Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong bảo đảm quyền con người từ thực tiễn Huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.26 KB, 68 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH TUYỀN

VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN HĨC MƠN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH TUYỀN

VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN HĨC MƠN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THỊ TÍNH

HÀ NỘI, 2021





MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc chính là những quyền làm người cao cả nhất theo
Hiến chương Liên hiệp quốc và Công ước quốc tế về quyền con người (QCN), song
những quyền đó chỉ được thực thi trong một quốc gia độc lập, tự do. Vì những giá
trị cao q đó, suốt chiều dài lịch sử, nhân loại tiến bộ, trong đó có nhân dân Việt
Nam đã khơng quản hy sinh xương máu, gian khổ đấu tranh để giành lấy/giành lại.
Bảo đảm QCN là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta ngay từ
những ngày đầu giành được độc lập, tự do và đặc biệt là từ khi thực hiện công cuộc
đổi mới. Điều này được thể hiện rõ qua việc xây dựng và khơng ngừng hồn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật và thực thi các giải pháp nhằm phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội, để mọi người dân có cuộc sống ngày càng đầy đủ về vật chất, phong
phú về tinh thần; xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nhà nước
ta ln rất tích cực trong việc nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên nhằm từng bước hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm QCN.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong bảo đảm QCN, thực tế vẫn còn
nhiều điều cần quan tâm. Đó là, ở một số nơi vấn đề QCN chưa nhận được sự quan
tâm từ những người làm công tác quản lý cho đến người dân. Bên cạnh đó, cơng tác
tuyên truyền về QCN đến với người dân chưa được triển khai một cách đồng bộ dẫn
đến sự hiểu biết về QCN của người dân, thậm chí của cả những người thực thi QCN
ở nhiều nơi cịn hạn chế. Tình trạng vi phạm QCN vẫn còn diễn ra khá phổ biến.
Để các QCN đi vào cuộc sống, ngoài các thể chế và thiết chế do Nhà nước
lập ra còn phải có khâu tổ chức thực hiện quyền. Trong các thiết chế bảo đảm QCN
khơng thể thiếu vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN). Với vai trò là
cơ quan đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, những năm qua
MTTQVN đã đạt được nhiều thành tựu trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do
Đảng và Nhà nước giao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,

MTTQVN cũng còn nhiều hạn chế trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo đảm và
bảo vệ QCN. Điều này được xác định do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ
quan. Để làm rõ những thuận lợi, khó khăn và những bất cập trong thực thi vai trò

1


bảo đảm QCN của MTTQVN, học viên đã chọn chủ đề: “Vai trò của Mặt trận tổ
quốc Việt Nam trong bảo đảm quyền con người từ thực tiễn Huyện Hóc Mơn,
thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực tế, đã có rất nhiều nghiên cứu tiếp cận vấn đề QCN dưới nhiều góc độ
khác nhau; nó được đặt trong các mối quan hệ khác nhau để nhìn nhận và đánh giá.
Chẳng hạn, Đề tài thuộc chương trình cấp Nhà nước đã được thực hiện cho đến nay
có thể kể đến: Đề tài KX07.16 “Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền
công dân trong công cuộc đổi mới đất nước” do GS. Hoàng Văn Hảo làm chủ
nhiệm (Chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước KX07 “Con người - mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” giai đoạn 1990 - 1995 do
GS.TSKH. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm) đã đi vào phân tích những điều kiện để
đảm bảo cho việc thực hiện QCN và quyền công dân ở nước ta trong giai đoạn đổi
mới đất nước; Đề tài khoa học cấp Nhà nước Quyền con người trong thời kỳ đổi
mới: Thành tựu, vấn đề và phương hướng giải quyết do TS Cao Đức Thái làm Chủ
nhiệm, (2001-2005); Đề tài KX02.18/16.20: Nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề con người, quyền con người và đề xuất, bổ sung, phát
triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới trực thuộc Chương trình KX 02/1620 “Nghiên cứu Tổng kết, đề xuất bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin - cấu
phần quan trọng của nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối
cảnh mới” do TS. Phạm Thị Tính làm chủ nhiệm (2018 - 2020).
Một số dự án hợp tác nghiên cứu về QCN giữa Bộ Ngoại giao và Chương
trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), có thể kể đến như: “Thực thi các hiệp
ước về QCN ở Việt Nam” (2008-2011) với 3 mục tiêu: 1/Nâng cao nhận thức,

2/Tăng cường năng lực và 3/Xây dựng quan hệ đối tác. Dự án: “Tăng cường tiếp
cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” (2009-2014) với mục tiêu: 1/Hỗ trợ thực
hiện các Nghị quyết 48-NQ/TW và 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành các
Chiến lược Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 (Chiến lược cải cách pháp luật) và Chiến lược Cải cách tư pháp đến
năm 2020 (Chiến lược cải cách tư pháp); 2/ Điều phối quan hệ đối tác giữa Chính

