Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.64 KB, 40 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>BÁO CÁO ĐỀ DẪN “HỘI THẢO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRẺ” Người viết: Nguyễn Minh Tứ Bí thư Chi đoàn giáo viên. Kính thưa các quý vị đại biểu, kính thưa các thầy giáo cô giáo, thưa toàn thể các đồng chí. Năm học 2012-2013 trường THPT Đồ Sơn có 74 cán bộ giáo viên công nhân viên, trong đó có 64 giáo viên trực tiếp giảng dạy thì có đến 32 giáo viên có tuổi đời dưới 30 và còn đang sinh hoạt trong chi đoàn giáo viên nhà trường. Như vậy có thể thấy đội ngũ giáo viên trẻ đang chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng số giáo viên trong trường, điều đó có thuận lợi là các đồng chí có nhiều sức khỏe, nhiệt huyết, có sự cầu tiến và sôi nổi trong các hoạt động tập thể của nhà trường. Tuy nhiên, đứng về khía cạnh chuyên môn, xét về chất lượng giảng dạy thì đa số các đồng chí giáo viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức chuyên sâu và hạn chế về mặt phương pháp trong công tác giảng dạy. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương Đảng (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 khẳng định: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại hóa vào quá trình dạy – học...” Kết luận số 242- TB/T.Ư ngày 15/04/2009 của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện nghị quyết TƯ 2 (khóa VIII) về phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 chỉ rõ: “ Tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục. Rà soát lại toàn bộ chương trình SGK phổ thông. Sớm khắc phục tình trạng quá tải, nặng về lí thuyết, nhẹ về thực hành, chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người học”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “ Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại”... Kính thưa các quý vị đại biểu, kính thưa các thầy giáo cô giáo, thưa toàn thể các đồng chí. Khó có thước đo nào đánh giá chính xác khả năng, năng lực giảng dạy của một người thầy. Tuy nhiên kết quả học tập của học sinh cũng phần nào phản ánh đúng hiệu quả của quá trình dạy và học. Chúng ta đều hiểu là muốn nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo thì trước hết phải có một đội ngũ giáo viên thực sự có chất lượng, việc nâng cao chất lượng giảng dạy cho giáo viên phải được làm đồng bộ, toàn diện và thường xuyên, đặc biệt là tập trung vào đội ngũ giáo viên trẻ vì giáo viên trẻ là tương lai của nhà trường và quan trọng, xét về tuổi đời, tuổi nghề và kinh nghiệm giảng dạy thì đội ngũ giáo viên trẻ đều còn thiếu. Trong những năm gần đây, trường THPT Đồ Sơn đang ngày càng có những bước phát triển mới, tạo được uy tín và dần khẳng định được vị thế của ngôi trường có bề dày truyền thống trên 40 năm. Đội ngũ giáo viên không ngừng phát triển cả về lượng và chất. Việc bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho đội ngũ giáo viên trẻ được nhà trường xác định là một chiến lược phát triển lâu dài và rất quan trọng. Lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm và chỉ đạo sát sao việc thực hiện nhiệm vụ này. Trong năm học 2012-2013, Ban giám hiệu đã giao nhiệm vụ cho các tổ chuyên môn và các tổ chức trong nhà trường xây dựng kế hoạch, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả công tác bồi dưỡng giáo viên trẻ. Chi đoàn giáo viên trường THPT Đồ Sơn luôn xác định rõ nhiệm vụ và vai trò của mình trong việc góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy cho các đồng chí giáo viên trẻ, qua đó góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học, cùng góp phần vào sự phát triển chung của nhà trường. Đứng trước nhiệm vụ thực tế đó, BCH chi đoàn cũng đã nhiều lần họp, cùng thảo luận và trăn trở để tìm hướng giải quyết. Được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của Cấp ủy chi bộ và Ban giám hiệu, đặc biệt là đồng chí phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, chi đoàn giáo viên đã tổ chức Hội thảo với chuyên đề: “ Nâng cao chất lượng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên trẻ”. Hội thảo được tổ chức nhằm đánh giá đúng thực trạng giảng dạy của các đồng chí giáo viên trẻ, nêu ra những mặt mạnh và hạn chế của giáo viên trẻ; từ đó cùng góp ý và thảo.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> luận để tìm hướng tháo gỡ những điểm hạn chế, đề xuất ra những hướng giải quyết để nâng cao chất lượng cho các đồng chí giáo viên trẻ. Hội thảo đã nhận được nhiều bài tham luận của các đồng chí giáo viên trẻ trong CĐGV, các tham luận đều tập trung vào các vấn đề xung quanh việc nâng cao chất lượng giảng dạy cho các đồng chí giáo viên trẻ. Hội thảo được tổ chức trong thời điểm nhà trường đang đón đoàn thực tập sư phạm của trường ĐHHP nên hy vọng qua Hội thảo các em giáo sinh thực tập cũng rút ra được những kinh nghiệp quý báu cho bản thân, tích lũy thêm những kinh nghiệm và kiến thức bổ ích trước khi các em chính thức bước vào nghề dạy học. Hội thảo được tổ chức đúng vào dịp cao trào của các hoạt động kỉ niệm chào mừng ngày QTPN 8/3; ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 26/3 nên chắc chắn những kết quả tích cực mà Hội thảo mang lại sẽ càng trở nên có ý nghĩa hơn. Do đặc thù của chi đoàn là đa bộ môn nên không thể đi sâu để đưa ra biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của từng bộ môn mà Hội thảo sẽ đi theo hướng khái quát hóa, đóng góp ý kiến để tìm hướng đi chung nhất cho tất cả các môn, mỗi đồng chí sẽ vận dụng những ý kiến đó vào cho từng bộ môn mình giảng dạy. Trong Hội thảo này tôi đề nghị các đồng chí giáo viên sôi nổi thảo luận đưa ra các ý kiến đóng góp cho Hội thảo, các ý kiến đóng góp cần tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau đây: 1. Những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bài dạy ( như kĩ năng soạn giáo án; kĩ năng sử dụng dồ dùng thiết bị và thí nghiệm trong dạy học; các kinh nghiệm ứng dụng CNTT vào trong bài dạy...) 2. Những kĩ năng xử lí các tình huống sư phạm ( cách giải quyết các tình huống sư phạm; kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm ). Ngoài ra, còn các ý kiến khác để nâng cao chất lượng giảng dạy cho giáo viên trẻ như kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi, kinh nghiệm ôn và luyện thi đại học, kĩ năng ra đề kiểm tra ... sẽ được viết thành các tham luận và đưa vào trong cuốn kỷ yếu Hội thảo để các đồng chí tham khảo. Kính thưa các quý vị đại biểu, kính thưa các thầy giáo cô giáo, thưa toàn thể các đồng chí..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> Hội thảo của chúng ta rất vinh dự khi nhận được sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo nhà trường, của các thầy cô là Tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn và các đồng chí đại biểu khách mời nên tôi hy vọng chúng ta sẽ tận dụng được chất xám của tập thể, sẽ đóng góp ý kiến sôi nổi và thẳng thắn để đem lại thành công cho Hội thảo. Cuối cùng, xin kính chúc sức khỏe các đồng chí lãnh đạo, các quý vị đại biểu và toàn thể các đồng chí. Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp. Xin trân trọng cảm ơn!. THAM LUẬN Một số vấn đề về đổi mới phơng pháp giảng dạy, đổi mới kiểm tra đánh giá Ngêi viÕt: TrÇn ThÞ HiÒn- Gi¸o viªn §Þa lÝ.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Trong những năm gần đây việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới kiểm tra đánh giá đã trở thành một đòn bẩy mạnh mẽ làm thay đổi đáng kể chất lượng học tập của học sinh trong nhà trường. Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục. Một phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên và học sinh phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy. Phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học. Thực tế cho thấy bức tranh chung về phương pháp giảng dạy hiện nay là tập trung vào kỹ năng tư duy phân tích, nghĩa là dạy cho học sinh cách hiểu các khái niệm, thảo luận theo phương pháp định sẵn, loại bỏ những hướng đi không đúng, tìm ra câu trả lời đúng nhất. Bên cạnh đó phương pháp thuyết trình (thầy giảng, trò ghi) vẫn chiếm ưu thế. Phương pháp này đã làm hạn chế sự phát triển của tư duy sáng tạo đó là tập trung vào khám phá các ý tưởng, phát triển thành nhiều giải pháp, tìm ra nhiều phương án trả lời đúng thay vì chỉ có một. Phương pháp này cũng dẫn đến sự thụ động của học sinh trong việc tiếp cận tri thức. Sự thụ động này là nguyên nhân tạo cho học sinh trì trệ, ngại đọc tài liệu, ngại tranh luận, thiếu khả năng thuyết trình, lười tư duy và thiếu tính sáng tạo... Học sinh còn quan niệm rằng chỉ cần học những gì giáo viên giảng trên lớp là đủ. Ngoài ra sự thụ động của các em còn thể hiện qua phản ứng đối với bài giảng của giáo viên trên lớp. Các em chấp nhận tất cả những gì giáo viên trình bày. Sự giao tiếp trao đổi thông tin trong lớp học hầu như chỉ mang tính một chiều. Bên cạnh đó thực tế hiện nay việc kiểm tra đánh giá (KTĐG) chưa thực sự có sự chuyển biến tích cực, KTĐG vẫn phổ biến sử dụng phương pháp cũ. Việc kiểm tra miệng, kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì vẫn kiểm tra theo lối thuộc bài, áp đặt theo mẫu soạn sẵn, chưa phát huy được tính sáng tạo của người học, học sinh chưa có điều kiện thể hiện chính kiến của mình. Từ thực tế trên cho thấy để nâng cao chất lượng giáo dục, việc đổi mới p hương pháp dạy học là việc làm cấp thiết và cần tiến hành một cách đồng bộ. Đổi mới phương pháp giảng dạy yêu cầu người giáo viên không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết để nâng cao vai trò của mình trong việc kích thích trí tò mò của học sinh, phát.