TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
TÊN ĐỀ TÀI
Tư tưởng của Khổng Tử và ảnh hưởng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần:Lịch Sử học thuyết chính trị pháp lý
Mã phách:………………………………….(Để trống)
1
Hà Nội 2021
Mã phách
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Tuấn Phụng Long Ngày sinh: 22/05/2000;
Mã sinh viên:1805LHOA088
Lớp: Luật 18A Ngành đào tạo: Luật
Tên Tiểu luận: Tư tưởng của Khổng Tử và ảnh hưởng đối với việc
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Học phần: Lịch sử các học thuyết chính trị pháp lý
Giảng viên phụ trách: Hồng Đình Kh
Sinh viên kí tên
2
Mục Lục
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho Giáo là một trong những học thuyết chính trị lớn của Trung Quốc, được ra
đời từ thời Xn Thu – Chiến Quốc do Khổng Tử (551 – 479 TCN) bậc thầy lớn
nhất của Nho giáo, một nhà chính trị, giáo dục sáng lập lên. Với sự xuất hiện ở
thời kỳ suy yếu về địa vị của nhà Chu trong vấn đề kinh tế chính trị đã hình
thành lên một tư tưởng trị quốc đặc biệt về con người, ở đây là con người chính
trị con người đạo đức cho nên những quy phạm và chuẩn mực đạo đức mà nhà
Nho u cầu, địi hỏi mỗi người phải tu dưỡng, rèn luyện và học tập, thi hành
nhằm mục đích chính trị [1, tr.5], xây dựng một quốc gia theo khn mẫu vua
Nghiêu, vua Thuấn.
Ở nước ta, sự xuất hiện của Nho giáo đi theo một q trình lịch sử lâu dài trong
q trình đơ hộc của các triều đại phương Bắc. Sự tồn tại của nó đã được ghi
nhận từ thời kỳ Lý – Trần. Mặc dù trong thời kỳ này Phật giáo có ảnh hưởng rất
lớn đến tư tưởng của Việt Nam thời bấy giờ, điển hình trong đó là việc xuất gia
của Phật hồng Trần Nhân Tơng hay việc xây dựng hàng loạt những ngơi chùa từ
thời Lý, Trần thì Nho giáo được dùng chủ yếu trong giáo dục thực sự thúc đẩy
nền văn hóa của nước ta thời kỳ này. Phải đến thời Lê, Nho giáo mới thực sự có
vị thế chủ đạo trong nền tư tưởng chính trị thời đó, ảnh hưởng sâu rộng đến tinh
3
thần, tư tưởng cũng như luật lệ. Theo Việt Nam sử lược [tr263, 273] , thời vua
Lê Thành Tơng thì Nho giáo đã thực sự được coi là quốc giáo, ảnh hưởng sâu
rộng đến tồn bộ người dân cũng như tình chính trị quốc gia thời kì này. Từ đây
Nho giáo đã thành một cơng cụ, phương tiện xuất hiện trong xuốt thời kì phát
triển của Việt Nam trong việc quản lý cũng như xây dựng hình tượng con người
thời kỳ phong kiến sau này.
Như đã nói ở trên, Nho giáo bàn nhiều về con người chính trị vì vấn mà vấn đề
trị quốc ở đây được bàn luận rất nhiều trong các cuốn sách được viết của Khổng
Tử từ đó mà nước Nam ta cũng sản sinh ra hàng loạt những nhân kiệt trong văn
học, chính trị, giáo dục như Nguyễn Du, Lê Q Đơn,… Tuy nhiên bên cạnh tính
hợp lý, đặc sắc của hệ thống tư tưởng Nho giáo thì lý thuyết qn chủ tập
quyền và quản lý xã hội của đạo Khổng Tử cũng cịn nhiều hạn chế nhất định.
Vì thế mà ảnh hưởng của Nho giáo đến q trình xây dựng một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay cần tiếp thu những tinh hoa trọn lọc,
lược bỏ những yếu kém khơng phù hợp với thời kỳ hiện đại ngày nay.
Việc xây dựng một nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do dân
và vì dân đã được Đảng và Nhà nước ta xây dựng từ lâu. Trong các văn kiện đại
hội Đảng ln khẳng định xây dựng một “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân” từ đó xây dựng một nhà nước pháp quyền hiệu quả, bộ máy nhà
nước tinh gọn trong sạch, vững mạnh, hồn thiện hệ thống pháp luật [6, tr76].
Với thực tế đất nước ngày càng phát triển sâu, nền kinh tế hội nhập tồn cầu
việc xây dựng một quốc gia với tinh thần thượng tơn pháp luật là hết sức cần
thiết và nhanh chóng, đẩy mạnh hồn thiện một nhà nước liêm chính, chấm dứt
một sự suy thối về tư tưởng, lối sống của những bộ phận cơng chức, cơ quan
cơng quyền thì u cầu về nhà nước Pháp quyền là một địi hỏi cấp bách và cần
thiết.