2


phủ, các nhà tài trợ, các cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác trong xã hội nhằm
thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và Chiến lược cải
cách tư pháp; 3/ Tăng cường năng lực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp thông qua
việc xây dựng và thực thi Chiến lược phát triển ngành Tư pháp đến năm 2020 trong
mối quan hệ tương tác với những yêu cầu mới về vị trí vai trò của ngành tư pháp
trong thời kỳ hội nhập; 4/ Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền trong đó có
xây dựng Bộ Chỉ số tư pháp cấp tỉnh; nghiên cứu, đề xuất xây dựng chiến lược về
Trao quyền pháp lý cho người nghèo; tăng cường việc ký kết và thực hiện các điều
ước quốc tế về nhân quyền và nội luật hoá các cam kết quốc tế này vào pháp luật
trong nước; 5/ Tăng cường cải cách tư pháp thông qua hỗ trợ nghiên cứu các nội
dung và các sáng kiến mang tính liên ngành.
Chương trình cấp Bộ nghiên cứu về bảo đảm thực thi QCN có thể kể đến: Một
số vấn đề cơ bản về quyền con người và điều kiện đảm bảo thực thi ở Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 vì mục tiêu phát triển con người do PGS.TS Mai Quỳnh Nam
(Viện nghiên cứu Con người) làm chủ nhiệm, trong đó có đề tài nhánh « Một số vấn
đề cơ bản về quyền Dân sự - Chính trị và điều kiện đảm bảo thực thi ở Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 do TS. Trương Văn Dũng làm chủ nhiệm; Một số vấn đề cơ
bản về quyền Kinh tế và điều kiện đảm bảo thực thi ở Việt Nam giai đoạn 20112020 do Ths. Nguyễn Đình Tuấn làm chủ nhiệm; Một số vấn đề cơ bản về quyền
Văn hóa, Xã hội và điều kiện đảm bảo thực thi ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020 do
TS. Vũ Thị Minh Chi làm chủ nhiệm.

Các đề tài độc lập cấp Bộ, có thể kể đến: Sự đóng góp của chủ nghĩa Mác vào
vấn đề quyền con người của Hoàng Việt, (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4/1993);
Mác – Ăngghen bàn về quyền con người của Vũ Hồng Cơng (Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 11/2001); Quyền con người nhìn từ góc độ triết học của Hồng Cơng
(Tạp chí Triết học 2010); Chủ nghĩa Mác và các quyền con người của Maria
Hirszowicz (Tạp chí Thơng tin KHXH, số 11/1999); Những đóng góp có ý nghĩa
thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN (2009) của Cao Đức Thái; Quyền con
người và an ninh con người của Tường Duy Kiên (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
1/2010);… đã đưa thêm những thông tin, những luận chứng quan trọng, cung cấp

3


cho chúng ta cái nhìn tồn diện hơn về vấn đề QCN và thực thi QCN ở Việt Nam
thời gian qua.
Liên quan đến vấn đề QCN cũng có nhiều sách dịch và các cơng trình nghiên
cứu được cơng bố như: “QCN, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới”, Học viện
Chính trị quốc gia HCM (1993); “QCN trong thế giới hiện đại: Nghiên cứu và
thơng tin”, Phạm Khiêm Ích, Hồng Văn Hảo (1995); “QCN, quyền công dân trong
nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam”, Trần Ngọc Đường (2004); “QCN, quyền
công dân”, KX-07 (1993); “QCN, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam”, Nguyễn Bá Diễn (1993); “QCN ở Trung Quốc và Việt Nam”, Trung tâm
nghiên cứu QCN - Hội nghiên cứu QCN Trung Quốc (2003); “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhân quyền”, Phạm Ngọc Anh (2005); “Con người và PTCN”, Hồ Sĩ Qúy
(2007); Giáo trình lý luận và pháp luật về QCN, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công
Giao, Lã Khánh Tùng (2009); “Giáo dục QCN những vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Võ Khánh Vinh (2010)...
- Một số luận văn và luận án về bảo đảm quyền con người hiện có: Nguyễn
Văn Mạnh (1995): Xây dựng và hồn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con
người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học

viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Tường Duy Kiên (2004): Đảm bảo quyền con
người trong hoạt động của Quốc hội Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viên
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh… Ngồi ra, vấn đề QCN cịn được đề cập trong
nhiều tạp chí và các hội thảo khoa học cấp quốc tế, quốc gia (Bộ Ngoại giao, Viện
Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam); cấp Viện (Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện
Nghiên cứu Con người, Viện Nghiên cứu Quyền Con người…), Trường Đại học
(Đại học Quốc gia, Đại học Luật,…) được tổ chức trên toàn quốc.
Về vai trò của MTTQ Việt Nam trong bảo đảm QCN có thể kể đến một số
chun khảo, cơng trình nghiên cứu, như:
Tác giả Huỳnh Đảm với bài viết: Nâng cao vai trò giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam [18]. Tác giải đã đánh giá : Nhà nước quản lý xã hội, do đó phải
kiểm tra, giám sát thi hành và chấp hành pháp luật đối với mọi đối tượng trong xã
hội. Do đó, giám sát cần phối hợp chặt chẽ giữa giám sát của Đảng, giám sát của