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> triển năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức và khả năng sáng tạo. Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi phải gắn với các phương pháp kiểm tra mới nhằm khuyến khích không chỉ khả năng nhớ mà cả khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và sáng tạo của học sinh. Vì thế cùng với việc đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh, phân hoá được trình độ, nhận thức của học sinh, cần phải đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá bởi nó có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại với phương pháp dạy học. Vậy việc đổi mới giảng dạy và kiểm tra đánh giá được thực hiện như thế nào trong một tiết dạy cụ thể? Đối với người thầy - Không có nhận thức đúng thì người thầy khó có thể đủ quyết tâm để đổi mới PPDH trong hoàn cảnh hiện nay. Trước hết, GV bộ môn phải có nhu cầu thay đổi PP soạn giảng, biết “đoạn tuyệt” với những cách dạy lạc hậu không còn phù hợp với thời cuộc. Thầy cô không chỉ là người dẫn đường giúp các em học sinh (HS) đọc và nghiên cứu SGK mà còn hướng cho HS tìm hiểu bài, thảo luận nhóm, tìm tư liệu để xây dựng bài mới. Ở trên lớp GV giống như một vị chỉ huy - thầy cô là người trực tiếp hướng dẫn HS phương pháp học tập mới, biết tổ chức tiết học phát huy tối đa tính tích cực của HS. - Để phát huy tính chủ động sáng tạo và tập thói quen tự ghi chép cho HS trong giờ học, qua kinh nghiệm thực tế cho thấy người GV cần phải chuẩn bị tốt các yếu tố sau: Nắm vững chương trình nội dung SGK, chuẩn bị tốt bài giảng. Tùy thuộc vào sĩ số lớp, điều kiện phòng học để chia nhóm trong lớp (mỗi nhóm tối thiểu từ 2 đến 4 hoặc 6 đến 8 HS). Chuẩn bị tốt các trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học như: Phiếu học tập, giáo án điện tử, máy chiếu, bảng phụ, nam châm, tư liệu, tranh ảnh… - Trong quá trình thực hiện giảng dạy: đưa ra hệ thống câu hỏi hợp lý, câu hỏi có vấn đề hoặc đưa ra các dạng bài tập để HS suy nghĩ, trả lời hoặc làm bài. Từ đó GV đánh giá được trình độ nhận thức của HS. Hướng dẫn các nhóm thảo luận và đưa ra nhận xét kết luận. GV chốt lại và bổ sung nội dung để các em tự ghi bài theo từng phần”.Đối với phần củng cố kiến thức và kiểm tra đánh giá, GV tổ chức các hình thức gameshow như ô chữ, đố vui, tìm từ khóa hoặc ứng dụng bài tập… để HS khắc sâu kiến thức đã học với tinh thần “Vui để học”. Riêng phần hướng dẫn về nhà GV.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> phân công tìm tư liệu, hình ảnh cho tiết học sau của từng nhóm ở các môn xã hội, các dạng bài tập ở môn tự nhiên… Vai trò của người học Trước đây HS học theo lối thụ động, phụ thuộc hoàn toàn vào GV, các em chỉ biết nghe GV giảng và chép theo những gì GV trình bày. Đôi khi các em cũng tham gia xây dựng bài mới nhưng không có thói quen thảo luận, làm việc nhóm, chủ yếu là cá nhân và tự phát. Để thực hiện tốt tiết học, thầy cô phải giúp các em thay đổi “guồng máy học tập”. Chuyển từ học tập thụ động ghi nhớ là chính sang học tập tích cực chủ động, sáng tạo. Do vậy đối với các em học sinh cần tự học ở nhà, trước khi đến lớp HS đọc bài mới trong SGK, gạch dưới những ý chính, trả lời một số câu hỏi gợi ý của GV hoặc câu hỏi trong SGK vào vở bài soạn. Nếu có thắc mắc thì ghi lại bảng câu hỏi để vào lớp trao đổi nhóm hoặc hỏi thầy cô. Mỗi nhóm tự phân công từng cá nhân sưu tầm tư liệu hình ảnh hoặc chuẩn bị một câu chuyện của chính bản thân mình hay người khác có liên quan đến bài học để minh họa cho tiết học sau. Có như vậy các em mới chủ động hơn trong việc xây dựng và tiếp thu bài mới. Làm việc nhóm là một cách thức học hiệu quả giúp các em suy nghĩ độc lập và hợp tác với nhau để đưa ra vấn đề, phương châm học tích cực và hiệu quả của các em là “Tai nghe, tay viết, mắt nhìn, óc suy nghĩ”… Như vậy để nâng cao chất lượng giáo dục cần phải cải tiến đổi mới đồng bộ về nhiều mặt: chương trình, phương pháp giảng dạy, đội ngũ giáo viên, ... Trong đó việc đổi mới PPGD và KTĐG sẽ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục một cách bền vững. Trên đây là một số vấn đề suy nghĩ của các nhân tôi về vấn đề có liên quan tới đổi mới PPDH và KTĐG trong nhà trường. Vì phạm vi đề tài rộng và thời gian, kinh nghiệm chưa nhiều nền chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô để bản tham luận sâu sắc, chất lượng và mang lại hiệu quả thiết thực hơn. Xin trân trọng cảm ơn! Đồ Sơn, ngày 21 tháng 03 năm 2013.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> THAM LUẬN VỀ KỸ NĂNG SOẠN GIÁO ÁN Người viết: Vũ Thị Trâm – giáo viên môn Văn.. Đối với người thầy đứng trên bục giảng, chất lượng, hiệu quả của bài học là mục tiêu quan trọng nhất. Bởi vậy, mỗi thầy cô tâm huyết với nghề luôn luôn không ngừng suy nghĩ, tìm tòi để học tập, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và tìm ra những cách thức để tổ chức hoạt động dạy- học sao cho thật thành công. Một trong những công việc mà mỗi thầy cô giáo thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, có sự đầu tư lớn về thời gian, công sức đó là hoạt động soạn giáo án. Soạn giáo án là một thao tác chuẩn bị cho sự tổ chức hoạt động dạy- học trên bục giảng của thầy cô. Thao tác này có vai trò quan trọng giúp thầy cô xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài học; xác định đúng kiến thức trọng tâm; dự kiến tổ chức các đơn vị kiến thức có trình tự, lớp nang; đồng thời dự kiến các tình huống nhận thức liên quan đến đối tượng học sinh.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> mà mình hướng tới....Như vậy, soạn giáo án trước giờ lên lớp sẽ giúp cho người thầy chủ động, linh hoạt hơn trong việc tổ chức hoạt động dạy- học trên bục giảng. Đó là một trong những yếu tố nâng cao hiệu quả dạy- học của cả thầy và trò. Nhận thức được tầm quan trọng của công việc soạn giáo án, chi đoàn giáo viên chúng tôi đưa ra ý kiến tham luận về vấn đề này để các đồng chí cùng tham khảo, đóng góp ý kiến xây dựng. Với kinh nghiệm giảng dạy của mình, tôi xin mạnh dạn đưa ra ý kiến trao đổi thảo luận trước hội thảo. Do tuổi nghề và bề sâu kinh nghiệm chưa nhiều, nên bản tham luận khó tránh khỏi những hạn chế. Rất mong nhận được sự chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm của các đồng chí. 1. Theo tôi, trước hết kỹ năng soạn bài gồm nhiều kỹ năng bộ phận, có mối quan hệ mật thiết với nhau bao gồm: Kỹ năng xác định mục tiêu bài dạy; Kỹ năng xác định loại bài dạy, nội dung và cấu trúc bài; Kỹ năng xác định nguồn gốc thông tin phục vụ cho hoạt động dạy học( tài liệu tham khảo); Kỹ năng xác định chiến lược hoạt động dạy học cho phù hợp( phương pháp dạy học). Để có một giáo án tốt, người thầy trước hết cần trang bị cho mình những kĩ năng trên. 2. Trước khi soạn bài, giáo viên cần xác định các căn cứ cần thiết như: - Phân phối chương trình, chuẩn kiến thức, kỹ năng, sách giáo viên và tài liệu tham khảo. - Điều kiện cơ sở vật chất: lớp học, phòng máy, trang thiết bị, dạy học. - Đặc điểm, nội dung bài học, tiết học. - Trình độ tiếp thu của học sinh. Trên cơ sở những căn cứ này, giáo viên thiết kế một bài soạn cụ thể. 3. Theo tinh thần đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học ở bậc THPT, việc thiết kế một bài soạn theo tinh thần đổi mới bao gồm: 3.1. Chuẩn bị lập kế hoạch bài học: Ở thao tác này, thầy cô cần phân tích chương trình SGK: Xác định rõ mục đích, yêu cầu của chương trình, đặt bài học cụ thể vào tiến trình chung của cả cấp học để có cái nhìn hệ thống về kiến thức. Xác định nội dung và trọng tâm của bài. Trên cơ sở kiến thức, giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học tương thích với nội dung bài học, dự kiến phương pháp dạy học phù hợp với.