Một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vi hân
dân với một mục tiêu khơng đổi, xun xuốt trong sự đấu tranh của dân tộc ta “
4
dân giàu, nước mạnh, cơng bằng văn minh” để đạt được mục tiêu mang tính dân
tộc này chúng ta cần phải vận dụng thật tốt tinh hoa, tính túy bản chất tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam anh hùng, quật cường và có chọn lọc những thơng tin, tư
tưởng có ý nghĩa tiến bộ. Nho giáo với quan điểm xây dựng một quốc gia tích
cực là xây dựng một quốc gia hịa đồng, tạo nên một truyền thống tốt đẹp về tư
tưởng, đạo đức và nối sống. Ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ tình cảm của người
dân với cộng đồng, thúc đẩy sự hiếu học, tơn sư học đạo, thúc đẩy sự có đạo
đức của mỗi con người trong xã hội [19]. Tư tương lấy dân làm gốc, một xã hội
mang tính ổn định có những “con người đạo đức” cán bộ có phẩm giá, chun
mơn sâu năng lực và phẩm chất chuẩn mực cần gắn liền với một xã hội phát
triển văn minh tiến bộ. Nhưng bên cạnh những giá trị tốt đẹp thì những vấn đề
tiêu cực thì tâm lý khơng tơn trọng luật pháp, sự gia trưởng khơng dân chủ, sự
dập khn, giáo điều trong cơng tác nghiên cứu và phát triển, sự thiếu bình đẳng
trong vấn đề giới tính, gia đình là những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống cũng
như sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Với sự ảnh hưởng mang tính tương đối,
có cả tích cực và tiêu cực thì việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay của tư tưởng Nho giáo với việc xây dựng một nhà
nước pháp quyền thực sự ở nước ta cần phải nghiên cứu và làm rõ những điểm
tích cực, từ đó tìm ra phương hướng và đường lối hiệu quả đứng đắn với những
điểm văn mình tốt đẹp, hạn chế và loại bỏ những điểm xấu trong con đường xây
dựng và phát triển đất nước là hết sực thực tiễn. Xuất phát từ những cơ sở lý
luận và thực tiễn nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Tư tưởng của Khổng
Tử và ảnh hưởng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài thi kết thúc học phần mơn học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5
Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở làm rõ nội dung tư tưởng của Khổng Tử; phân tích thực trạng ảnh
hưởng và ngun nhân từ đó đưa ra những phương hướng cùng những giải pháp
hiệu quả nhằm phát huy tính tích cực, hạn chế tiêu cực của học thuyết Nho giáo
đối với việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ sự hình thành, những nội dung chính trong tư tưởng của Khổng tử và sự
phát triển, biến đổi ở Việt Nam.
Phân tích sự ảnh hưởng của tư tưởng chính trị, trị quốc của Nho giáo với việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và
nguyên nhân của sự ảnh hưởng.
Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy và phát triển sự tích cực,
hạn chế các yếu tố tiêu cực của tư tưởng trị quốc của Khổng Tử với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ảnh hưởng của tư tưởng của Khổng Tử đối
với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là tư tưởng của Khổng Tử và Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, nghiên cứu chủ đạo về Tư tưởng pháp luật và trị quốc của
đạo Khổng với Nhà nước pháp quyền. Trọng tâm là về tư tưởng của Nho giáo từ
khi đất nước giành độc lập và bắt đầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
6
Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các tài liệu, văn kiện của Đảng về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử dụng những phương pháp cụ thể
như: so sánh, đối chiếu, tổng hợp, quy nạp,…
5. Kết cấu của Tiểu luận
Ngồi phần mở đâu, phần Kết luận, tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 chương
6 phần.
Chương 1
Tư Tưởng Của Khổng Tử
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Nho giáo
1.1.1 Hồn cảnh kinh tế, chính trị thời kỳ xuất hiện học thuyết Khổng Tử
Trên thực tế, sự xuất hiện của một học thuyết, tư tưởng mới được hình thành thì
yếu tố hồn cảnh, điều kiện lịch sử nào thì sẽ khai sinh ra một học thuyết tương
xứng trong hồn cảnh đó. Hồn cảnh sẽ hình thành và tác động đến những suy
nghĩ, tư tưởng và cuối cùng là khai sinh ra một học thuyết mới. Tư tưởng Khổng
7
Tử cũng khơng ngoại lệ, Nho giáo là sản phẩm của một hồn cảnh lịch sử Trung
Hoa thời Xn Thu Chiến Quốc loạn lạc.
Trước thời nhà Chu vào thời nhà Thượng, mạng sống con người vơ cùng rẻ mạt,
tục lệ chơn người sống theo người chết vơ cùng phổ biến, quyền sinh sát ở trong
tay vua vì nhà Thương dựa trên ngun tắc “Vương quyền chí thương” tức là
sinh mạng của dân là do vua nhận được từ trời. Nhà Chu đã lật đổ nhà Thương
và xóa các hủ tục vơ nhân tính, bên cạnh đó ngun lý trị đạo của nhà Chu đã dần
có ý tưởng lấy dân làm gốc, chứ không phải lấy vương làm gốc như nhà
Thương, Hạ. [3, tr.47]
Những tư tương lấy dân làm gốc của nhà Chu đã được phát triển bởi Khổng Tử
trở thành lấy người làm gốc. Khổng Tử chỉ coi bản tính của con người là giá trị
tinh thần cao q của con người, mà khơng có bản tính tự nhiên trong con người.
Đây là một sự tân tiến tron nhận thức của ơng, điều này rất phù hợp với lý
thuyết của chủ nghĩa Mác về bản chất của con người [3, tr.5051].
Sau qng thời gian đó về Kinh tế, người dân đã sử dụng phổ biến những cơng
cụ bằng sắt để phục cho cuộc sống cũng như nơng nghiệp, sự phát triển của
nơng nghiệp cũng kéo theo sự lớn mạnh của các ngành kinh tế khác hư thủ cơng
nghiệp và thương nghiệp. Sự xuất hiện của hoạt động thương nghiệp đã tạo lên
những thành thị lớn và sầm uất. Những người giàu có, thế lực lớn mạnh đã xuất
hiện và khơng hồn tồn chịu sự ban phát đất đai của thiên tử mà đã chiếm đất,
thơn tĩnh lẫn nhau để thành của riêng.
Tình hình xã hội cũng có biến động và phân hóa do sự đi nên của tầng lớp có
nhiều của cải hơn trong xã hội, với sự biến đổi của các tầng lớp mà sự phân hóa
ngày càng sâu sắc, những người nghèo càng ngày càng dựa vào ruộng đất của
những người giàu có sống lang bạt, cùng cực, ngược lại thì những địa chủ ngày
càng trở lên giàu có.
