy chỉ đơn thuần học thêm một từ mới của ngôn ngữ Trung Quốc. Do vậy sinh viên cần
căn cứ vào đúng tình hình thực tế phản hồi đánh giá giảng viên một cách khoa học chuẩn xác.
Và ngƣời giảng viên dạy khô khan đó sẽ có nhiều cơ hội học hỏi cách dạy từ đồng nghiệp
thông qua sự đánh giá chi tiết của sinh viên.
Thứ tƣ, bộ phận quản lý nên tổ chức và quản lý một cách thật khoa học sao cho mỗi
giảng viên dạy lớp nào, của bộ môn nào cần tồn bộ của sinh viên lớp đó tham gia đƣa ý kiến
phản hồi. Do đó việc lấy ý kiến của sinh viên nên tổ chức vào buổi học cuối cùng của môn

643



Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

học đó, nhƣ vậy sẽ đảm bảo đủ con số sinh viên, thơng tin sẽ chính xác hơn. Trong phiếu
phản hồi phản biện phải đƣa ra số điểm cụ thể cho từng phƣơng án, sinh viên sẽ đƣa ý kiến
phản hồi bằng cách đánh dấu vào phƣơng án lựa chọn. Sau khi lấy ý kiến của sinh viên xong,
bộ phận quản lý sẽ tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin, đƣa ra kết quả, đồng thời sẽ đóng
góp ý kiến trực tiếp với trƣởng khoa quản lý trực tiếp giảng viên đó. Sau đó trƣởng khoa sẽ
đóng góp ý kiến với giảng viên. Nếu giảng viên yêu cầu bộ phận quản lý sẽ gửi riêng kết quả
phản hồi cho ngƣời dạy. Phần tài liệu lấy ý kiến phản hồi của sinh viên đó bộ phận quản lý tổ
chức sẽ lƣu giữ lại để theo dõi sự tiến bộ của ngƣời dạy học phần sau.
3.3. Phản hồi qua quay video bài giảng (giảng viên tự đánh giá mình qua video)
Việc quay lại video bài giảng là ghi lại cả một quá trình của bài học diễn ra nhƣ thế
nào. Xem xét từ giọng nói, khẩu hình miệng, khn mặt, nội dung... của thầy và trị có đem
lại chất lƣợng cho bài học đó hay khơng. Tiếng Hán khơng phải là ngôn ngữ mẹ đẻ nên khi
ngƣời dạy giảng dạy cho đối tƣợng mới bắt đầu tiếp xúc với một ngôn ngữ mới chắc chắn sẽ
không khỏi bỡ ngỡ. Các cách đặt miệng lƣỡi, cách lấy hơi, bật hơi, biểu cảm khuôn mặt...làm
thế nào cho phù hợp với âm đó. Ngồi ra, chữ Hán là một loại ngơn ngữ mang tính tƣợng hình,
vì vậy đối với những nƣớc tiếng mẹ đẻ khơng mang chữ tƣợng hình nhƣ Việt Nam hoặc một
số nƣớc Tây Âu thì đây là khó khăn lớn cho ngƣời học. Hơn nữa, chữ viết của tiếng Hán
tƣơng đối phức tạp với nhiều nét đan xen nhau. Trên lớp với lƣợng sinh viên đông, việc ngƣời
dạy ghi nhớ đƣợc chi tiết từng đặc điểm của sinh viên sẽ vô cùng hạn chế. Thông qua việc
quay video bài giảng, ngƣời dạy có thể có nhiều thời gian xem lại, nghiên cứu và ghi nhớ đặc
điểm của sinh viên mình. Từ đó đƣa ra phƣơng pháp hợp lý cho từng đối tƣợng ngƣời học.
―Phản hồi‖ qua video bài học thực sự là phƣơng pháp hữu hiệu dùng nó để phát triển
bản thân ngƣời dạy. Giảng viên có thể tự đánh giá mình về chiến lƣợc, phƣơng pháp giảng
dạy, quản lý lớp học và tất cả những khía cạnh khác nhau của lớp học. Là giảng viên, chúng
tôi đã từng thực hiện phƣơng pháp này. Video bài học cho thấy không những giúp chúng ta
học, giúp chúng ta hiểu, rộng hơn nữa là giúp cộng đồng của chúng ta hiểu ý nghĩa cơng việc