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> nội dung; hứng thú, thói quen, kinh nghiệm của học sinh; năng lực, điều kiện, thế mạnh,..của giáo viên; cơ sở vật chất của nhà trường. 3.2. Xây dựng kế hoạch bài học: Ở thao tác này giáo viên cần xác định và làm rõ mục tiêu của bài học: về kiến thức, kỹ năng, thái độ; đặt biệt là phải: -. Xác định nội dung cơ bản, trọng tâm phù hợp với thời gian.. -. Xác định các phương pháp, kĩ thuật tiếp cận nội dung đó.. -. Rất cần thiết phải xác định trình độ xuất phát, đặc điểm tâm lý học tập của. đối tượng học sinh. 3.3. Thiết kế các hoạt động dạy học, cần hình dung rõ: Tiến trình bài giảng; Các hoạt động của giáo viên? Các hoạt động của học sinh? Mục tiêu mong muốn của mỗi hoạt động; Tương ứng với mỗi hoạt động cần tài liệu học tập và phương tiện học tập nào; Tạo ra khả năng học tập bằng các tài liệu học tập, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức học tập phù hợp, có hiệu quả; Xác định và dự kiến kiểm tra đánh giá. 3.4. Trình bày bài soạn: Tuỳ theo bộ môn, giáo viên thực hiện theo mẫu quy định thống nhất. Trong đó cần chú ý những điểm cơ bản sau: -. Cách xác định mục tiêu bài học: theo hướng cần chỉ rõ mức độ Học sinh phải. đạt được sau khi học, về: kiến thức, kỹ năng, tư duy và thái độ đủ làm căn cứ đánh giá kết quả bài học. Chú ý đến việc xây dựng cho học sinh phương pháp học tập mà đặc biệt là tự học tự nghiên cứu. -. Trong cách soạn giáo án, chú ý chuyển trọng tâm từ thiết kế các hoạt động của. thầy sang thiết kế các hoạt động của trò, tăng cường tổ chức các công tác độc lập hoặc làm việc với nhóm nhỏ sao cho “ Học sinh suy nghĩ nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, hợp tác với nhau nhiều hơn, trình bày ý kiến của mình (nói và viết) nhiều hơn”. -. Nâng cao chất lượng câu hỏi, giảm câu hỏi tái hiện kiến thức, tăng tỷ lệ câu hỏi. yêu cầu tư duy, bám theo các hoạt động dự kiến nhằm làm cho học sinh tích cực, độc lập và sáng tạo trong học tập. Chú trọng nhận xét câu trả lời của học sinh… Như vậy theo tinh thần đổi mới, kỹ năng soạn bài giảng là một kỹ năng có tính tổng hợp, đòi hỏi phải được quan tâm trong việc nghiên cứu các hoạt động cấu thành kỹ năng thành phần: kỹ năng xác định mục tiêu bài học; kỹ năng xác định nội dung trọng tâm; kỹ năng xác định PPDH;…..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> 4. Cuối cùng điều tôi thiết nghĩ, với mỗi giáo viên trẻ như chúng ta đang tràn đầy niềm say mê và nhiệt huyết hãy cố gắng trau dồi về chuyên môn, chuẩn bị và nhuyễn giáo án trước khi lên lớp, trải nghiệm thực tế để bài dạy của chúng ta ngày càng sinh động và hứng thú hơn. Để công tác giảng dạy của chi đoàn giáo viên tiến bộ và hiệu quả hơn, tôi mạnh dạn có đề xuất kiến nghị là: Ban chấp hành chi đoàn có hình thức tổ chức linh hoạt nhiều buổi sinh hoạt chuyên đề cho các bộ môn cụ thể để các đồng chí giáo viên có thể cởi mở trao đổi, thảo luận về kiến thức và kinh nghiệm giảng dạy, để cùng nhau trau dồi chuyên môn nghiệp vụ; phục vụ có hiệu quả cho công tác giảng dạy của nhà trường. Xin trân trọng cảm ơn!. THAM LUẬN : NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC TỰ BỒI DƯỠNG. Người viết : Nguyễn Minh Tứ - Giáo viên môn Vật lí.. Kính thưa Quý vị đại biểu! Kính thưa các thầy cô giáo! Lời đầu tiên tôi xin gửi tới các Quý vị đại biểu, các thầy cô giáo lời chúc sức khỏe và hạnh phúc. Để làm rõ và cụ thể hóa về phương pháp tự học- tự bồi dưỡng, sau đây tôi xin trình bày một số ý kiến tham luận về nâng cao chất lượng giảng dạy thông qua phương pháp tự học. Trong năm học 2012-2013 nhà trường có 64 giáo viên trực tiếp giảng dạy thì trong đó có 32 giáo viên trẻ (tuổi dưới 30), đó vừa là thuận lợi song cũng là khó khăn trong việc truyền đạt kiến thức tới các em học sinh. Do tuổi đời, tuổi nghề còn ít nên.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> chắc chắn đội ngũ giáo viên trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình giảng dạy. Để khắc phục khó khăn đó, chúng ta phải không ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, tri thức và kiến thức chuyên môn, tiếp cận với các phương pháp đổi mới dạy học, ứng dụng và làm chủ công nghệ thông tin. Có rất nhiều cách để thực hiện điều đó song biện pháp tốt nhất, theo tôi là tự học, tự bồi dưỡng. Là một giáo viên trẻ, trực tiếp giảng dạy môn Vật lí, tôi xin trình bày những ý kiến và kinh nghiệm của mình về việc tự bồi dưỡng. 1. Tự học qua sách, tài liệu, tạp chí….. Đối với tôi, đọc sách là niềm đam mê từ khi còn là học sinh, sinh viên và cả khi đã là giáo viên. Tôi có sở thích là vào cửa hàng sách, tìm và mua những cuốn sách nhằm phục vụ việc học tập hay giảng dạy. Không có cuốn sách nào là hoàn hảo, song nếu biết cách chắt lọc ra từ các cuốn sách khác nhau những gì ưu tú nhất thì cuối cùng ta sẽ thu được một cuốn sách ưng ý nhất. Trước khi soạn một bài giảng tôi thường đọc rất nhiều sách và tài liệu song không bao giời bỏ qua hai cuốn là sách giáo khoa và sách giáo viên, đó có lẽ là hai cuốn sách hữu ích nhất đối với chúng ta. Tôi cũng có thói quen sưu tầm đề thi Tốt nghiệp và đề thi Đại học, tìm hiểu, phân loại và nắm chắc các dạng bài tập từ các đề thi để từ đó phân loại các chủ đề bài tập, xây dựng đề cương ôn thi… 2. Internet. Thư viện quý giá và vô hạn. Có mượn mà không cần trả. Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng, thế giới mà sức mạnh và vai trò của công nghệ thông tin đang trở nên chi phối mọi hoạt động. Có thể nói trên mạng Internet có đủ các loại tài liệu của đủ các môn học. Đối với tôi, khi cần tìm kiếm tài liệu hay cần giải quyết một vấn đề khó khăn thì một trong những người bạn đầu tiên tôi nghĩ tới là Internet. Ở đó tôi có thể học hỏi, tham khảo các tài liệu, các dạng bài tập, các đề thi, đề kiểm tra hay giáo án… Dĩ nhiên là không thể dùng ngay các tài liệu ta tải về từ mạng Internet, tôi thường phải mất một khoảng thời gian không nhỏ để thẩm định độ chính xác của tài liệu, chắt lọc, bổ sung và sắp xếp lại theo logic, biến những tài liệu đó trở thành tài liệu của mình. Hai trang mạng theo tôi rất hữu ích cho giáo viên là: “baigiang.bachkim.vn và edu.net.vn”. Tuy nhiên, điều đó đòi hỏi ta phải có kiến thức và kĩ năng khá tốt về việc sử dụng Internet và máy tính… 3. Học tập từ đồng nghiệp..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Đối với tôi, một trong những ao ước lớn nhất khi mới bỡ ngỡ vào nghề là được học hỏi từ đồng nghiệp, được nghe những lời nhận xét quý báu của những người cùng nghề, cùng chuyên môn. Có lẽ điều giúp tôi trưởng thành nhanh nhất là học hỏi qua đồng nghiệp của mình. Tôi thường xuyên dự giờ để học hỏi và rút kinh nghiệm cho bản thân. Dự giờ không nhất thiết phải cùng chuyên môn và cũng không nhất thiết phải dự thầy cô có nhiều kinh nghiệm vì đơn giản mỗi người đều có nhiều điều cho ta học hỏi. Ngoài ra tôi cũng thường xuyên trao đổi và thảo luận với các thầy cô cùng chuyên môn về phương pháp giảng dạy, một dạng bài tập khó hay đơn giản là cách tiến hành một thí nghiệm… 4. Tự học mọi nơi mọi lúc. Tôi có một thói quen là hay quan sát và suy luận, tìm hiểu bản chất của vấn đề. Trong cuộc sống điều này nhiều lúc chưa chắc đã hay song trong chuyên môn giảng dạy tôi thấy nó giúp ích tôi rất nhiều. Không phải lúc nào ta cũng có thể hỏi người khác, không phải lúc nào cũng có người nhận xét rút kinh nghiệm cho mình. Tôi thường hay quan sát và lắng nghe, đôi khi chỉ tình cờ được nghe một câu chuyện của người khác, hay đi qua một lớp đang học, rồi qua những lời nhận xét của các em học sinh… tất cả những điều đó tôi thấy đều rất hữu ích. Ngoài ra, đối với các môn khoa học thực nghiệm nói chung và đối với môn Vật lí nói riêng, Tôi thường cố gắng làm tất cả các thí nghiệm có thể cho các em học sinh, nếu không được thì tìm cách mô phỏng qua các phần mềm rồi trình chiếu trên màn hình, hay nếu có điều kiện thì liên hệ với một vấn đề thực tế nào đó… điều này đòi hỏi phải không ngừng tìm tòi, suy luận và vận dụng một cách linh hoạt. Tuy nhiên tất cả những điều đó đều giúp tôi nâng cao khả năng chuyên môn cũng như giúp cho các em học sinh hào hứng hơn, hiểu bài kĩ hơn. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi để nâng cao chất lượng dạy học thông qua phương pháp tự học và tự bồi dưỡng xin được tổng kết lại và báo cáo trong Hội thảo. Kính thưa các quý vị đại biểu! Kính thưa các thầy giáo cô giáo!.