8
Tình hình chính trị xã hội của Nhà Chu ban đầu tương đối phát triển và ổn định
nhưng từ thời kỳ Đơng Chu thì ngày càng suy yếu, loạn lạc từ nhiều hoạt động
tranh giành, sự bất ổn chính trị leo thang cùng với việc lớn mạnh của các nước
chư Hầu, đặc biệt là nhà Tần, các hồn cảnh lịch sử của thời đại này đã chắp lối
và hình thành các nhà tư tưởng vĩ đại muốn thay đổi thế cục tiêu biểu là Khổng
Tử, Mạnh Tử. Ai ai cũng nhận và dạy học trị, số học trị đơng đến hàng ngàn
mở phong trào dạy tư đến đời sau [14, tr.91] nhờ phong trào này mà kẻ sĩ rất
đơng, tìm kiếm mơ hình xã hội lý tưởng, học thuyết phù họp với tình hình thời
bấy giờ.
1.1.2 Tư tưởng Nho giáo tác động đến Trung Hoa
Với sự ra đời của Nho giáo và các tư tưởng học thuyết khác thời kỳ Xn Thu –
Chiến Quốc dựa trên sự kế thừa những tư tưởng chính trị, đọa đức và lối sống
trước đó nhất là thời nhà Chu. Đạo Khổng Tử đã giải quyết những vấn đề thực
tiễn xã hội đang đặt ra lúc bấy giờ, mục tiêu rõ ràng trong quan niệm của Nho
giáo được thể hiện qua cát đặc điểm sau:
Xã hội ổn định, trật tự theo đúng chuẩn mực của mối quan hệ.
Nho giáo chủ yếu bàn về mối quan hệ Ngũ Ln nhưng đặc biệt là mối quan hệ
Tam cương (vua – tơi), (cha – con), (vợ chồng). Khổng Tử đưa ra những u
cầu về thái độ, trách nhiệm và mặt đạo đức nghiêm ngặt nhằm những mục tiêu
chính trị hà khắc. Quy định về “Chính danh” là đỏi hỏi sự tự giác, bất kể là vua
hay quan lại, dân thường đều phải tự giác giữ lấy chuẩn mực cùa Lễ, nhằm ngăn
chặn sự “phạm thượng”. Theo Nho giáo sự ổn định, trật tự trong xã hội là vơ
cùng cần thiết, phải biết coi trọng hiếu đễ, coi đó là phẩm chất quan trọng trong
giáo dục con em. Các nhà nho tin rằng người có hiếu, đễ thì sẽ khơng phạm
thượng, khơng trái nghịch với bề trên thì ắt sẽ tn lệnh bề trên, mà ở đây bề
trên nhất, cha của tồn dân thiên hạ đó chính là Vua, người dân phải biết ni
dưỡng mỗi cá nhân trong gia đình từ đó biết lễ nghĩa vợ chồng, cha mẹ, và quan
hệ vua tơi.
9
Một xã hội với sự chuẩn mực đạo đức, đạo đức của mọi người là trên hết.
Theo Khổng Tử, việc sống ở trên đời của mỗi người phải lấy cái đạo đức làm
cốt lõi của mọi vấn đề, Vua phải quan tâm đến dân, phải lấy dân làm “gốc” đó
mới là q, phải thể hiện sự khoan dung độ lượng và có trách nhiệm đối với dân.
Như thế thì vua mới được coi là bậc minh qn, xứng đáng là “cha mẹ của mn
dân thiên hạ”, mùa màng của dân phải giảm thuế má cho dân, dạy dân trồng trọt,
biết chăn ni, biết phụng dưỡng người già [9, tr.1309].
Bên cạnh đó, xuất hiện quan điểm về Qn tử, mà theo Khổng Tử thì sự học của
người qn tử mới là nghĩa lý, như thế mới là người có đức hạnh [11, tr.125].
Như vậy, chỉ có việc học mới có thể biên một người dân bình thường cũng thành
qn tử miễn là phải có đạo đức và xứng đáng có thể quản lý nhà nước. Nhưng
thực tế để theo được việc học mà Khổng Tử đã nói thì chỉ có những con em của
gia đình có của cải mới có thể cho con cái theo học được, cịn lại người dân bình
thường thì xuốt ngày chỉ biết cặm cụi làm đồng áng, lấy đâu ra tâm trí mà thành
kẻ sỹ, thành bậc qn tử. Bên cạnh đó người qn tử phải có “Trí”, “Dũng”,
“Nghĩa”, xả thân vì nghĩa khơng màng lợi lộc. Trong đó việc tu dưỡng đạo đức
được Khổng tử dăn dạy đặt ở hàng đầu đó là: “ Tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ” đây là 4 bước thuộc 8 bước dể thực hiện 3 cương lĩnh của Nho giáo.
Thực tế ở thời kì này việc chỉ lấy giáo dục đạo đức là hồn tồn khơng đủ và
thiếu tính thực tế. Vì thế, bên cạnh đạo đức cùng giáo dục thì pháp luật cũng
phải được xuất hiện dùng để duy trì trật tự xã hội trong khn khổ của Nho
giáo. Nghĩa là, giữa đạo đức với pháp luật và hình phạt, Khổng Tử đã thể hiện
rằng coi trọng đạo đức hơn nhưng cũng khơng phủ nhận vai trị của pháp luật
cũng như hình phạt. Tuy nhiên theo các nhà Nho thì khơng nên lạm dụng nó và về
lâu dài thì phải sử dụng đạo đức mới được. [8, tr.4748]
Như vậy có thể thấy những mặt tích cực trong Nho giáo của Khổng tử ở Trung
Quốc thì mục tiêu trị quốc của Nho giáo là đời sống vật chất đầy đủ, đạo đức,
phương hướng và cách thức giáo dục đạo đức thật sự quan trọng đối với việc
10
duy trì bình ổn xã hội. Phương hướng dẫn dắt quốc gia của Khổng Tử đề cao và
khẳng định quan trọng nhất là vai trị của đạo đức, dùng “Đức” để “Trị” nhưng
cũng khơng phủ nhận pháp luật mà chủ trương sử dụng khi cần. Việc giữ chữ
Tín là quan trọng nhất, bên cạnh đó thì vai trị lấy dân làm gốc cũng được nhấn
mạnh. Những người có thể lãnh đạo đất nước đó là những kẻ Sỹ, Qn tử, đại
trượng, Vua phải là người có đạo đức có tài năng biết dưỡng dân, giáo dân, lên
án người cầm quyền xa dân, độc ác,…
Song những hạn chế có thể thấy được đó là một xã hội lý tưởng của các nhà
Nho trong thời kỳ này mang tính ảo tưởng, chưa có điều kiện về Kinh tế, chính
trị, xã hội thực tế để đạt được nó. Có sự đề cập đến pháp luật ở đây, mặc dù
thấy được vai trị của luật pháp nhưng Khổng Tử lại đề cao tuyệt đối hóa vai trị
của “ Đức” mà chưa cho thấy được vai trị cũng như vị trícần thiết của luật pháp.