phức tạp này là gì? Chúng tơi thiết nghĩ đó là một cách thực nghiệm và minh họa những điều
ta không thể truyền đạt trong bài giảng, những điều ta không thể truyền đạt theo chuẩn mực,
những điều thậm chí đơi khi khơng thể truyền đạt trong một cuốn sƣ phạm. Ngƣời dạy có thể
thấy rất nhiều điều và có thể học hỏi đƣợc rất nhiều thứ từ video đó. Vì vậy quay video bài
giảng thực sự là một công cụ đơn giản nhƣng mạnh mẽ để ngƣời dạy có thể tự đánh giá năng
lực của mình.
Để có một video chất lƣợng đầu giờ học giảng viên đặt máy quay ở cuối lớp học làm
sao cân đối máy quay đó có thể quay hết đƣợc mọi thứ xảy ra trong lớp học. Sau khi kết thúc
buổi học giảng viên quét lại phần video bài học đã giảng lên trên máy tính, xem lại một cách
kỹ càng. Tìm ra những ngun nhân vì sao sinh viên khơng hiểu bài hoặc vì sao lớp học
khơng tập trung, cách học sinh phản ứng và giải quyết vấn đề trong bài học hoặc những vị trí
kiến thức mà giảng viên chƣa làm đƣợc rõ trong bài. Từ đó có thể viết ra những điều cần chú
ý cho bài giảng về sau. Cũng có thể là ghi chú lại một phần của quá trình suy nghĩ của bản
thân và khám phá thêm những gì bản thân nhìn thấy khi xem lại phần video đó. Từ việc ghi

644


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

chú đó, giáo viên có thể lên phƣơng án thích hợp cho buổi dạy tiếp theo. Ngồi ra, video bài
học đó, giảng viên sẽ lƣu lại làm tài liệu bài giảng, hoặc cũng có thể gửi lên phịng quản lý bài
giảng, rộng hơn nữa là gửi bài lên các cuộc thi bài giảng tiếng Hán hay nhất. Từ đó tri thức và
phƣơng pháp của mỗi giáo viên sẽ đƣợc chia sẻ và lan rộng ra cả cộng đồng trên tồn cầu.
Chúng tơi thiết nghĩ nếu các trƣờng Đại học trên thế giới đều áp dụng phƣơng pháp này thì ta
khơng khó khăn gì khi cần tìm xem một bài giảng tiếng Hán thật hay và ý nghĩa với nội dung
ta cần tìm. Đây là kho tài liệu tham khảo bổ ích cho tất cả các trƣờng học ở các nƣớc đang dạy
và học tiếng Trung Quốc. Đồng thời các giáo viên cũng có thể cùng nhau học hỏi trao đổi
kinh nghiệm giảng dạy qua bài giảng đó.