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Để giúp việc giảng dạy và học tập của thầy và trò được tốt hơn, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số nội dung sau: * Đối với nhà trường: - Cần xây dựng một Thư viện lớn hơn, trong đó có phòng đọc, phòng Internet ... để các đồng chí giáo viên và các em học sinh có thể vào phòng tự học, tự đọc và tra cứu tài liệu. Thư viện cần trang bị thêm nhiều đầu sách mới, phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra. - Đối với môn Vật lí, Phòng thí nghiệm Vật lí cần được trang bị thêm nhiều thiết bị hơn nữa để phục vụ giảng dạy cho giáo viên và thực hành cho các em học sinh. * Đối với Tổ - Nhóm chuyên môn: - Cần đổi mới phương pháp sinh hoạt, dành nhiều thời gian hơn nữa cho việc sinh hoạt chuyên môn và sinh hoạt nhóm. - Tổ chức một CLB môn học, để khơi dậy niềm yêu thích môn học, giúp các em học sinh đam mê môn học có một sân chơi thật bổ ích, đó cũng là nơi phát hiện và bồi dưỡng những em học tốt, làm tiền đề cho việc xây dựng và bồi dưỡng đội tuyển HSG. * Đối với các đồng chí giáo viên trẻ: - Thường xuyên dự giờ để học hỏi đồng nghiệp. - Thường xuyên trao đổi học hỏi đồng nghiệp, đặc biệt là các thầy cô có nhiều kinh nghiệm về chuyên môn cũng như về công tác quản lí học sinh... Trên đây tôi đã trình bày xong bản tham luận nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và thông qua phương pháp tự học- tự bồi dưỡng. Đó chỉ là những ý kiến và kinh nghiệm của cá nhân tôi, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót; rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các quý vị đại biểu, các thầy cô giáo để bản tham luận được đầy đủ và hữu ích hơn. Cuối cùng xin kính chúc Quý vị đại biểu, các thầy cô giáo luôn mạnh khỏe và công tác tốt. Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Xin trân trọng cảm ơn!. THAM LUẬN VỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM. Người viết: Lưu Minh Dự- chủ nhiệm lớp 10C5.. Nghề dạy học là nghề trồng người, và cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã ca ngợi “ Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao quý”. Bởi lẽ, giáo viên được đào tạo là để giáo dục học sinh trở thành những con người có đầy đủ ĐứcTrí- Thể- Mĩ. Trong mỗi chúng ta, ai cũng biết với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, những lối sống mới những lối sống biến con người ta- đặc biệt là ngưỡng học sinh trung học phổ thông trở nên vô cảm, thiếu tình thương và lòng trung thực. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều giới trẻ năng động, thành đạt và giàu lòng nhân ái. Có được như vậy là họ đã có nhận thức đúng ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, nhận thức đó một phần rất lớn bởi sự tác động của các thầy cô giáo, đặc biệt là từ giáo viên chủ nhiệm. Theo tôi bản thân mỗi nhà giáo là một tâm hồn trong sáng, một tấm lòng tận tụy, một tình cảm nhân hậu, vị tha, một đức tính kiên nhẫn, bình tĩnh và một trí tuệ thông minh. Đạt được những điều trên không phải dễ nhưng muốn tạo ra trái ngọt thì trước hết phải có hạt mầm tốt. Trong một lớp học giáo viên chủ nhiệm là người chỉ đạo mọi hoạt động của lớp và cũng là người chịu trách nhiệm với những việc không.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> mong muốn mà học sinh mang lại. Làm công tác chủ nhiệm ai ai cũng mong trò chăm ngoan, nghe lời, lễ phép, lớp chủ nhiệm từ đó như một nơi tựa trong tâm hồn. Xin đưa ra một số suy nghĩ còn mang tính cá nhân để chúng ta cùng bàn luận về vấn đề: Làm thế nào để thực hiện có hiệu quả trong công tác chủ nhiệm? Thứ nhất về công tác tổ chức, ngay từ đầu năm cần chú trọng nắm được lí lịch học sinh như địa chỉ nhà, số điện thoại đặc biệt là hoàn cảnh gia đình từng học sinh để hiểu và từ đó có những cách tiếp cận với từng đối tượng. Bởi có nhiều học sinh yếu tố gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách, lời ăn tiếng nói và lối ứng xử của các em. Giáo viên chủ nhiệm cần lập một kế hoạch chủ nhiệm ngay từ đầu năm học có công việc cụ thể trong từng tuần từng tháng, cho học sinh đăng kí thi đua về hạnh kiểm, học tập, phương hướng tự phấn đấu để đạt được mục tiêu đã đề ra, luôn công khai mục tiêu và kết quả của các em trong các tiết sinh hoạt. Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp và hướng dẫn cụ thể công việc các em cần làm. Đội ngũ cán bộ lớp có thể là những trò gương mẫu, nhưng cũng có thể là những học sinh ý thức chưa được tốt để các em nhận thức được trách nhiệm của mình mà phấn đấu. Thứ hai về học tập, “học thầy không tày học bạn” dựa vào lực học của trò, phân công trưởng bộ môn, những trưởng này có trách nhiệm giúp đỡ các bạn trong lớp như giảng những bài khó, những phần các bạn chưa biết chưa hiểu hết. Tổ chức hướng dẫn các em cách đọc sách, soạn bài, làm bài với các đặc trưng riêng của từng môn học, tự học tự tìm hiểu và nghiên cứu tài liệu ở nhiều kênh thông tin để đánh thức sự năng động sáng tạo vốn có ở các em. Đến mỗi kì kiểm tra, yêu cầu các em tự làm đề cương và phân công cụ thể học sinh chịu trách nhiệm chính sự chính xác về kiến thức của từng môn học. Xây dựng đôi bạn cùng tiến, đôi bạn điểm 10, luôn động viên khích lệ các em trong học tập. Thường xuyên liên hệ phối hợp với giáo viên giảng dạy để nắm được tình học tập trong lớp. Thứ ba về rèn luyện đạo đức, tổ chức cho học sinh học nội quy của trường, của lớp, thực hiện an toàn giao thông. Hướng dẫn ý thức tự giác trong các buổi sinh hoạt đầu giờ 15 phút và các buổi sinh hoạt cuối tuần. Trong các buổi sinh hoạt, bên cạnh việc tổng kết những ưu khuyết điểm chính về học tập thì phải đánh giá đồng thời về nề nếp. Học sinh bàn luận tự tuyên dương và phê bình, học sinh từng tổ thống nhất đưa ra các biện pháp khắc phục những hạn chế. Giáo viên thường xuyên kiểm tra nề nếp.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> đầu giờ, giữa giờ các buổi học chính khóa và rèn kĩ năng về ý thức, về vệ sinh lớp học, trang phục… Về hoạt động văn hóa văn nghệ, thường xuyên tổ chức cho học sinh tham gia các trò chơi trí tuệ. Hướng dẫn cho các em giao lưu văn nghệ, thành lập đội văn nghệ xung kích của lớp, tham gia nhiệt tình có kết quả vào đội văn nghệ xung kích của đoàn trường. Về các biện pháp giáo dục khác: Giáo viên chủ nhiệm luôn khen chê thưởng phạt công khai, đúng mực, kịp thời, đề ra các quy định xử phạt nghiêm minh. Các quy định này đã được thông qua trước phụ huynh và học sinh trong lớp. Chủ động liên hệ với gia đình học sinh, phối hợp giáo dục với nhà trường, lập đội tự quản bí mật trong lớp để giải quyết tốt đối với các vấn đề nảy sinh. Theo học các lớp ứng xử tình huống sư phạm. Học hỏi các bạn đồng nghiệp các thầy cô có bề dày trong công tác chủ nhiệm để tích lũy vốn kinh nghiệm cho bản thân. Chúng ta đều biết rằng thực hiện những điều này không phải dễ nhưng cũng không quá khó. Không tự nhiên mà trong dân gian ta có câu “ Yêu trẻ trẻ đến nhà”, làm việc gì cũng vậy đặc biệt là công tác chủ nhiệm mục tiêu lớn nhất là giáo dục học sinh, tiên quyết chúng ta cần tôn trọng nhân cách, quan tâm yêu thương, nắm bắt những niềm vui, nỗi buồn những tâm tư của tuổi mới lớn, tuổi vị thành niên để chia sẻ, cảm thông và có những lời khuyên, những giải pháp tốt giúp các em trong học tập, rèn luyện đôi khi là trong cuộc sống. Trên đây là những trăn trở, những suy nghĩ còn mang tính chủ quan của cá nhân tôi, rất mong nhận được sự đóng góp xây dựng của các thầy cô giáo để bài tham luận được hoàn thiện hơn. Và việc giáo dục con trẻ không phải của riêng ai mà của tất cả mọi người, của chung toàn xã hội. Xin gửi lời chúc chân thành nhất tới các thầy cô giáo, chúc tất cả các thầy giáo cô giáo luôn mạnh khỏe luôn luôn thành công trong sự nghiệp trồng người..
<span class='text_page_counter'>(18)</span> THAM LUẬN SỬ DỤNG THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG Người viết: Phạm Văn Chiến – giáo viên môn Hóa học. I. Thực trạng: Những năm gần đây nền giáo dục nước ta đã có những bước chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và để đáp ứng nhu cầu và sự phát triển không ngừng của xã hội, đồng thời khắc phục những nhược điểm của nền giáo dục Việt Nam. Lối học của nền giáo dục truyền thống nước ta là thuyết minh hàng loạt các kiến thức qua sách giáo khoa, giáo án, bài giảng mà không có bất kì một thiết bị dạy- học nào hỗ trợ. Hoặc nếu có thì quá ít và thủ công, thô sơ. Và hệ quả là người học phải cố nhớ, lắng nghe và ghi chép toàn bộ kiến thức từ người dạy. Học sinh lĩnh hội và ghi nhớ kiến thức qua lý thuyết và qua lời giảng của người thầy, song thực tế để có thể có hiệu quả cao trong lĩnh hội và ghi nhớ là khá vất vả thậm chí nó chỉ mang tính chất lý thuyết không thực tế. Đổi mới phương pháp giảng dạy phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Thiết bị dạy học là tiền đề quan trọng của việc thực hiện phương pháp dạy học. Trong quá trình dạy học, thiết bị dạy học được xác định không chỉ là phương tiện để minh họa hoặc trực quan hóa của nội dung dạy học mà cũng chứa đựng cả nội dung dạy học, và đặc biệt có quan hệ khăng khít với phương pháp dạy học..