Bên cạnh đó sự bất bình đẳng về giới tính thể hiện rõ trong những hình mẫu lý
tưởng được nêu ra, vai trị của Nam giới được đề cao cịn vai trị của Nữ giới thì
ngược lại, đơi khi cịn thể hiện sự coi thường Phụ Nữ.
1.1.3 Tư tưởng Nho giáo tác động đến Việt Nam
Trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta đã chứng kiến khoảng 12 cuộc tấn
cơng của phong kiến Trung Hoa vào đất nước ta, có những cuộc chiến ta đã giành
thắng lợi vẻ vang và lưu danh sử sách, nhưng cũng có những cuộc chiến chúng ta
đã thất bại trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng với tinh thần u nước,
dịng máu Lạc Hồng nhân dân ta đã đứng lên đạnh bại ách đơ hộ của các triều
đại Trung Quốc. Đây là những bài học lịch sử cần phải khắc ghi sâu sắc trong
mỗi người dân Việt Nam về bài học xây dựng và bảo vệ tổ quốc suốt hàng ngàn
năm qua, để xứng đáng với hi sinh của cha ơng để lại vì độc lập tự do cho thế hệ
con cháu đất Việt.
Trong những năm giặc phương Bắc đơ hộ bóc lột nhân dân ta cùng với kẻ thù thì
các tư tưởng như Nho giáo cũng từ đó du nhập vào đất nước Âu Lạc từ thời gần
1000 năm bắc thuộc. Chúng dùng Nho giáo như một cơng cụ bóc lột, khai thác
11
với mục đích đồng hóa dân tộc ta về văn hóa, con người, tư tưởng,… Có thể nói
Nho giáo đến nước ta lúc đầu là vì mục đích phục vụ cơng cuộc khai thác và
đồng hóa dân tộc ta. Xong phải đến thế kỷ thứ XV, Phật giáo thời kỳ này dần
suy yếu và đến thời Lê Sơ, Nho giáo đã chiếm vị chí độc tơn trong đời sống, tư
tưởng ở Việt Nam lúc bấy giờ [15, tr333]. Xong khi du nhập vào Việt Nam, Tư
Tưởng trị quốc của Khổng Tử cũng đã có sự biến đổi, những nhà Nho Việt Nam
đã loại bỏ, sửa đổi một số tư tưởng khơng phù hợp, những nét riêng biệt khác
với Nho giáo Trung Quốc để hình thành một tư tưởng Nho giáo Việt Nam phong
phú hơn.
Những tác phẩm Nho giáo kinh điển thể hiện chủ quyền độc lập dân tộc ta như
Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi đều
khẳng định chủ quyền dân tộc ta từ ngàn đời, những tác phẩm Nho giáo thời kì
này được dùng với mục đích hồn tồn tốt đẹp là khẳng định chủ quyền lãnh thổ,
sự độc lập và tồn vẹn của quốc gia, sự tự do của dân tộc Việt, đây là những lý
tưởng chính trị xã hội cao cả trong Nho giáo của Khổng Tử. Ngày nay, tư tưởng
của Khổng tử khơng cịn giữ vai trị chính ở hệ tư tưởng chính và đã suy yếu rất
nhiều, nhưng dấu ấn và sự ảnh hưởng thì vẫn chưa phải hết. Vì vậy mà việc sử
dụng những tinh hoa trong tư tưởng Nho giáo là cần thiết trong việc xây dựng
nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay.
12
Chương 2.
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1 Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên
được nêu ra tại Hội nghị lần 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố VII (ngày
29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị tồn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII của Đảng (năm 1994) cũng như trong các văn kiện khác của Đảng và
Nhà nước. Tại Hiến pháp năm 2013, bản chất và đặc điểm của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được thể chế hóa rõ hơn. Nhà nước pháp
chúng ta có thể hiểu ngắn gọn là nhà nước có hệ thống pháp luật tiêu biểu cho
quyền lực của một nhà nước, một chế độ. Hệ thống này phản ánh ý chí, nguyện
vong, tâm tư của nhân dân, bảo đảm cho nhân dân quyền được làm chủ của
mình.
Như vậy, có thể nhận thấy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
vừa mang những đặc điểm của nhà nước pháp quyền nói chung, nhất là tính
thượng tơn Hiến pháp, pháp luật, vừa có những đặc thù của riêng Việt Nam,
được nhấn mạnh ở ba điểm chính sau:
Thứ nhất, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường khơng phủ nhận các quy luật khách quan của thị
trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ
nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của
13
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp
quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc
trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại
đồn kết tồn dân tộc. Với khối đại đồn kết tồn dân tộc, nhà nước pháp quyền
có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các
tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tuy khơng loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng
phân hố giàu nghèo, nhưng có khả năng xử lý tốt hơn cơng bằng xã hội. Những
mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do
được điều tiết thơng qua pháp luật, chính sách và các cơng cụ khác của nhà nước
nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có
tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo ổn định
chính trị, đồn kết các lực lượng xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển.