4


Nhà nước và giám sát của Mặt trận. Sau khi phân tích những quy định của Hiếp
pháp và pháp luật liên quan về giám sát của MTTQ, tác giả nêu rõ những thành tựu
của Mặt trận trong quá trình thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước, tuy nhiên kết quả giám sát còn khiêm tốn và còn
nhiều bấp cập.
Luật sư Trần Ngọc Nhẫn với hai bài viết: Một số đề xuất về giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân
dân” [49, tr.21-24] và Giám sát và phản biện xã hội là cơ chế quan trọng để Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam phát huy dân chủ, tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN [47, tr.35-38] chỉ rõ giới hạn giữa phạm vi giám sát và phạm vi phản biện.
Theo đó, phạm vi giám sát rất rộng, gồm hoạt động của cấp ủy đảng các cấp, các cơ
quan Nhà nước, cán bộ, công chức, đảng viên, nhưng chỉ trong quá trình thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khơng giám

sát q trình dự thảo các chủ trương, chính sách, pháp luật đó. Cịn phản biện xã hội
chỉ thực hiện trong q trình dự thảo chủ trương, chính sách, pháp luật; khơng phản
biện xã hội khi chủ trương, chính sách, pháp luật đã được ban hành.
Tác giả Nguyễn Thị Lan với bài: Mặt trận phối hợp thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân [36, tr.50-52] và bài Đẩy mạnh hoạt động giám sát, phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc [35, tr.46-50] đã chỉ rõ những bất cập của pháp luật hiện hành
liên quan đến chức năng giám sát và phản biện của MTTQ, từ đó dẫn đến hoạt động
giám sát và phản biện chung chung, chưa đạt hiệu quả cao, đồng thời đề xuất ban
hành các luật quan trọng bảo đảm quyền giám sát của MTTQ như sửa đổi Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam hiện hành, nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật về giám
sát của nhân dân.
Bùi Thị Nguyệt Thu (2015),”Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam thực
tiễn và một số kiến nghị”, tạp chí Dân Chủ và Pháp luật. Tác giả đã nhấn mạnh một
số kết quả trong quá trình thực hiện chức năng giám sát của MTTQ Việt Nam và chỉ
ra một số tồn tại, hạn chế dẫn đến hiệu quả, hiệu lực giám sát của MTTQ Việt Nam
còn thấp. Trên cơ sở đó tác giả chỉ ra nguyên nhân và một số kiến nghị để công tác
giám sát của MTTQ Việt Nam đi vào thực chất và hiệu quả.

5


Trần Thị Hồng Loan (2017), “Nâng cao vai trò giám sát và phản biện của
MTTQ tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện KHXH,
Hà Nội. Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ
Việt Nam; thực trạng hoạt động giám sát và PBXH của MTTQ tại Thành phố Hồ
Chí Minh và nêu quan điểm, giải pháp tăng cường hoạt động giám sát, PBXH của
MTTQ Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Vũ Thị Như Hoa (2013), Nâng cao chất lượng PBXH của MTTQ Việt Nam ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án
đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về PBXHvà vai trò của MTTQ Việt Nam

trong PBXH, khẳng định PBXH là xu thế tất yếu của sự phát triển, là nhu cầu của
cuộc sống và đưa ra hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng PBXH; đề xuất
phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng PBXH của
MTTQ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu, các sách chuyên khảo, các hội thảo
khoa học các cấp, tọa đàm, các bài báo về vấn đề QCN, bảo đảm QCN thời gian qua
đã luận giải từ nhiều góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn; từ ở phương diện
tư tưởng chính trị nền tảng cho đến những nghiên cưú mang tính chuyên sâu về
QCN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, phát triển lý luận nền
tảng và thực tiễn bảo đảm QCN ở Việt Nam. Cho đến nay, vấn đề QCN khơng cịn
là vấn đề “mới mẻ” hay “nhạy cảm”, cụm từ QCN đã hòa vào xã hội, trong tất cả
các thành tố của xã hội, đặc biệt là từ khi Hiến pháp 2013 đi vào cuộc sống. Bên
cạnh đó, để có được vị trí như hiện nay, QCN phải trải qua một quá trình phát triển
lâu dài với biết bao thăng trầm của lịch sử, với sự đóng góp công sức của rất nhiều
các cơ quan, tổ chức trong đó khơng thể thiếu vai trị của MTTQ Việt Nam. Tuy
nhiên, các nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của MTTQVN trong bảo đảm QCN ở
Việt Nam chưa nhiều, chưa giải quyết được các khó khăn và bất cập đặt ra trong bối
cảnh mới. Với cách tiếp cận dựa trên quyền con người và cách tiếp cận xã hội học,
luật học (tổng hợp, phân tích) luận văn sẽ làm sáng tỏ hơn một số khó khăn, bất cập
trong thực hiện vai tṛ đảm bảo QCN của MTTQ Việt Nam qua nghiên cứu trường
hợp ở huyện Hóc Mơn TP.HCM. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm phát huy vai