<span class='text_page_counter'>(19)</span> Sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học được coi là yếu tố quan trọng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy bậc THPT Trong thực tế những năm gần đây trường THPT Đồ Sơn đã được Sở GD và ĐT Hải Phòng đầu tư về cơ sở hạ tầng và trang bị các phương tiện dạy học như các bộ thí nghiệm, dụng cụ, hóa chất, tài liệu tham khảo cho tất cả các môn học đối với giáo viên và học sinh. Ngoài những nguồn đầu tư của Sở, nhà trường đã chủ động mua sắm thêm các phương tiện máy móc khác như máy tính, máy chiếu, các phần mềm giảng dạy, tài liệu... Qua thực tế công tác giảng dạy ở trường THPT Đồ Sơn, việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và sử dụng thiết bị dạy học bước đầu đã có sự thành công. Nhiều giáo viên đã sử dụng TBDH vào giảng dạy có chất lượng. Sử dụng thí nghiệm minh họa cho bài học mới và các tiết thực hành trong các môn Lý-Hóa-Sinh. Ứng dụng CNTT trong giảng dạy. CNTT là cụng cụ hỗ trợ đắc lực cho GV trong công tác soạn bài, giảng dạy bằng CNTT như trình chiếu power point, thi nghiệm ảo, hình ảnh, video…Sử dụng phần mềm soạn bài giảng điện tử, sử dụng giáo án điện tử và các thí nghiệm chứng minh là một phương pháp giảng dạy tích cực bởi khi đó học sinh có thể vừa nắm được lí thuyết vừa có thể quan sát hình ảnh để thấy rõ điều các em đang khám phá, đã giúp cho việc giảng dạy kiến thức mới khá thuận lợi, học sinh hiểu bài hơn, khả năng tư duy và phân tích, tự học của học sinh ngày càng được nâng cao. Song trong quá trình đổi mới phương pháp dạy- học và áp dụng biện pháp sử dụng thiết bị dạy học còn tồn tai nhiều vấn đề. Về phía nhà trường: Trường đã xây dựng được các phòng TNo bộ môn như Vật lý, Hóa học, sinh học. Song do hạn chế về cơ sở vật chất dẫn tới việc bảo quản thiết bị chưa được an toàn và cố định. Số lượng thiết bị được cấp phát do di chuyển và bảo quản không tốt đã dẫn tới hư hỏng nhiều. Khi thiết bị được cấp về là chuyển vào phòng không sắp xếp theo thứ tự, chưa chia thành khu vực để xác định. Khi giáo viên sử dụng là phải tìm rất tốn thời gian, có khi tìm cả ngày mới thấy thiết bị mình cần. Các thiết bị dạy học không.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> được bảo quản tốt dẫn tới tình trạng bị hỏng, giảm chất lượng. Điều đó đã khiến cho nhiều giáo viên chỉ ghi đăng kí sử dụng thiết bị dạy học trong sổ mà không sử dụng khi giảng dạy. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học và ứng dụng CNTT cũng còn gặp nhiều khó khăn, trường được trang bị màn hình máy chiếu tại một số phòng học nhưng chất lượng các máy không ổn định, dẫn đến nhiều giáo viên có chuẩn bị bài giảng điện tử nhưng không dùng được vẫn phải dạy chay. Đối với giáo viên: việc giảng dạy còn mang tính lý thuyết, một số giáo viên thiếu kinh nghiệm giảng dạy, việc sử dụng các thiết bị dạy- học chưa thực sự thành thạo, đôi khi giáo viện chưa thực sự tích cực sử dụng thiết bị, sử dụng chưa có hiệu quả các thiết bị dạy- học, quá lạm dụng và “ỷ lại” vào giáo án và bài giảng điện tử, cho rằng đó là biện pháp sử dụng thiết bị có hiệu quả nhất, nhưng kết quả thực tế không đạt được như giáo viên mong muốn, vì các em đã biến phương tiện dạy- học đó thành phương tiện để “nhìn chép” nên đem lại hiệu quả chưa cao. Đối với học sinh: Do số lượng học sinh đông vì vậy số lượng phương tiện học tập không đáp ứng đầy đủ trong học tập, Các em chưa thực sự sáng tạo và tư duy, tự giác trong quá trình học tập vì vậy việc sử dụng phương tiện học tập cũng chưa được cao. II. Biện pháp Để sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy- học trường THPT Đồ Sơn tôi xin đề xuất một số ý kiến sau: Nhà trường: - Tăng cường công tác tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc xây dựng, bảo quản và sử dụng thiết bị dạy học. - Cố định các phòng bộ môn và có xắp xếp một cách khoa học. - Quản lý về mặt hành chính thiết bị dạy học chặt chẽ, hợp lý và khoa học. động viên mọi thành viên của tập thể sư phạm tham gia xây dựng, quản lý, sử dụng thiết bị dạy học. - Cán bộ phụ trách phòng thí nghiệm và thư viện cần phải sắp xếp các loại thiết bị dạy học, tranh ảnh, bản đồ theo khối, theo môn..
<span class='text_page_counter'>(21)</span> - Sau mỗi năm học phải có kế hoạch kiểm kê toàn bộ số thiết bị dạy học hiện có, đánh giá chất lượng của các thiết bị dạy học để có phương án bổ sung, thay thế cho các năm học tiếp theo. - Hàng năm nhà trường nên tổ chức thi làm đồ dùng dạy học mới và sử dụng thiết bị dạy học cho giáo viên nhằm khích lệ giáo viên sử dụng tích cực đồ dùng dạy học trong giảng dạy. Giáo viên: - Giáo viên phải lên kế hoạch sử dụng thiết bị dạy học chi tiết ngay từ đầu năm học - Giáo viên dạy phải biết sử dụng thiết bị dạy học, phải ghi rõ tên thiết bị dạy học vào giáo án ở phần chuẩn bị. - GV cần tích cực sử dụng có hiệu quả các phương tiện dạy- học thông qua việc tìm tòi tham khảo và tự làm thêm các phương tiện dạy- học mới. Hướng dẫn học sinh sử dụng thành thạo các phương tiện dạy- học. Để sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học giáo viên phải trang bị cho mình một lượng kiến thức cơ bản để đáp ứng nhu cầu của HS. Cần thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực, lý thuyết phải đi đôi với thực hành. - Biết ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm khai thác kiến thức cơ bản vừa phát huy tính tư duy nhưng tránh tình trạng chiếu chép thay đọc chép. Tóm lại để sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy- học ở trường THPT và đối với giáo viên bộ môn thì phải có sự thay đổi về nhiều mặt như: cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy, phương pháp giảng dạy và phương pháp học của học sinh, đồng thời cần có sự cổ vũ ủng hộ, tạo điều kiện của nhà trường và Ban giám hiệu. Trên đây là tham luận của tôi về việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học và đổi mới phương pháp dạy học. Xin ý kiến đóng góp của hội của để bản tham luận của tôi được hoàn chỉnh hơn..
<span class='text_page_counter'>(22)</span> THAM LUẬN VỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG HỖ TRỢ DẠY HỌC Người viết: Trần Thị Thu Hiền – giáo viên môn Lịch Sử. Kính thưa các quý vị đại biểu, kính thưa Hội thảo… Ngày nay, khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập". Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”. Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà bất cứ một môn học nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong bản tham luận này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình thông qua tiết dạy tôi đã thử nghiệm trong 5 năm học vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt nhất cho việc ứng dụng CNTT. Khảo sát hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của phương pháp multêmedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm power point, giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn..
<span class='text_page_counter'>(23)</span> Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một GAĐT tốt, từng cá nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực hiện dạy bằng CNTT. Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu cầu. Tức là chỉ có thao giảng mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Đối với trường THPT Đồ Sơn những năm học trước việc ứng dụng CNTT chưa được phổ biến vì nhà trường chỉ có từ 2- 3 máy projecter, nên việc GV được dạy GAĐT rất hạn chế nhưng từ năm học 2011-2012 đến nay được sự hỗ trợ kinh phí của Hội cha mẹ học sinh nhà trường đã trang bị được cho mỗi phòng họp một màn hình ti vi đã tạo điều kiện cho các thầy, cô giáo giảng dạy ở tất cả bộ môn được chủ động trong việc sử dụng CNTT để hỗ trợ cho giảng dạy tại lớp của mình. Bài giảng điện tử đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng giáo án điện tử sẽ giúp người thầy đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra, muốn click chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ công tìm hiểu, làm quen với cách giảng bài mới này. Cụ thể, người GV cần phải: - Có một ít kiến thức về sử dụng máy tính. - Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint. - Biết cách truy cập Internet tìm kiếm tài liệu... - Có khả năng sử dụng một phần mềm chỉnh sửa ảnh, làm các ảnh động, cắt các file âm thanh, cài phim… - Biết cách sử dụng projector. Đối với tất cả các môn học trong trường phổ thông đều có thể ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Đặc biệt đối với các môn học xã hội như lịch sử, địa lý, công nghệ, sinh, GDCD thì hiệu ứng đối với học sinh sẽ nhiều hơn vì đây là những môn học có nhiều tranh ảnh. Còn đối với những môn học tự nhiên như Lí, Hóa thì có thể sử dụng để chiếu phim thực hiện thí nghiệm để không làm mất nhiều thời gian giảng bài. Hoặc trong giờ học ngoại ngữ, giáo viên có thể lấy các hình ảnh minh họa và cho các.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> em nghe các bài đọc của người bản xứ . Có như thế bài giảng sẽ sinh động hẳn, các em lại nhớ được các từ vựng và phát âm chuẩn hơn. Có thể đây là thao tác tương đôí phức tạp nhưng nó mang lại tính hiệu quả cao trong công tác giảng dạy. Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ các GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh sẽ tập trung nghe giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, cần phải có quan niệm các phương tiện kỹ thuật được đề cập trên là các phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể thay thế vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp. Chúng ta cần nhớ một điều: Slide là nơi chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng. Tuỳ theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh hoạ một cách hợp lý. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muốn trình bày dưới dạng" chìa khóa" một cách rõ ràng và dễ hiểu. Một số trường đã thực hiện việc ứng dụng CNTT nhưng chỉ mang tính hình thức và dừng lại ở các tiết học thao giảng. Phải chăng có nhiều rào cản trong việc áp dụng phương pháp mới này? Đó là do cơ sở vật chất hay do sự ngại ngùng của một số giáo viên khi làm quen với các kỹ thuật tin học để phục vụ cho môi trường giảng dạy mới? Đối với trường THPT Đồ Sơn trở ngại thứ nhất chúng tôi nghĩ có thể giải quyết được vì hiện nay nhà trường đã trang bị đầy đủ màn hình cho các phòng học, còn vấn đề thứ hai cũng hoàn toàn có thể khắc phục được nếu các đồng chí giáo viên tâm huyết, có những chuyển biến về nhận thức. Với đội ngũ giáo viên tin học hiện có trong nhà trường, chỉ cần tổ chức một số buổi Seminar về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng trong PowerPoint cho toàn thể các giáo viên các bộ môn khác để họ có thể tự mình thiết kế cho mình một GAĐT riêng cho mình. Ngoài ra, các thầy cô giáo trong cùng tổ chuyên môn nên có các buổi thao giảng để thu nhận những góp ý chân thành từ những người khác, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp mới. Chúng tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm một ít bồi dưỡng về kiến thức tin học, các giáo viên hoàn toàn có thể thiết kế được bài giảng thiết kế điện tử để thể hiện tốt hơn phương pháp sư phạm, góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy. Hi vọng trong thời gian tới, việc ứng dụng CNTT để hỗ trợ.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> phương pháp dạy học tại trường THPT Đồ Sơn sẽ được phổ biến, đạt hiệu quả cao hơn. Do thời gian và năng lực có hạn nên những vấn đề đưa ra chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót. Tôi rất mong lĩnh hội được những ý kiến đóng góp của các đồng chí trong hội thảo. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Đồ Sơn, ngày 19 tháng 03 năm 2013.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> THAM LUẬN CÔNG TÁC LUYỆN THI CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC MÔN TIẾNG ANH Người viết: Trần Thị Thảo- giáo viên môn Ngoại Ngữ. Chất lượng giáo dục luôn luôn là điều trăn trở đối với các nhà quản lý giáo dục nói chung cũng như đối với người giáo viên nói riêng. Chất lượng giáo dục ở trường THPT được đánh giá qua kết quả thi đỗ tốt nghiệp THPT và đặc biệt là kết quả thi tuyển sinh vào các trường đại học và cao đẳng trong cả nước. Do đó việc nâng cao công tác ôn thi cao đẳng đại học là một việc làm cần thiết và luôn được Ban giám hiệu nhà trường đặt lên hàng đầu. Là một giáo viên trẻ tâm huyết với nghề, qua quá trình học tập, giảng dạy và đúc rút kinh nghiệm, tôi mạnh dạn chỉ ra thực trạng và đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi đại học cao đẳng môn Tiếng Anh như sau : I/ THỰC TRẠNG 1. Thuận lợi: - Được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát và kịp thời của BGH, có những kế hoạch cụ thể, lâu dài trong công tác ôn thi đại học,cao đẳng. - Trường có cơ sở vật chất khá khang trang, trang thiết bị phục vụ tương đối đầy đủ giúp cho việc dạy và học đạt kết quả tốt. - Giáo viên say mê, nhiệt tình có kinh nghiệm giảng dạy và chuyên môn vững vàng. 2. Khó khăn: - Tinh thần say mê học tập của học sinh chưa cao, nhiều em chỉ cần học song chương trình lớp 12 và không có nguyện vọng thi vào các trường đại học hoặc cao đẳng. - Năng lực về môn Tiếng Anh của các em còn yếu. Các em học khá giỏi chỉ rơi vào lớp chọn đầu và tập trung thi khối A là chính vì đây là khối thi có nhiều sự lựa chọn về trường cho học sinh. Do vậy số lượng học sinh tham dự thi khối D và A1 là không nhiều và trình độ Tiếng Anh không cao..