Ba là, tính nhất ngun chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm
quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ
lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội,
nguồn sức mạnh từ sự đồn kết tồn dân, phát huy được sức sáng tạo của các
tầng lớp dân cư trong vi ệc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên,
thách thức từ việc thiếu cơ chế cạnh tranh, kiểm sốt quyền lực của Đảng đặt ra
u cầu phải xác định rõ nội hàm và phân định rõ chức năng lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng đối với Nhà nước và cả hệ thống chính trị [16, tr.2].
Có thể thấy những đặc điểm và tính ưu việt của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa cùng với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì việc lựa chọn
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là điều tất yếu. Theo
14
văn kiện đại hội biểu tồn quốc lần thứ XII trong q trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam cần lưu ý những yếu tố sau đây:
Một, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước phải phục vụ nhân
dân, tơn trọng nhân dân và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng, phối hợp,
kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp,
hành pháp. Trong đó, Quốc hội là cơ quan duy nhấ có quyền lập Hiến và lập
pháp; Chính phủ điều hành việc thực thi theo Hiến pháp và pháp luật; các cơ
quan tư pháp khi xét xử chỉ tn theo pháp luật của nhà nước đã ban hành.
Ba là, mọi cơ quan, đồn thể, tổ chức xã hội chỉ được hoạt động trong khn
khổ, giới hạn của Hiến pháp và phát luật
Bốn là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, khơng bằng chỉ
thị, mệnh lệnh, khơng bao biện làm thay Nhà nước.
Ta thấy rằng việc hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh” địi hỏi phải có sự chung tay vào cuộc của tồn bộ hệ thống
chính trị phấn đấu khơng ngừng nghỉ, với sự đồng lịng chung sức của tồn thể
người dân Việt Nam đưa đất nước ta ngày càng giàu mạnh phồn vinh, trong đó tư
tưởng của Khổng Tử để rút ra những bài học kinh nghiệm, những tinh hoa để áp
dụng và loại bỏ những tiêu cực từ đó con đường đi tới vinh quang của tồn
Đảng, tồn dân ta mới thật sự hiệu quả.
2.2 Những điểm tích cực của tư tưởng Khổng tử đối với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Các điểm tích cực của tư tưởng Nho giáo được thể hiện qua những đặc điểm
chính như sau đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
15
Tư tưởng tích cực trong việc giáo dục con
1.
người sống phải có đạo đức, có trách nhiệm với cộng đồng, phải xây
dựng một trật tự xã hội ổn định.
Việc giáo dục đạo đức của con người trong đời sống ta đã bàn luận, chủ trương
theo tư tưởng của Khổng Tử là một xã hội theo trật tự ổn định, đất nước phải
n ổn. Để đạt được điều này thì phải coi trọng đạo đức của mỗi người trong xã
hội đó, từ việc giáo dục trong gia đình đến giáo dục cộng đồng thì đều phải lấy
cái “Đức” làm chủ đạo ấy mới là vững bền. Mặc dù việc khơng thừa nhận tầm
quan trọng của luật pháp là điểm thiếu xót của Nho giáo, tuy nhiên về một phần
phương diện của pháp luật thì đạo đức là một thứ hết sức cần thiết trong mỗi
một cá nhân. Trong nhà nước pháp quyền thì pháp luật là chuẩn mực, là cơng cụ
để điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, để phịng ngừa dăn đe những
hành vi sai trái xâm phạm đến lợi ích hợp pháp được quy định trong luật định, tuy
nhiên con người chúng ta khơng chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà cịn bị
các yếu tố như đạo đức, tơn giáo, tín ngưỡng, tục lẹ địa phương tác động, điều
này luật pháp khơng thể bao trùm tồn bộ mà được Nhà nước thừa nhận trong
khn khổ nhất định. Bên cạnh đó với tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử rất coi
trọng đạo đức, trách nhiệm của các cá nhân trong các mối quan hệ, thái độ sống
mà thiếu luật lệ, coi thường ngun tắc là điều trái ngược với tư tưởng của Nho
giáo vì thế mà những hành vi đó ln bị lên án bởi các nhà Nho.
Ngày nay đất nước ta đang tiến sâu vào con đường hội nhập sâu rộng với thế
giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta theo Viện nghiên cứu Kinh tê và
chính sách là 7,02% năm 2019, là một điểm sáng trong khu vực, nhất là trong tình
hình dịch bệnh covid là 2,91% [2] đây là một mức tăng trưởng thần kì trong khi
tại hầu hết các quốc gia trên thế giới mắc tăng trưởng này đều âm. Đây là một lỗ
lực đáng biểu dương của Đảng và Nhà nước ta trong cơng cuộc bảo vệ và xây
dựng đất nước, kinh tế tăng trưởng tốt đi theo đó là cuộc sống của người dân
ngày càng được cải thiện, đời sống ngày càng đủ đầy. Nhưng điều đáng báo
16
động ở đây là Đạo Đức lại khơng xong hành cùng với sự phát triển Kinh tế mà
lại thụt lùi đi, hàng loạt các vụ việc làm chấn động dư luật, chỉ cần một từ khóa
trên mạng Internet là có thể thấy rất nhiều vụ việc suy đồi về đạo đức, sai phạm
của cả cán bộ cơng chức cũng như người dân. Trong một phiên họp tồn thể lần
thứ 11 chuẩn bị nội dung cho kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XII của Ủy ban Tư
pháp của Quốc Hội đưa chỉ ra số liệu của tồn quốc xảy ra 40.088 vụ (giảm
4.03% so với cùng kỳ năm 2017), tính chất vẫn nghiêm trọng, mức độ bạo lực gia
tăng; hoạt động của các băng, nhóm tội phạm có sự đan xen mức độ tội phạm
ngày càng phức tạp tinh vi. Đáng báo động nhất là tội phạm có xu hướng ngày
càng trẻ hóa, số vụ thanh, thiếu niên phạm tội tăng, tình trạng bạo hành, xâm
phạm trẻ em nhất là hiếp dâm trẻ em xảy ra trên nhiều địa phương. Vì vậy quan
điểm trong đại hội XII của Đảng đã nhận định rõ:
“Phai th
̉ ẳng thắn chỉ ra rằng, đạo đức xã hội và kinh tế chưa song hành, đạo đức
xã hội chưa bắt kịp sự phát triển của kinh tế có một phần ngun nhân là do tinh
thần “Xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện phai tr
̉ ở thành một mục
tiêu của chiến lược phát triển”[17]
Đây là mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường mà Đảng và Nhà nước ta đã xác
định được trong cơng cuộc phát triển đất nước, và đưa ra các phương án để giải
quyết vấn đề gặp phải này. Bên cạnh đó vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân ta như đã
tiên đốn trước những khó khăn thách thức, Hồ chủ tịch đã nói Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Người cũng nói: “Người
có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một đức thì khơng thành người”, con
người chúng ta xây dựng ở đây là con người chính trị có đạo đức, có lối sống
chuẩn mực.