6


trò của MTTQVN trong việc bảo đảm QCN ở huyện Hóc Mơn nói riêng và của Việt
Nam nói chung.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng bảo đảm quyền con người

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn huyện Hóc Mơn, thành phố Hồ Chí
Minh; từ đó, chỉ ra những thành tựu, bất cập và đề xuất giải pháp nhằm phát huy vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bảo đảm QCN trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu khái quát cơ sở lý luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
việc bảo đảm quyền con người.
- Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền con người của MTTQVN qua nghiên
cứu trường hợp huyện Hóc Mơn, thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt
Nam huyện Hóc Mơn trong bảo đảm quyền con người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bảo đảm quyền con người.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn bảo đảm QCN của Mặt
trận tổ quốc huyện Hóc Mơn, thành phố Hồ Chí Minh
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu từ khi có luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật, về quyền con người, các quan điểm của Đảng về về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ QCN, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người: Coi việc hỗ trợ thực hiện,

7



thụ hưởng các quyền con người là mục tiêu chính trong các chính sách và chương
trình phát triển; Lấy các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về QCN làm định hướng
trong việc thiết lập và thực hiện các chính sách, chương trình phát triển; Làm rõ
những chủ thể quyền, chủ thể có trách nhiệm và các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ
của họ, từ đó hỗ trợ tăng cường năng lực trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ
và trách nhiệm
- Phương pháp xã hội học pháp luật: xem xét việc bảo đảm quyền con người
trong tổng thể các mối quan hệ pháp luật, để thấy được sự phản ánh của pháp luật cả
ở khía cạnh tiêu cực và tích cực.
- Phương pháp lịch sử cụ thể xem xét các vấn đề liên đến việc thực hiện vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người trong từng
thời điểm, hoàn cảnh lịch sử cụ thể
Ngồi ra, trong q trình thực hiện, người viết cũng tham khảo ý kiến các cán
bộ, đồng nghiệp trưởng thành từ hoạt động thực tiễn, có những ý kiến đánh giá sát
thực về phát huy vai trò của tổ chức Mặt trận tổ quốc trong bảo đảm quyền con
người, nhất là về những giải pháp cần tập trung thực hiện trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn vận dụng lý thuyết về thực thi pháp luật để nhìn nhận, đánh giá
việc thực hiện các giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc trong việc
bảo đảm quyền con người; từ đó chỉ ra những bất cập của quá trình thực thi và giải
pháp tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất được các giải pháp thiết thực, hữu hiệu góp phần phát huy vai trị
của của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong bảo đảm quyền con người.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bảo đảm
quyền con người.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam Huyện Hóc Mơn, thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Quan điểm và các giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam huyện Hóc Mơn trong bảo đảm quyền con người.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Một số vấn đề lý luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bảo
đảm quyền con người
1.1.1. Một số khái niệm công cụ
- Khái niệm Mặt trận, Mặt trận Tổ quốc:
Theo cách hiểu chung nhất: Mặt trận là một tập hợp các lực lượng, các tổ
chức, các cá nhân cùng theo đuổi một mục tiêu, một định hướng, một lý tưởng.
Mặt trận cũng được hiểu theo nghĩa là một liên minh chính trị rộng rãi. Tại
Điều 9 của Hiến pháp năm 2013 đã hiến định "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ
chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp
xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài" [18; tr.11].
Tại Điều 1.1 của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quy định: "Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài"
[22; tr.5].
Với ý nghĩa MTTQ Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị rộng rãi như trên
thì MTTQ cũng là tổ chức tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết
dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lập ra và lãnh đạo.
Chức năng của liên minh chính trị là hoạt động tham chính, tham gia vào

cơng việc của chính quyền Nhà nước, tham gia tổ chức thi hành đường lối, chính
sách và xây dựng cuộc sống, chăm lo lợi ích của các cộng đồng dân cư. Tùy theo
hoàn cảnh và nhiệm vụ cụ thể, chức năng cụ thể của Mặt trận có thể thay đổi.
Một trong những mục tiêu cơ bản của HTCT trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN, nền dân chủ với quảng đại
quần chúng, vì lợi ích của nhân dân. Nền dân chủ có sự thống nhất về cơ bản