<span class='text_page_counter'>(27)</span> - Nhiều học sinh không xác định khối thi ngay từ đầu nên chưa chú trọng vào môn Tiếng Anh, do vậy chất lượng đạt được chưa cao. - Nhiều phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến vấn đề học hành và tương lai của con em mình. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CÔNG TÁC ÔN THI CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC 1/ Đối với giáo viên ôn thi : Qua một thời gian tham gia công tác ôn thi đại học, cao đẳng, tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng trong công tác này cần thực hiện tốt những công việc sau đây: - Muốn có học sinh giỏi phải có thầy cô giáo giỏi vì thế người thầy phải luôn luôn có ý thức tự rèn luyện, tích lũy tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng đáng là “người dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi theo. Phải thường xuyên tìm tòi các tư liệu, có kiến thức nâng cao trên các phương tiện, đặc biệt là trên mạng internet. Lựa chọn trang Web nào hữu ích nhất, tiện dụng nhất, tác giả nào hay có các chuyên đề hay, khả quan nhất để sưu tầm tài liệu… - Giáo viên phải tiến hành chương trình ôn thi ngay từ năm lớp 10, cung cấp cho các em kiến thức nền tảng và tạo cho các em niềm say mê hứng thú với môn Tiếng Anh để làm nguồn lực cho những năm học tiếp theo. - Giáo viên phải lập kế hoạch giảng dạy cụ thể, biên soạn chương trình phù hợp với đối tượng học sinh kết hợp kiến thức cơ bản và nâng cao. Với cá nhân tôi, dạy theo chuyên đề là biện pháp hiệu quả nhất. Dạy đến đâu tôi cho học sinh làm luôn đề thi đại học có liên quan đến phần kiến thức đã học tới đó. Như vậy các em sẽ nắm vững kiến thức và làm quen dần với cấu trúc và kiểu bài trong đề thi đại học. - Phần kiến thức lý thuyết tôi tập trung dạy ở hai năm đầu lớp 10 và lớp 11. Đến năm lớp 12, học sinh tập trung vào làm đề ôn thi đại học và ôn tập kiến thức lần hai. Các em thường xuyên được làm một đề thi đại học hoàn chỉnh, được tham gia các kì thi thử đại học tổ chức tại trường để đánh giá khả năng của mình. Dựa vào kết quả đạt được, các em có thể chọn trường thi phù hợp với năng lực của mình. * Về chương trình giảng dạy và tài liệu tham khảo.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> - Giáo viên phải tự biên soạn chương trình, nội dung giảng dạy rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho từng khối, lớp về từng mảng kiến thức rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ nhất thiết phải bồi dưỡng theo quy trình từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để các em học sinh bắt nhịp dần. - Giáo viên hướng dẫn học sinh làm các đề thi đại học, cao đẳng của Bộ giáo dục và đào tạo, đồng thời sưu tầm các đề thi thử trong thành phố và các tỉnh khác thông qua công nghệ thông tin nhằm giúp các em tiếp xúc làm quen với các dạng đề và nội dung kiến thức. - Giáo viên hướng dẫn học sinh các tài liệu, sách vở, băng đĩa phù hợp với trình độ của các em để tự rèn luyện thêm ở nhà. Đồng thời cung cấp hoặc giới thiệu các địa chỉ trên mạng để học sinh có thể tự học, tự nghiên cứu, bổ sung kiến thức. * Về thời gian ôn thi: - Để việc ôn thi đại học có hiệu quả, Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiêm và giáo viên ôn thi cần có kế hoạch ôn thi ngay từ đầu năm lớp10 để rà soát và củng cố kiến thức cho các em. Môn Tiếng Anh đòi hỏi học sinh phải học tập liên tục, đều đặn tránh dồn ép nhiều từ vựng và kiến thức một lúc. 2/ Đối với học sinh: - Phải nhận thức đúng về tầm quan trọng của học tập. - Phải yêu thích môn học, say mê trong học tập và ham học hỏi. - Phải cần cù tích luỹ và chăm chỉ rèn luyện, ngoài đọc sách giáo khoa, học sinh cần đọc thêm sách tham khảo và tài liệu khác. 3/ Đối với phụ huynh : - Quan tâm tạo điều kiện, động viên tích cực con em học tập tốt hơn. - Trang bị đầy đủ dụng cụ học tập. - Thường xuyên liên lạc với giáo viên, nhà trường để nắm tình hình học tập của con mình. Tôi nghĩ rằng Người thầy giáo có vai trò quan trọng đối với kết quả thi đại học, các em học sinh có vai trò quyết định trực tiếp đối với kết quả của.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> mình. Kết quả ôn thi đại học, cao đẳng cao hay thấp còn phụ thuộc rất nhiều ở các em học học sinh. III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ: - Để hỗ trợ cho công tác ôn thi đại học, cao đẳng có hiệu quả, Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm cần phân tích, định hướng khối thi phù hợp với mong muốn và năng lực của các em, giúp các em nhận ra rằng đây là một nhiệm vụ lâu dài và cần thiết. Nhà trường cũng cần quan tâm đặc biệt có chế độ ưu tiên khuyến khích đối với học sinh đạt điểm cao trong các kì thi đại học; tuyên dương khen thưởng kịp thời đối với các giáo viên và học sinh đạt thành tích và phải xem đây là một nhiệm vụ chiến lược cần đầu tư lâu dài. - Trên đây là thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp về công tác ôn thi đại học, cao đảng của bản thân tôi. Là một giáo viên trẻ, thành tích và kinh nghiệm chưa nhiều nên bản tham luận không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp của quý thầy cô! Tôi xin chân thành cảm ơn!. THAM LUẬN VỀ CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> Người viết: Nguyễn Thị Ngoãn – giáo viên môn Giáo dục công dân. Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, kính thưa các quý vị đại biểu, kính thưa toàn thể các đồng chí trong Chi đoàn giáo viên! Lời đầu tiên, cho phép tôi xin được gửi lời chào, lời chúc sức khỏe tới các đồng chí lãnh đạo, các quý vị đại biểu cùng toàn thể Hội thảo. Chúc Hội thảo thành công rực rỡ! Thưa Hội thảo! Hoạt động chuyên môn là một hoạt động vô cùng quan trọng trong nhà trường, trong đó, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi luôn luôn được Ban giám hiệu cùng các đồng chí trong toàn trường chú trọng. Bản thân tôi là một giáo viên tuổi nghề còn trẻtôi tham gia công tác giảng dạy mới được gần 4 năm. Dù vậy, bằng sự nỗ lực vươn lên của bản thân, đồng thời được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường; sự quan tâm, động viên của tổ, nhóm chuyên môn cùng sự chia sẻ, giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí trong Chi đoàn giáo viên và của đồng nghiệp trong trường, tôi đã đạt một số thành công nhất định. Trong các năm học: 2011- 2012, 2012- 2013, tôi rất vui mừng vì trong cả hai năm liền tôi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi và đều có học sinh đạt giải. Sau đây, tôi xin được chia sẻ cùng Hội thảo những kinh nghiệm của mình trong quá trình bồi dưỡng . Một là, khi mới bắt tay vào công việc, tôi tìm hiểu kinh nghiệm của đồng nghiệp trong và ngoài trường để định hướng tốt hơn trong quá trình ôn luyện. Hai là, tôi xác định vấn đề trong chương trình học của cả ba khối lớp, các vấn đề theo chủ đề năm học, các vấn đề được lồng ghép trong chương trình giáo dục trong nhà trường như: giáo dục kĩ năng sống, an toàn giao thông, tệ nạn xã hội và các vấn đề xã hội đang nóng bỏng được toàn xã hội quan tâm. Sau đó tôi lập kế hoạch và soạn giáo án chi tiết. Để làm được điều này, trên cơ sở các kiến thức, tư liệu đã có do sự chuẩn bị công phu, cẩn thận cho các bài giảng đại trà trên lớp, tôi sưu tầm thêm các tài liệu, thông tin liên quan, trong đó bao gồm cả các đề thi học sinh giỏi của các năm trước để tổng hợp vấn đề..