Điều này đã cho thấy loại trừ các yếu tố lỗi thời thì việc coi trọng con người có
đạo đức, kỷ luật trong tư tưởng của Khổng Tử để áp dụng vào cơng cuộc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là phù hợp,
tuy nhiên phải là những giá trị và đạo đức mới, phù hợp với hoàn cảnh thời điểm
17
hiện tại, có lợi cho cơng cuộc phát triển đất nước chứ khơng phải là những lý lẽ
giáo điều cổ hủ lạc hậu.
Tư tưởng của Nho giáo có ảnh hưởng và
2.
nghĩa lớn trong việc xây dựng một chính quyền của dân do dân và vì dân
Tư tưởng trị quốc của Khổng Tử ln đề cao người dân phải có một cuộc sống
vật chất đủ đầy, yếu tố “dưỡng dân” của Khổng Tử ln là tư tưởng nhà cầm
quyền đất nước phải chú ý vào yếu tố đặc biệt này, đây là một phần quan trọng
để đất nước thái bình thịnh trị theo tư tưởng Nho giáo. Xong Khổng Tử khơng chỉ
chủ trương là giúp dân giàu có đủ đầy mà người dân phải được ni dưỡng, ni
dưỡng ở đây khơng phải là ni lớn mà là giáo dục người dân. Phải chủ trương
dạy học cho dân, miễn ai ham học hỏi, muốn học khơng kể tầng lớp từ nghèo
cho đến giàu từ thiện tới ác, ai cũng có quyền được học. Đây là một điểm vơ
cùng tích cực, một cái nhìn vượt xa thời đại lúc bấy giờ, mà đến ngày nay bất kì
quốc gia nào trên thế giới đều chú trọng quan tâm đến giáo dục.
Bác Hồ kính u, vị cha già của dân tộc cũng ln đề cao việc học tập, quan
niệm của bác chỉ duy nhất con đường học tập và rèn luyện tu dưỡng đạo đức thì
chúng ta mới sách vai với cường quốc năm châu, dân tộc ta mới vững bền, độc
lập chủ quyền mới tồn vẹn. Trong di chúc, Bác viết: “cần phải có kế hoạch
thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống
của nhân dân”. [12, tr.612].
Tư tưởng và lời dạy của Bác Hồ về chăm lo đời sống vật chất, tinh thần ta thấy
chủ trương dưỡng, giáo dân trong đường lối tư tưởng của Khổng Tử là có điểm
chung, mang tính thời đại sâu sắc. Tại nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về
định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng
là “lấy việc phát huy nhân tố con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững”.
18
Nhất qn tư tưởng chiến lược phát triển con người trong thời kỳ đổi mới, Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Xã hội ta là xã hội vì
con người và coi con người ln giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế xã
hội. Con người trước hết là tiềm năng trí tuệ, tinh thần, đạo đức, là nhân tố
quyết định là vốn q nhất của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Quan điểm đó được thực hiện ở chủ trương “phát triển giáo dục và đào tạo
là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [5, tr.108109].
Với tinh thần và những đường lối chủ trương đứng đắn ấy chúng ta phải học
tập những điểm sáng, phát huy tích cực vào cơng cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, tất cả đều vi một mục tiêu cao cả
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh” với tinh thần thượng tơn
pháp luật.
Xây dựng một nhà nước vì dân, lấy người dân làm gốc đã là tư tưởng chủ đạo
trong đường lối phát triển dựng xây nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta, người dân là nền móng là chủ của quốc
gia : “ Chính phủ ta là một Chính phủ đầy tớ của nhân dân, một lịng, một dạ
phục vụ nhân dân” [13, tr.227,228].
Cán bộ, Công chức những người lãnh đạo,
3.
điều hành đất nước phải đủ đức đủ tài, phải có đủ phẩm chất năng lực
phát triển đất nước.
Tinh thần tự tu thân, rèn luyện bản thân của Khổng Tử cũng như việc là một bậc
quân tử ta đã bàn luận ở trên, nhưng ở đây việc đủ đức, vẹn tài, tự rèn luyện ý
chí bản lĩnh giữ vững lập trường đối với đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước lại
càng được bộc lộ rõ, Khổng Tử rất đề cao việc người đứng đầu, lãnh đạo quốc
gia phải là một tấm gương sáng để người dân học tập noi theo, nếu vua mà tồi
tệ thì ắt hẳn dân sẽ khơng nghe theo [8, tr.94]. Đặc điểm này có yếu tố tưởng
19
đồng trong tư tưởng lãnh đạo đất nước của Bác Hồ và Đảng ta, tại văn kiện
Nâng cao đạo đức cách mạng, qt sạch chủ nghĩa cá nhân, Bác viết:
Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời
khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta… Trong lịch sử đấu tranh
của Đảng và trong mọi hoạt động hàng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu sản
xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta tỏ ra anh dũn, gương mẫu, gian khổ đi
trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang [13, tr.546].