9


giữa bản chất giai cấp cơng nhân với tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân
loại. MTTQ đóng vai trị là một liên minh chính trị, là khối đại đoàn kết dân tộc thể
hiện trên mấy vấn đề: MTTQ là nơi hiệp thương bầu cử các cơ quan quyền lực Nhà
nước ở Trung ương và ở địa phương. MTTQ thật sự thực hiện được chức năng tư
vấn và giám sát, phản biện xã hội đối với Nhà nước và với Đảng Cộng sản.
MTTQ Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong công tác vận động quần
chúng của Đảng, giữ vai trò to lớn trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có thành tích đó là nhờ: Hồ Chí Minh và
Đảng ta có ý thức sâu sắc về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Bởi vì Bác
Hồ và Đảng ta ln nhìn thấy ở mỗi người Việt Nam một người yêu nước và
MTTQ là sự tập hợp và nhân lên gấp bội nhiệt tình yêu nước ấy.
Các thành viên của MTTQ Việt Nam hiện nay gồm có:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam (thành lập 3/2/1930); có hơn 2,3 triệu đảng viên
[24, tr.51] là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp cơng nhân Việt Nam, đại biểu
cho lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động Việt Nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất hệ thống chính trị Việt Nam, vừa là thành
viên, vừa là người lãnh đạo MTTQ.
+ Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (thành lập 28/7/1929), là tổ chức chính
trị của giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiến
bộ, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

+ Hội Nơng dân Việt Nam (Cơng hội đỏ, thành lập 14/10/1930), là tổ chức
chính trị - xã hội với 7,685 triệu hội viên, chiếm trên 42% nông dân từ 18 tuổi trở
lên [24, tr.50].
+ Hội Cựu chiến binh Việt Nam (thành lập 06/12/1989), có 80 vạn hội viên
đại biểu cho khoảng 4,5 triệu cựu chiến binh (chiếm khoảng 15% dân số, trong đó
có trên 13% tham gia cấp ủy địa phương, 14% tham gia công tác trong các cấp ủy
đảng, chính quyền, đồn thể ở cơ sở, 48% đang lao động trong nông nghiệp, sinh
hoạt trong hơn 9.530 tổ chức hội cơ sở [24, tr.50].
+ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (thành lập tháng 20/10/1930), có trên 10
triệu hội viên, sinh hoạt trong hơn 19.930 tổ chức hội cơ sở; đại diện cho 52% lao

10


động xã hội [24, tr.51], là tổ chức chính trị, xã hội của một nửa thế giới, có nhiệm
vụ thực hiện quyền làm chủ của các chị, các mẹ trong các phong trào "Ba đảm
đang", "Giỏi việc nước, đảm việc nhà" và trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
+ Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (thành lập 26/3/1931), với 2,05
triệu đoàn viên (trong tổng số 20,5 triệu thanh niên), là tổ chức đại biểu cho trên
30% dân số, gần 50% lao động xã hội [24, tr.50], là tổ chức chính trị của thế hệ trẻ,
thế hệ tràn đầy nhựa sống sẽ tiếp nối sự nghiệp cha ông, thế hệ đã từng "Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai".
MTTQVN là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. MTTQVN có nhiệm vụ tập
hợp, xây dựng khối đại đồn kết tồn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh
thần trong nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ,
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và
cán bộ công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh,
kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân

dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân;
tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các
nước trong khu vực và trên thế giới''. ''Thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
các cấp bao gồm tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các cá nhân
tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người
Việt Nam ở nước ngoài. (Điều 1, Chương1, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam)'.
''Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo nguyên
tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động'.
- Khái niệm Quyền con người
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện. Xuất phát từ tính
đa diện này nên nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm dưới những cách tiếp
cận riêng.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về QCN phụ thuộc vào sự nhìn

11


nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn
phòng Cao ủy Liên hợp quốc về QCN (Office of High Commissioner for Human
Rights – OHCHR) thường được trích dẫn nhiều bởi các nhà nghiên cứu. Theo định
nghĩa này, QCN là những bảo đảm pháp lý tồn cầu (universal legal guarantees) có
tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc
sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép
(entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người.
Bên cạnh định nghĩa của OHCHR kể trên, một định nghĩa khác cũng thường
được trích dẫn, theo đó, QCN là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành
viên của cộng đồng nhân loại, khơng phân biệt giới tính, chủng tộc, tơn giáo, địa vị
xã hội...; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người [39, tr.20].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu, các cơ quan khác nhau cũng đưa ra những
khái niệm riêng. Những định nghĩa này khơng hồn tồn giống nhau, nhưng xét

chung, QCN thường được hiểu là những nhu cầu tự nhiên, vốn có của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Như vậy, có thể nói, mặc dù có nhiều quan điểm, cách đánh giá, tiếp cận
khác nhau song quyền con người luôn được luật pháp các nước tiến bộ thừa nhận và
bảo đảm thực hiện. Những chuẩn mực này được kết tinh từ những giá trị nhân văn
của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những
chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân
phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là
một con người. Đó là những quyền của con người, được có một cách tự nhiên gắn
bó mật thiết với con người (động vật cao cấp có tư duy, làm cho con người khác với
con vật), nhà nước có nghĩa vụ phải bảo đảm cho các QCN được thực hiện và nghĩa
vụ bảo vệ khi các QCN bị xâm phạm.
- Khái niệm bảo đảm quyền con người.
Để bảo đảm và bảo vệ QCN, cộng đồng thế giới đã thông qua nhiều điều ước
quốc tế về QCN. Trong đó, Tun ngơn tồn thế giới về QCN năm 1948, Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Cơng ước quốc tế về các quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 được coi là Bộ luật quốc tế về QCN. Việt Nam là