<span class='text_page_counter'>(31)</span> Ba là, trong quá trình ôn luyện, tôi cũng tiến hành đầy đủ các bước như một tiết dạy bình thường nhưng đi sâu và mở rộng kiến thức hơn. Tôi cũng đặc biệt chú trọng tới khâu ra đề, chấm, trả bài kiểm tra để có thể nắm bắt được tình hình học tập của các em, đồng thời hướng dẫn các em cách làm bài khoa học; từ đó có hướng điều chỉnh thích hợp, kịp thời ở cả cô và trò. Bốn là, tôi thực hiện công tác tư tưởng với học sinh ôn luyện của mình. Sở dĩ như vậy vì bộ môn GDCD nói riêng là môn không thi tốt nghiệp, chuyên nghiệp; trong khi các em lại chú tâm đến các môn thi đó nên tâm lí các em ngại giành thời gian cho bộ môn này, thậm chí có em bị gia đình ngăn cấm, không cho tham gia ôn thi. Vì thế, một mặt, tôi cân nhắc lựa chọn học sinh vào đội tuyển; mặt khác, tôi động viên, khích lệ các em để các em yên tâm ôn luyện một cách hiệu quả. Năm là, trong phương pháp ôn thi, tôi còn sử dụng phương pháp quản lí học sinh bằng cách cử ra một nhóm trưởng giống như lớp trưởng của một lớp học. Đồng thời kết hợp với giáo viên chủ nhiệm của các em để các đồng chí động viên, tạo điều kiện cho các em trong quá trình ôn luyện. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả tốt hơn, tôi xin đưa ra một số đề xuất sau: 1, Bộ môn được trang bị tài liệu đầy đủ hơn. 2, Giáo viên chủ nhiệm lớp phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn. 3, Nhà trường có hình thức động viên, khen thưởng kịp thời đối với các em tham gia ôn thi. Vừa rồi là báo cáo tham luận của tôi. Bản tham luận không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Hội thảo để bản tham luận được hoàn thiện hơn. Cuối cùng, một lần nữa, tôi xin kính chúc sức khỏe các quý vị đại biểu. Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp! Tôi xin trân trọng cảm ơn!. THAM LUẬN VỀ ĐỔI MỚI CÁCH BIÊN SOẠN ĐỀ KIỂM TRA Người viết: Nguyễn Thu Hồng – giáo viên môn Vật lí.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> Như chúng ta đã biết, đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đổi mới kiểm tra đánh giá là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo.Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu của quá trình dạy học. Chính vì thế, Bộ giáo dục đào tạo đã chủ trương đổi mới nội dung, phương pháp dạy học “phải gắn liền với việc đổi mới kiểm tra đánh giá”. Xem kiểm tra đánh giá là đòn bẩy thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học. I. Khó khăn gặp phải trong công tác ra đề. Trước tiên tôi xin trình bày một số khó khăn vướng mắc mà bản thân tôi và đồng nghiệp gặp phải trong công tác ra đề kiểm tra: 1. Đôi khi giáo viên còn nhầm lẫn giữa ba mức độ tư duy (nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cấp độ thấp với vận dụng cấp độ cao) 2. Giáo viên còn gặp rất nhiều lúng túng trong khâu biên soạn ĐKT do kĩ năng ra đề và xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm chưa thành thạo. 3. Trong quá trình ra đề, việc tham khảo sách chuyên môn, tài liệu trên mạng Internet còn gặp nhiều khó khăn do chất lượng tài liệu chưa tốt. II. Biện pháp tháo gỡ Xuất phát từ những khó khăn đó, qua thực tế giảng dạy tôi đã học hỏi và tìm hiểu được một số kinh nghiệm trong cách biên soạn đề kiểm tra . 1. Trước hết , chúng ta cần nắm rõ các yêu cầu của một đề kiểm tra đó là: + Nội dung bao quát chương trình đã học. + Bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ ở các mức độ đã được quy định trong chương trình môn học, cấp học. + Đảm bảo tính chính xác, khoa học. + Phù hợp với thời gian kiểm tra. + Góp phần đánh giá khách quan trình độ học sinh. 2.Cần nắm được các tiêu chí của một đề kiểm tra + Nội dung không nằm ngoài chương trình. + Nội dung rải ra trong chương trình học. + Có nhiều câu hỏi trong một đề: đề tự luận không ít hơn 10 câu đối với đề kiểm tra 90 phút, không ít hơn 5 câu đối với đề kiểm tra 40- 45 phút..
<span class='text_page_counter'>(33)</span> Đề trắc nghiệm : không ít hơn 25 câu đối với đề 45 phút. + Tỉ lệ điểm dành cho các mức độ nhận thức so với tổng số điểm vào khoảng như sau: Cấp THPT và THCS : nhận biết 20%; thông hiểu 30%; vận dụng 50%. + Nội dung diễn đạt rõ, đơn nghĩa, nêu đúng và đủ yêu cầu của đề. + Mỗi câu hỏi phải phù hợp với thời gian dự kiến trả lời và với số điểm dành cho nó. 3. Nắm chắc quy trình ra đề kiểm tra học kỳ - Họp nhóm chuyên môn thông qua bố cục chung, giới hạn và các kiến thức trọng tâm +. của Xác. định. hình. thức,. nội. đề. dung. và. mức. độ. kiểm. tra. Trước khi ra đề kiểm tra, cần đối chiếu với các mục tiêu dạy học để xác định hình thức, nội dung và mức độ kiểm tra, nhằm đánh giá đúng trình độ học sinh, đồng thời thu được các thông tin phản hồi, điều chỉnh quá trình dạy học. + Thiết lập ma trận hai chiều - Lập một bảng có 2 chiều: một chiều là nội dung, một chiều là các mức độ nhận thức cần kiểm tra. - Viết các chuẩn cần kiểm tra ứng với mỗi mức độ nhận thức, mỗi nội dung tương ứng trong từng ô của ma trận. - Xây dựng trọng số điểm cho từng nội dung kiến thức và từng mức độ nhận thức cần kiểm tra.Quyết định trọng số điểm cho từng mạch nội dung căn cứ vào tổng số tiết quy định trong phân phối chương trình và mức độ quan trọng của mạch đó. - Quyết định trọng số điểm cho từng mức độ nhận thức để đảm bảo cho phân phối điểm có dạng tương đối chuẩn. - Xác định số lượng, hình thức cho các câu hỏi trong mỗi cột của ma trận - Quyết định thời gian, trọng số điểm tương ứng cho từng phần. - Quyết định trọng số điểm, số lượng câu hỏi cho từng ô của ma trận. Nhìn chung càng nhiều câu hỏi ở mỗi mạch nội dung, mỗi mức độ nhận thức thì kết quả đánh giá càng có độ tin cậy càng cao; hình thức cõu hỏi càng đa dạng càng tốt bởi sẽ tạo niềm hứng thú, tập trung chỳ ý, tránh nhàm chán đối với học sinh..
<span class='text_page_counter'>(34)</span> +Thiết kế câu hỏi theo ma trận Căn cứ vào ma trận và mục tiêu đã xác định ở các bước trên, giáo viên thiết kế nội dung, hình thức, lĩnh vực kiến thức và mức độ nhận thức cần đo qua từng câu hỏi và toàn bộ câu hỏi. Mỗi câu hỏi phải được biên soạn sao cho đánh giá được chính xác mức độ đáp ứng chuẩn kiến thức, kĩ năng tối thiểu được quy định trong chương trình môn học. + Xây dựng đáp án và biểu điểm Việc xây dựng đáp án và biểu điểm đối với đề tự luận được thực hiện như cũ; đối với đề trắc nghiệm được quy đổi về điểm 10 (theo quan hệ tỉ lệ thuận). - Gửi đề kiểm tra cho đồng chí trưởng nhóm tham khảo ý kiến về chuyên môn và thẩm định đề. - Gửi đề về phòng chuyên môn III. Kiến nghị, đề xuất Để thực hiện tốt các bước như vậy - Giáo viên cần giành nhiều thời gian để suy nghĩ, tìm tòi, cân nhắc, quyết định ra ĐKT bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng, phù hợp với mọi đối tượng học sinh. - GV cần đơn giản hoá khung ma trận ĐKT. - Ra đề kiểm tra theo hướng mở hoặc dưới dạng phận tích, tổng hợp và phải coi trọng việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh. - Về hình thức ĐKT cần cố gắng kết hợp giữa hai hình thức TNKQ và tự luận. Đối với TNKQ giáo viên nên tập trung vào một số chủ đề nhất định. Cần bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng với mỗi đơn vị bài học để định nội dung kiểm tra. - Trong sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn giáo viên cần tích cực trao đổi những khó khăn vướng mắc khi biên soạn ĐKT. - Cần chú trọng phụ đạo tại chỗ cho đối tượng học sinh yếu, kém. Trên đây là những ý kiến tham luận của tôi . Để bản tham luận được hoàn thiện hơn rất mong những ý kiến đóng góp của các đồng chí. Tôi xin chân thành cảm ơn. Đồ Sơn , ngày 18 tháng 3 năm 2012.
<span class='text_page_counter'>(35)</span> THAM LUẬN : “ ỨNG XỬ TÌNH HUỐNG SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG THPT ” Người viết: Nguyễn Thị Thu Dung –giáo viên môn Ngữ Văn. - Kính thưa các đồng chí trong BGH trường THPT Đồ Sơn. - Kính thưa các quý vị đại biểu đại diện các tổ chuyên môn cùng toàn thể các thầy cô giáo thân mến..