Đây là phương hướng dẫn đường cho hoạt động lãnh đạo đất nước, việc này
ln được Đảng và Nhà nước ta chú trọng nghe theo lời dạy của Bác, cán bộ,
cơng chức nhà nước phải là tấm gương sáng để người dân loi theo, phải chủ
động xung phong khơng ngại khó, ngại khổ đương đầu với thử thách điều này sẽ
giúp Đảng ta ln gắn bó máu thịt mật thiết với nhân dân. Tư tưởng này cũng khá
giống với những tư tưởng được Khổng Tử đề cập tới về đạo đức của người trị
quốc, một tư tưởng mang tính thời sự đi trước thời đại. Tuy nhiên với cơng cuộc
đổi mới của đất nước một số bộ phận khơng nhỏ cán bổ đảng viên viên có
những suy nghĩ lệch lạc, suy thối về đạo đức tư tưởng chính trị, đạo đức lỗi
sống, có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vướng vào tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực [4, tr47.47].
Ngày nay đất nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, đây là một con đường vơ cùng gian nan vất vả, vơ cùng khó khăn, việc có
một nguồn nhân lực chất lượng, có đủ đức đủ tài là điều cần thiết. Bởi vậy mà
ở yếu tố nhất định, tư tưởng chính của Khổng Tử đã phù hợp với con đường xây
dựng những con người đủ đức vẹn tài, đủ phẩm giá để phục vụ người dân phục
vụ quốc gia dân tộc. Từ đó loại bỏ những hành vi tiêu cực, nguy hiểm những
người khơng đủ phẩm chất vào làm việc tại những bộ máy cơng quyền sẽ làm
chậm, phá hủy đất nước từ bên trong.
20
2.3 Những điểm tiêu cực của tư tưởng Khổng tử đối với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay
Vì hồn cảnh lịch sử, cũng như thời đại thì những tư tưởng Nho giáo của Khổng
Tử khơng thể tránh khỏi những yếu tố tiêu cực, chủ quan và khơng phù hợp với
cơng cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay,
những yếu tố này cần phải loại bỏ, giảm thiểu một cách tốt nhất để cơng cuộc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự vững mạnh.
1.
Tâm lý coi thường thiếu tơn trọng pháp luật
Trong tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử đề cao vai trị đạo đức một các thái q,
khiên việc áp dụng và tơn trọng pháp luật kém hiệu quả gây ra tình trạng coi
thường pháp luật. Trong tư tưởng Nho giáo Khổng Tử khơng những khơng thừa
nhận mà đơi khi cịn thể hiện pháp luật là cần thiết ở mức độ nhất định. Tuy
nhiên thực tế hiện nay tư tưởng “Đức” trị một cách tuyệt đối hóa là khơng phù
hợp và hồn tồn có thể gây tổn thương nghiêm trọng đến tình hình chính trị xã
hội ở một quốc gia, nhất là con đường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, việc xuống cấp của đạo đức là
đáng báo động, khơng chỉ thể mà là cịn nhân danh đạo đức để can thiệp vào pháp
luật, sử dụng “đạo đức” giả để trục lợi, điều này đã hạ thấp vai trị của pháp
luật. Trong những báo cáo của lực lượng Cơng an thì tỷ lệ tội phạm phạm tội
diễn biến cịn rất phức tạp số liệu thống kê 5 năm thực hiện chỉ thị có tới 43.033
vụ phạm tội về trật tự xã hội, 88.259 đối tượng, đạt tỷ lệ 74.49% cao hơn 1,09%
so với năm trước đó. Một khảo sát năm 2015 lực lượng Cơng an đã điều tra, triệt
phá 44.000 vụ phạm pháp hình sự, 16.000 vụ phạm tội về kinh tế, hơn 26.000
đối tượng phạm tội về ma túy,… Đây là những con số đáng báo động vì tỷ lệ tội
phạm vẫn ở mức cao. Nếu áp dụng một cách mù qng tính đạo đức mà khơng
21
thượng tơn pháp luật thì chúng ta sao có thể xây dựng mà nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một nhà nước của dân, do dân và vì dân, một nhà
nước vững mạnh về cả kinh tế, chính trị xã hội.
2.
Tư tưởng gia trưởng, khơng dân chủ, khơng coi trọng
phụ nữ và sức mạnh của thế hệ trẻ
Sự phân biệt, đối xử trong xã hội Nho giáo của Khổng Tử việc bề trên mặc
quyền sai bảo, những người dưới phải tuyệt nhiên nghe theo, bề tơi phải chịu sự
sai nghiên của vua, con cái được cha mẹ sinh ra phải mặc nhiên nghe lời cha mẹ,
vợ lấy chồng thì phải theo nhà chồng phải nghe lời chồng khơng được làm sai lời
chồng. Điều này đã gây ảnh hưởng xấu tới suy nghĩ của người dân trong cuộc
sống gia đình đặc biệt là đội ngũ cán bộ, cơng chức trong việc thực thi hoạt động
cơng vụ cơng chức, khiến họ có suy nghĩ lạm quyền là bề trên, đứng trên người
khác, ai cũng phải nghe theo họ. Cán bộ, cơng chức trở lên hách dịch, nhũng
nhiễu người dân gậy hậu quả to lớn mà chúng ta có thể nhìn thấy nhiều năm về
trước đó là vấn nạn phong bì, sự quan liêu, tư tưởng chun quyền sẽ khiến đất
nước thụt lùi, gây cản trở trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, điều này hồn tồn phải loại bỏ.