12


thành viên của hầu hết các công ước quốc tế về QCN chủ chốt, trong đó có Bộ luật
Nhân quyền quốc tế. Và, Chính phủ Việt Nam có nghĩa vụ và trách nhiệm Tôn
trọng, bảo vệ và thực hiện các QCN của công dân trước các cam kết quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết và việc nội luật hóa nội dung các Điều ước quốc tế vào pháp
luật Việt Nam. Các QCN, quyền công dân (QCD) ở Việt Nam được bảo đảm bằng
Hiến pháp và hệ thống các Bộ luật, luật và văn bản dưới luật, và được xác lập các
thiết chế bảo đảm và bảo vệ. Trường hợp các quy định của Điều ước quốc tế mà
Việt Nam tham gia nhưng chưa được nội luật hóa vào pháp luật quốc gia thì Việt
Nam có quyền sử dụng trực tiếp nội dung Cơng ước quốc tế vì mục tiêu bảo đảm và

bảo vệ QCN, QCD của người dân Việt Nam.
Để bảo đảm quyền con người, Nhà nước có nghĩa vụ:
- Thứ nhất: Tôn trọng quyền con người: Nghĩa vụ này địi hỏi các nhà nước
phải kiềm chế khơng can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp, vào việc hưởng thụ
các quyền con người đã được ghi nhận trong pháp luật. Đây được coi là một nghĩa
vụ thụ động (negative obligation) bởi lẽ khơng địi hỏi các nhà nước phải chủ động
đưa ra những sáng kiến, biện pháp hay chương trình nhằm hỗ trợ các cơng dân
trong việc hưởng thụ các quyền.
Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): Nghĩa vụ này đòi hỏi các
nhà nước phải ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền của các bên thứ ba. Đây được coi
là một nghĩa vụ chủ động (positive obligation) bởi để ngăn chặn sự vi phạm nhân
quyền của các bên thứ ba, các nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và
xây dựng các cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm.
Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil [4]): Nghĩa vụ này địi hỏi các
nhà nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các
quyền con người. Đây cũng được coi là nghĩa vụ chủ động, bởi nó yêu cầu các nhà
nước phải có những kế hoạch, chương trình cụ thể để bảo đảm cho mọi cơng dân
được hưởng thụ đến mức cao nhất có thể các quyền con người.
Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 có một số thay đổi cụ thể như: Khơng cịn đồng
nhất “quyền con người” với “quyền công dân” như ở Điều 50 Hiến pháp năm 1992,
mà sử dụng khá hợp lý hai thuật ngữ này cho từng lĩnh vực cụ thể khi Hiến pháp

13


quy định các quyền/tự do của cá nhân có quốc tịch Việt Nam - cơng dân và cá nhân
khơng có quốc tịch Việt Nam - quyền con người. Như vậy nhà nước ta đã ghi nhận
cả ba nghĩa vụ cơ bản của Nhà nước: tôn trọng, bảo vệ và thực hiện QCN. Đồng
thời, hiến pháp 2013 cũng bổ sung một nguyên tắc hiến định, đó là QCN, QCD chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc

phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng.
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn ngừa các cơ quan nhà, công
chức nhà nước tùy tiện giải thích và hạn chế các quyền hiến định, bởi nó nêu rõ
những lý do có thể được sử dụng để hạn chế QCN, QCD cùng với việc giới hạn chủ
thể duy nhất là Quốc hội mới có thể quyết định việc này (bằng luật), chứ không phải
bất cứ cơ quan nhà nước nào (bằng pháp luật).