<span class='text_page_counter'>(36)</span> Được sự phân công của CĐGV trường THPT Đồ Sơn, tôi rất vinh dự được đại diện cho các đồng chí trong chi đoàn báo cáo tham luận về : “Ứng xử tình huống sư phạm của giáo viên ở trường THPT”. Trước hết tôi xin thay mặt toàn thể các đồng chí trong CĐ trường THPT Đồ Sơn kính chúc quý đại biểu lời chúc sức khỏe, thành đạt trong cuộc sống. - Kính thưa các cấp lãnh đạo. - Kính thưa quý đại biểu, cùng tất cả các thầy cô giáo. Trong môi trường giảng dạy phổ thông, quá trình nâng cao năng lực sư phạm của giáo viên, việc đi sâu tìm hiểu hệ thống tri thức và kĩ năng giao tiếp sư phạm vô cùng cần thiết. Với hoạt động giảng dạy người giáo viên không chỉ truyền thụ cho học sinh hệ thống tri thức của nhân loại mà còn là những chuẩn mực đạo đức giúp các em hoàn thiện nhân cách của mình. Trong môi trường giáo dục nhiều đồng nghiệp có suy nghĩ bản thân chỉ cần giỏi kiến thức chuyên môn là có thể cung cấp kiến thức cho học sinh là đủ. Song tôi nhận thấy đối tượng học sinh ở trường chúng ta rất đa dạng do tác động của môi trường địa phương có những em đã đi làm thêm phụ giúp gia đình, có những em là con cưng được cha mẹ nuông chiều, cũng có những em bị cha mẹ “bỏ rơi”,… tầm hiểu biết xã hội khá phong phú, trình độ nhận thức cũng như va chạm xã hội không đồng đều. Vì vậy để nâng cao hiệu công tác giảng dạy thì việc xử lý các tình huống sư phạm trong quá trình giảng dạy và chủ nhiệm là một khâu hết sức quan trọng. Cách ứng xử thông minh hợp tình, hợp lý của các thầy cô giáo trong những tình huống sư phạm cụ thể sẽ có vai trò rất lớn làm nên thành công trong công tác giáo dục của người giáo viên. Trên thực tế, các tình huống sư phạm xảy ra hết sức đa dạng, muôn hình muôn vẻ, đòi hỏi người giáo viên phải có được khả năng linh hoạt, khéo léo và những hiểu biết sâu sắc về tâm sinh lý của tuổi học sinh. Đó thực sự là một vấn đề không hề đơn giản vì không hiếm tình huống phức tạp, tế nhị liên quan đến mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh, giáo viên và phụ huynh khiến các thầy cô giáo không khỏi lúng túng trong cách xử lý. Đôi khi thiếu một chút tế nhị và chưa thấu hiểu đặc điểm tâm lý học sinh mà có giáo viên đã mắc phải những sai lầm đáng tiếc..
<span class='text_page_counter'>(37)</span> Là một giáo viên trẻ, vừa giảng dạy bộ môn ngữ văn vừa được giao chủ nhiệm một lớp có khá nhiếu cá tính nổi bật tôi có không ít những niềm vui cô trò nhưng cũng gặp không ít những khó khăn trong vấn đề ứng xử tình huống sư phạm. Tuy nhiên, tôi không ngừng chia sẻ và học tập kinh nghiệm của những bậc thầy, bậc cô đi trước, do đó tôi cũng đạt được những thành công nhất định trong việc ứng xử một số tình huống. Đối với lớp chủ nhiệm, mọi người thường cho rằng chủ nhiệm rất cực và hầu như không ai muốn vì các em có thái độ rất ngỗ ngáo, vô lễ. Nếu giáo viên vì lòng tự ái cao hoặc “sĩ diện” mà quát nạt hoặc la mắng lại các em thì tôi tin chắc rằng sẽ bị phản tác dụng vì ở độ tuổi các em đang có bước chuyển tâm sinh lí từ trẻ con sang người lớn. Chỉ cần thật lòng quan tâm các em, đứng trên lập trường của các em và suy nghĩ cho các em, đồng thời chỉ bảo cho các em những điều các em chưa biết hoặc làm sai. Điều đó không đồng nghĩa với việc sẽ a dua theo các em, mềm dẻo nhưng cương quyết mà uốn nắn các em. Tôi biết là nếu muốn làm được như vậy thì cần phải có thời gian, và tôi nghĩ đây mới đúng là trách nhiệm của mỗi giáo viên phải làm. Có như vậy thì mỗi giáo viên trong chúng ta sẽ là tấm gương sáng cho học sinh và sẽ “trồng” được nhiều cây thêm xanh tốt cũng như thu được nhiều trái ngon cho xã hội. Về phía giảng dạy tôi xin nêu một số cách ứng xử của riêng cá nhân tôi trong một số tình huống cụ thể Tình huống thứ nhất: Là một giáo viên đang giảng dạy, gặp một số học sinh có vốn kiến thức khá tốt thắc mắc với giáo viên một số kiến thức liên quan đến bài dạy sai hoặc chưa phù hợp với thực tế . Đồng chí sẽ xử lý như thế nào? Một số cách xử lí chính - Lắng nghe và xem xét kỹ lưỡng ý kiến của học sinh; Kiểm tra lại kiến thức đã dạy của mình, xảy ra 2 trường hợp: + Một là, thắc mắc của học sinh chưa hợp lý vì chưa hiểu kĩ bài học giáo viên cần khẳng định kiến thức của mình đưa ra là đúng phù hợp với logic bài học..
<span class='text_page_counter'>(38)</span> + Hai là, thắc mắc của học sinh là hợp lý. GV cần khen ngợi học sinh có tinh thần học tập và nói với học sinh cô sẽ nghiên cứu và trả lời sau, để kịp thời cho bài giảng. - Bản thân cũng cần tăng cường tiếp cận thực tế và tham khảo nhiều tài liệu phong phú để trang bị thêm kiến thức và kịp thời điều chỉnh cho bản thân - Các buổi học tiếp theo tôi thường xuyên liên hệ giữa kiến thức lý thuyết với thực tế và khích lệ các em đó trao đổi thêm để cả lớp cùng học tập Tình huống thứ hai: Đồng chí được phân công giảng dạy một môn, mà trước đó là giáo viên khác giảng dạy. Nhưng sau một thời gian, giáo viên chủ nhiệm trao đổi với đồng chí việc học sinh đề nghị đổi giáo viên giảng dạy môn của mình. Lý do các em đưa ra là đồng chí dạy khó hiểu. Đồng chí sẽ xử lý như thế nào? Một số cách ứng xử: - Trao đổi với giáo viên chủ nhiệm và với riêng một số học sinh ngoài giờ để tìm hiểu rõ nguyên nhân từ đâu; Bản thân cũng nghiêm túc nhìn nhận lại kiến thức và phương pháp của mình - Có thể các em đã quen cách giảng của thây cô trước đó; tôi sẽ học hỏi đồng nghiệp đã dạy trước đó để điều chỉnh - Tìm hiểu tâm lý học sinh để cải tiến phương pháp giảng dạy cho phù hợp - Hướng dẫn các em phương pháp học tập để giúp các em dần làm quen với phương pháp mới. - Không trù dập học sinh. Tình huống thứ ba: Đồng chí nhận thấy cứ đến giờ mình có hiện tượng học sinh nghỉ học nhiều (giờ học khác cũng có em nghỉ nhưng số lượng ít hơn). Quan điểm và cách xử lý của đồng chí? Cách ứng xử.
<span class='text_page_counter'>(39)</span> Có thể do một số nguyên nhân: Thứ nhất, học sinh chưa tích cực làm bài và chuẩn bị nội dung cho tiết học đó: - Gặp giáo viên chủ nhiệm, ban cán sự lớp phối kết hợp nhắc nhở các em; - Giáo dục ý thức học tập của học sinh; - Giáo dục nhận thức về mục tiêu, tầm quan trọng của nội dung loại hình bài giảng này. Thứ hai, học sinh nghỉ giờ do tiết giảng của mình chưa hiệu quả: (mức độ hấp dẫn học sinh, mức độ hữu ích; phương pháp tổ chức thảo luận, làm bài tập hay áp lực quá lớn đối với các em) - Trao đổi kinh nghiệm các đồng nghiệp, điều chỉnh nội dung, cập nhật kiến thức mới, điều chỉnh phương pháp cách tổ chức giờ học cho phù hợp - Nhắc lại cho học sinh quy chế về điều kiện dự thi, gắn điều kiện, quyền lợi nhiệm vụ và sự cần thiết cho công việc sau này của các em; Tình huống thứ tư: Giờ giảng của đồng chí thường xuyên có một học sinh không chịu học bài, đôi khi nghỉ học không lý do, khi đồng chí yêu cầu học sinh lên kiểm tra bài, giải thích lý do, nhưng em học sinh đó thường xuyên chỉ im lặng không trả lời, cũng không giải thích. Đồng chí sẽ xử lý như thế nào? Ở tình huống này GV cần tìm hiểu thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn khác, ban cán sự lớp các bạn thân của học sinh đó để hiểu tâm tư nguyện vọng hay những diễn biến tư tưởng, thói quen hay hoàn cảnh gia đình của học sinh đó. - Nếu do hoàn cảnh gia đình của em học sinh đó khó khăn em phải thường xuyên nghỉ học nên kết hợp với GVCN ban cán sự lớp gặp riêng động viên em phân tích cho em hiểu “kiến thức bây giờ giúp em việc làm sau này”, trao đổi với gia đình tạo điều kiện cho em theo học. Có thể động viên các bạn trong lớp giúp bạn (nếu có thể).
<span class='text_page_counter'>(40)</span> - Nếu em học sinh đó không chăm học, không chịu cố gắng, tôi gặp riêng em tâm sự, phân tích động viên để em nâng cao ý thức học tập - Nếu do đặc điểm cá tỉnh của em chưa hoà đồng do bản sắc dân tộc riêng, tính tự ty, tôi gần gũi tâm sự với em; kêu gọi sự giúp đỡ gần gũi của tập thể, giáo viên chủ nhiệm lớp các bạn trong lớp gần gũi động viên giúp bạn hoà đồng tập thể, tự tin và tích cực học tập hơn - Nhắc lại quy chế về đánh giá điểm môn học, ảnh hưởng đến xếp loại cuối cùng và việc làm sau này. Trên đây mới chỉ là một vài tình huống rất nhỏ trong vô vàn tình huống khác và cách xử lý cũng rất khác nhau với đối tượng hoàn cảnh học sinh. Rất mong các đồng chí biết vận dụng linh hoạt. Chúc các đồng chí thành công trong sự nghiệp trồng người của mình. Bài báo cáo tham luận của cá nhân tôi còn nhiều thiếu sót. Tôi mong sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của qúy đại biểu, của các đồng chí cùng các thầy cô giáo đồng nghiệp. Cuối cùng tôi xin kính chúc quí đại biểu cùng toàn thể các thầy cô giáo lời chúc sức khỏe, chúc hội nghị thành công tốt đẹp..
<span class='text_page_counter'>(41)</span>