Bên cạnh đó tư tưởng Nho giáo cịn chưa đề cao yếu tố vai trị của người phụ nữ
cũng như lớp trẻ trong cơng cuộc dựng xây, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Nữ
giới có thể thua Nam giới ở một vài điểm nhưng ngược lại họ cũng có những
điểm mạnh mà phái Nam khơng có được, điều này vơ hình chung làm yếu kém đi
một phần động lực phát triển đất nước. Trong lịch sử đã chứng minh Nữ giới
hồn tồn có thể cùng với Nam giới cùng nhau đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất
nước, ví dụ điển hình là Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi qn xâm lược, Phó
chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình một chính trị gia – nhà ngoại giao kiệt xuất, bà là
người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào hiệp định Paris năm 1973, GS, TS NGND
Ngơ Kiều Nhi, người từng vinh dự nhận được giải thưởng Kovalevskaia năm
2002, Nguyễn Thị Minh Khai nữ chiến sĩ cộng sản đầu tiên,… và hàng loạt
22
những người phụ nữ Việt Nam khác đã góp phần bảo vệ, xây dựng tổ quốc ta.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam khơng thể tiếu
vai trị của người phụ nữ, việc khơng coi trọng phụ nữ là việc xây dựng đất
nước mất đi một nửa ý nghĩa.
Bên cạnh đó thanh niên là lớp tuổi trẻ là thế hệ kế cận, là tương lai của đất
nước, một thế hệ thanh niên có tri thức, có học thức với một nối sống chính trị
lành mạnh, có đạo đức tốt thì ta có thể thấy tương lai của quốc gia, dân tộc đó sẽ
hùng cường vã vững mạnh thế nào. Đảng ta đã nhìn nhận rõ vai trị quan trọng
của lớp trẻ, với những chủ trương thu hút nhân tài, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức cũng như đạo đức, tất cả được cụ thể hóa bằng những đường lối rõ
ràng, thiết thực điển hình là những mục tiêu phấn đấu được đề ra trong Văn kiện
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu phấn đấu đưa
đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trung ương đến địa phương ở độ tuổi dưới 45 là từ
1520% ở từng vị trí, điều này đã cho thấy sự ưu việt của đường lối xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đảng cộng sản Việt Nam
khác với những yếu tố lỗi thời, khơng phù hợp của đạo Khổng Tử trong việc
đánh giá nhìn nhận năng lực của phụ nữ và sức mạnh của lớp trẻ.
23
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH
CỰC, HẠN CHẾ TÍNH TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG KHỔNG TỬ
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1 Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cùng những ngun tắc cơ bản xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đề án “Chiến lược xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” là nhiệm vụ quan
trọng mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đặt ra . Đây là đề án mới
nhất của Chính Phủ trong cơng cuộc xây dựng và phát triển tầm nhìn định hướng
dài hạn cho mục tiêu sắp tới của tồn hệ thống chính trị, lịch sử đã chứng minh
qua 13 kì đại hội Đảng, hàng loạt nhưng đề án, chính sách về xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam đã và đang được thực hiện có hiệu quả, pháp luật ngày
càng được củng cố, văn bản pháp luật ngày càng được tinh gọn, bộ máy hành
chính nhà nước ngày càng làm việc một cách có hiệu quả. Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động dựa theo Hiến pháp và
Pháp luật, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ
quan đại diện cao nhất của người dân [6, tr.175], Chính phủ là cơ quan hành chính
cao nhất [6, tr.177], Tịa án nhân dân là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và chỉ
tn theo pháp luật [6, tr.179], Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền cơng tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp [6, tr.179]. Theo đó Đảng cộng sản Việt Nam sẽ
tiếp tục là nhân tố quyết định sự tồn tại của chế độ nhà nước ta, đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng là một nguyên tắc quan trọng trong vấn đề xây dựng nhà
24
nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Đảng phải phát huy dân chủ trong q trình
xây dựng chủ trương, đường lối và thể chế hóa thành chính sách, pháp luật của
Nhà nước; trong tổ chức xây dựng Nhà nước và bố trí đội ngũ cán bộ tham gia bộ
máy nhà nước. Mục đích cầm quyền của Đảng xét đến cùng là vì lợi ích của
nhân dân. Đảng đại diện cho lợi ích của nhân dân, phấn đấu vì lợi ích của nhân
dân, Đảng cầm quyền khơng có mục đích nào khác vì sự phồn vinh của đất
nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” được đề ra từ Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ V (1982) và
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng xác định là phương thức
vận hành tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam. Cơ chế này là kết quả sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vai trị của Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân trong lịch sử, đồng thời
xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới [7]. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng thì phương hướng cụ thể cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đầu tiên là đổi mới lập pháp và đảm bảo sự giám sát tối cao của
Quốc hội, tăng cường hoạt động của các cơ quan tư pháp, theo đó việc nâng cao
chất lượng của Đại biểu Quốc hội, những người thay mặt nhân dân tại cơ quan
quyền lực nhà nước cần là những người đủ đức đủ tài để đưa sự giám sát, lập
pháp của Quốc hội thật sự hiệu quả, đảm bảo sự tự do, dân chủ của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các cơ quan Tư pháp cần kế thừa truyền thống đồn kết, tâm huyết, trí tuệ, u
ngành, u nghề của đội ngũ cán bộ ngành tư pháp; khai thác tối đa các nguồn
lực, phát huy các thành tựu, kinh nghiệm, bài học, tham mưu cho Đảng và Nhà
nước xây dựng hồn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, tạo mơi trường pháp lý an
tồn, thuận lợi cho phát triển kinh tếxã hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh, tăng
cường hội nhập quốc tế sâu rộng; từ đó xây dựng một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam với tinh thần thượng tơn pháp luật, người dân sống và
làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật [18].
25