Nhƣ vậy, khơng thể có một phƣơng pháp ―phản hồi‖ duy nhất, vạn năng để giúp giáo
viên dạy học tốt một ngôn ngữ mới, có thể áp dụng vào những điều kiện bất kì mà chỉ có một
tập hợp các phƣơng pháp ―phản hồi‖ mới có thể đảm bảo cho buổi học ngoại ngữ hoàn hảo,
đảm bảo ngƣời học sẽ tiếp thu những kiến thức một cách toàn diện nhất. Các phƣơng pháp và
biện pháp phải là một hệ thống xác định để kích thích và bổ sung cho nhau. Ngƣời dạy cần
nắm rõ đặc điểm, ƣu thế của từng phƣơng pháp để vận dụng linh hoạt trong giảng dạy, mang
lại hiệu quả mong muốn. So với các phƣơng pháp ―phản hồi‖ truyền thống thì phƣơng pháp
phản hồi thơng qua quay video lớp học mang tính khoa học và tiện lợi cao. Trong bất kỳ thời
gian nào ngƣời dạy cần vẫn có thể xem lại bài giảng đó. Từ đó ngƣời dạy có thể tự nhận đƣợc
những phản ánh chân thực nhất từ bài giảng. Phƣơng pháp lấy ý kiến từ ngƣời học có thể biết
đƣợc mức ƣu nhƣợc điểm của giảng viên trong việc giảng dạy để ngƣời quản lý kịp thời đề ra
các phƣơng án thích hợp để nâng cao chất lƣợng đào tạo. Phƣơng pháp sinh hoạt chuyên môn
qua dự giờ, ngƣời dạy sẽ nhận đƣợc nhiều bài học bổ ích, suy nghĩ, chia sẻ và những ý tƣởng
mới từ đồng nghiệp, từ những phân tích khách quan của đồng nghiệp để tìm ra đƣợc nguyên
nhân và phƣơng pháp đúng đắn cho các bài giảng về sau.
4. Kết luận
Tóm lại, trong nền công nghệ thông tin hiện đại ngày nay, việc ―phản hồi‖ đánh giá
ngƣời dạy là một việc cần và nên làm. Song cách thức phản hồi sẽ ở nhiều phƣơng diện khác
nhau. Để có một kết quả tốt trong học tập, chúng ta nên đánh giá phản hồi một cách chuẩn xác.
Chính sự đánh giá phản hồi chuẩn xác đó khơng chỉ ghi nhận thực trạng dạy học mà còn đề
xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng dạy học đó theo chiều hƣớng mong muốn của
xã hội. Phản hồi giúp cho giảng viên có cơ sở thực tế để nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu
của mình, để tự điều chỉnh hồn thiện hoạt động dạy học, phấn đấu không ngừng nâng cao
chất lƣợng và hiệu quả dạy học. Thiết nghĩ bản thân mỗi giảng viên chúng ta cần có sự tự giác,
nghiêm túc thực hiện đánh giá năng lực bản thân mình theo cách phản hồi qua video, đồng
thời những ngƣời quản lý cũng cần sát sao việc đánh giá chất lƣợng giảng dạy của giảng viên
theo định kỳ một cách nghiêm túc. Những sinh viên có sự nhận thức nghiêm túc đúng đắn về
nhiệm vụ đánh giá của bản thân mình. Ý kiến của các em là một phần vô cùng quan trọng tạo
nên chất lƣợng dạy và học. Có đƣợc nhƣ vậy thì kết quả của việc dạy học ngoại ngữ sẽ ngày
càng đƣợc nâng cao. Và chúng ta sẽ tiến xa hơn nữa sánh vai với các nƣớc phát triển trên thế

giới. Chúng ta sẽ có một chất lƣợng dạy học thực sự hiệu quả và đầy sáng tạo.

645


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Tài liệu tham khảo
Nguyễn Bằng. Sinh viên đánh giá giảng viên: Đừng hiểu sai!
( hieu-sai-886914/)
Nguyển Đức chính (2002). Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học. Nxb Giáo dục.
Hoàng Trọng Dũng (2010). Tác động về việc lấy ý kiến phản hồi từ sinh viên tới hoạt động giảng dạy
của trƣờng Đại học Dân lập Văn Lang. Luận văn thạc sỹ. Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Công văn số 1276/BGDĐT-NG ngày 20/2/2008 của Bộ trƣởng Bộ GD&ĐT về việc tổ chức lấy ý kiến
phản hồi từ ngƣời học về hoạt động giảng dạy của giảng viên.
( />Trần Lê Hữu Nghĩa (2011). Những quan niệm về chất lượng giáo dục.
/>Harvey, L. and Green, D. (1993). Quantifying Quality. the importance of student feedback. Quality in
Higher Educatiion, 18(1), 9-34.
任小平《注重教学反馈,提高教学效率》,期刊论文《新课程.中旬》2013 年 12 期。
杨柳《纠错反馈对二语习得的作用研究述评》山东柳城大学外国语学院,《教育园地》2016
年。

APPLYING SOME ADVANCED “FEEDBACK”METHODS
TO ENHANCE THE EFFECTIVENESS OF CHINESE TEACHING
(TAKE TEACHING AND LEARNING CHINESE OF HAI PHONG
UNIVERSITY AS AN EXAMPLE)
Abstract
―Feedback‖ is a multi-dimensional combination method to improve the effectiveness of
teaching and learning. The article mainly gives the current situation of applying feedback

method to the major of Chinese language teaching at Hai Phong University, and at the
same time focuses on discussing the effectiveness of applying the combined ―feedback‖
method, through three directions: getting opinions from students; video recording class
lectures and observing professional activities. In particular, the article analyzes the
effectiveness of applying information technology ―recording classroom video‖ compared
to other traditional methods. Since then, it is recommended to use the ―feedback‖ method
in teaching and learning foreign languages in general and Chinese in particular.
Keywords
teaching Chinese, feedback, video, attend time, student opinion

646



×