Như vậy, có thể hiểu, bảo đảm QCN là việc các chủ thể trách nhiệm (nhà
nước, các cơ quan, ban ngành của nhà nước, công chức nhà nước,...) được Nhà
nước giao nhiệm vụ trong bảo đảm QCN thông qua các thể chế và thiết chế. Đó
là tổ chức thực hiện, đưa các QCN vào thực tiễn cuộc sống dựa trên các thể chế,
thiết chế và các điều kiện bảo đảm quyền, các chủ thể trách nhiệm có nghĩa vụ
bảo đảm, bảo vệ các QCN, QCD trên nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối
xử, QCN của tất cả mọi người.
1.1.2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bảo đảm quyền con
người.
1.1.2.1. MTTQ với vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân
Hiến pháp và Luật Mặt trận Tổ quốc 2015 đã quy định: MTTQ giám sát cơ
quan Nhà nước, các tổ chức xã hội thực hiện nghiêm chỉnh bầu cử, MTTQ kiểm tra
xem nơi nào làm khơng đúng quy trình hiệp thương, khơng làm đúng quy định của
luật pháp về bầu cử, MTTQ có thể kiến nghị với cơ quan chỉ đạo uốn nắn lại. Như
vậy trách nhiệm của MTTQ là hết sức to lớn. MTTQ, với tư cách là tổ chức đại biểu
cho ý chí và nguyện vọng của tồn dân có đủ tư cách tham gia xây dựng các chủ
trương, chính sách, pháp luật Nhà nước, như: tham gia xây dựng Hiến pháp, Luật
dân sự, Luật lao động, Luật hình sự... và tham gia xây dựng nhiều pháp lệnh, văn
bản pháp quy thuộc nhiều lĩnh vực liên quan đến lợi ích của các thành viên trong
MTTQ.

14



Một số hoạt động của MTTQ đã được luật hóa và được tiến hành có nề nếp
như tham gia tố tụng, tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu hội thẩm nhân dân, tham gia
xây dựng pháp luật. Đến nay, hầu hết ủy ban MTTQ các huyện, quận ở Thành phố
HCM đã xây dựng đươc quy chế phối hợp công tác giữa MTTQ với HĐND và
UBND cùng cấp.
Ủy ban MTTQ và các tổ chức thành viên các cấp đã phối hợp với chính quyền
cải tiến nội dung và quy trình tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và phối hợp
với chính quyền triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở, nhằm thực hiện dân chủ trực
tiếp của dân theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Thông
qua phương tiện thông tin đại chúng của MTTQ như báo Đại đoàn kết, báo của các
tổ chức thành viên và các phương tiện khác, MTTQ nêu những gương tốt, việc tốt,
thẳng thắn tố cáo những việc làm vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ đồng thời
thông qua UBMTTQ các cấp để kiến nghị với Nhà nước xử lý nghiêm những hành
vi vi phạm đó, góp phần đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, bảo vệ quyền
làm chủ của dân, nhất là ở cơ sở.
MTTQ là công cụ hiệu quả trong việc tham gia cơng tác hịa giải ở địa bàn
dân cư; góp phần cùng Đảng và chính quyền giải quyết, triệt phá các ngịi nổ có thể
dẫn tới các "điểm nóng" chính trị hiện nay, tổng hợp, nghiên cứu ý kiến, nguyện
vọng của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước.
Quyền làm chủ của nhân dân qua kênh MTTQ được Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam xác định tại Điều 2 "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp
và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị
của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân
Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới" [22; tr.5-6].

MTTQ là tổ chức tập hợp, phối hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, thể hiện

15


ý chí nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
MTTQ Việt Nam là thành viên chiến lược của hệ thống chính trị
Sự quy định MTTQ là thành viên trong HTCT là do yêu cầu khách quan của
sự nghiệp cách mạng, là xuất phát từ bản chất của thể chế chính trị dân chủ, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân.
Để phát huy hơn nữa vai trò của các cơ quan quyền lực Nhà nước do dân cử
cũng cần xác định lại cho đúng vị trí, vai trị của tổ chức MTTQ. Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ không chỉ thông qua tổ chức Nhà nước mà cịn thơng qua tổ
chức xã hội. Hướng phát triển của nền dân chủ XHCN và ngày càng phát huy vai tṛ
của các tổ chức xă hội th́ MTTQ có vai tṛ quan trọng. Đó là một nét khá độc đáo
trong quá trình cách mạng Việt Nam. Một trong những nguyên nhân thành công của
Đảng ta là "lấy dân làm gốc" và khéo vận dụng các hình thức tổ chức thích hợp của
MTTQ để đồn kết và động viên các tầng lớp nhân dân rộng rãi. Có thể nói một
cách hình ảnh, MTTQ là một của ba chân kiềng trong cơ chế Đảng, Chính quyền và
MTTQ. MTTQ phát huy được vai trị của mình càng làm vững thêm các thế kiềng
ba chân của cách mạng.
Qua các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp UBMTTQ các cấp
đã tổ chức hội nghị hiệp thương, giới thiệu đầy đủ các ứng cử viên; tổ chức đại biểu
dân cử tiếp xúc với cử tri, qua đó tạo được sự phấn khởi, nâng thêm tầm hiểu biết và
niềm tin trong dân.
Thực tế, MTTQ các cấp là cơ quan thường trực, trực tiếp chủ trì chỉ đạo,
phối hợp với chính quyền các cấp tổ chức các hoạt động để bầu cử (tập huấn, phổ
biến nội quy, quy chế, yêu cầu..) để thực hiện việc bầu ra cơ uan quyền lực của nhà
nước, bảo đảm thể hiện nguyện vọng, ý chí của nhân dân, bảo đảm đúng quy định
của pháp luật.

Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, theo quy định của
pháp luật về bầu cử, MTTQ Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu
những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; tham gia các tổ chức phụ
trách bầu cử; phối hợp với cơ quan Nhà nước hữu quan tổ chức hội nghị cử tri ở nơi
cư trú, các cuộc tiếp xúc giữa cử tri với những người ứng cử; tham gia tuyên truyền,

16


vận động cử tri thực hiện pháp luật về bầu cử; tham gia giám sát việc bầu cử đại
biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân.
MTTQ Việt Nam có quyền và trách nhiệm tham gia tố tụng, tham gia Hội
đồng tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu người đủ tiêu chuẩn để bầu, cử làm hội thẩm
tòa án nhân dân theo quy định của pháp luât.
1.1.2.2 Là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân
Hiến pháp năm 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 ghi nhận ý
vai trò lịch sử và ý nghĩa chính trị to lớn của MTTQ. Như vậy, chức năng đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân của MTTQ, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội ngày càng được thể hiện rõ nét trong các văn bản
của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực hiện quyền và trách nhiệm của mình,
MTTQVN đã phát huy ngày càng rõ nét hơn vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
- Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật, thực hiện
quyền làm chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, xây dựng và phát huy khối đại đoàn
kết toàn dân tộc
- Mặt trận đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Đảng, Nhà nước và phối hợp
thống nhất hành động với các tổ chức thành viên tăng cường tuyên truyền, vận
động, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức đa dạng từ trung
ương đến cơ sở, khu dân cư, đến từng nhóm đối tượng, hộ dân, hội viên, đoàn viên,
tạo sự đồng thuận, thống nhất và ổn định xã hội. Ủy ban Trung ương MTTQVN đã

ban hành và triển khai thực hiện Đề án “Đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền
của MTTQVN”, trọng tâm là hoàn thiện về cơ chế, phương thức, củng cố phương
tiện, lực lượng làm công tác thông tin, truyền thông từ trung ương đến cơ sở. Đội
ngũ báo cáo viên, tun truyền viên, cộng tác viên, nhóm nịng cốt nắm tình hình,
dư luận trong nhân dân được củng cố và hoạt động hiệu quả hơn. Hệ thống báo chí
của Mặt trận và các đoàn thể ở Trung ương, bản tin công tác Mặt trận ở các địa
phương được nâng cao về chất lượng và phát hành đến khu dân cư. Thông qua hệ
thống truyền thông và lực lượng đông đảo báo cáo viên, tuyên truyền viên của Mặt
trận và các tổ chức thành viên, kết hợp với các cơ quan truyền thông của Đảng và

17


Nhà nước đã kịp thời cung cấp thông tin, đưa các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, chương trình cơng tác của Mặt trận đến với các tầng lớp nhân dân.
- MTTQ đã thực hiện tốt vai trị chủ trì trong việc phát động và tổ chức thực
hiện các cuộc vận động đến đông đảo các tầng lớp nhân dân, phát huy tinh thần thi
đua sáng tạo và nguồn lực trong xã hội góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước.
1.1.2.3. Là tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội
Hoạt động của MTTQVN góp phần tạo sự đồng thuận ngày càng cao trong
xã hội; thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân ý thức về
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình, đồng thuận và tích cực thực hiện
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
1.1.2.4 Vai trò giám sát, phản biện xã hội
Hoạt động giám sát của MTTQVN, các tổ chức chính trị - xã hội là một trong
những hình thức của cơ chế kiểm sốt QLNN. Đó là hoạt động theo dõi, quan sát,
xem xét của MTTQ và Cơng đồn, Hội Nơng dân, Đồn Thanh niên Cộng sản
(TNCS) Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN), Hội Cựu chiến binh (CCB)

nhằm tác động, định hướng các đối tượng bị giám sát thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Khác với cơ chế kiểm soát quyền lực bên
trong bộ máy nhà nước, hậu quả pháp lý trong cơ chế pháp lý kiểm sốt quyền từ
bên ngồi khơng có tính cưỡng chế nhà nước mà kết quả kiểm sốt được thể hiện
dưới dạng kiến nghị hoặc thơng qua dư luận xã hội, gửi “thông điệp” đến CQNN,
người có thẩm quyền để xử lý đối với cán bộ, cơng chức, viên chức, các CQNN có
hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của cơ
chế pháp lý kiểm soát QLNN, hướng đến mục tiêu bảo đảm QLNN được sử dụng
đúng mục đích, đạt hiệu quả, ngăn ngừa và hạn chế tình trạnh lạm quyền, tham
nhũng QLNN. Cơ chế kiểm sốt QLNN phải bảo đảm tính độc lập tương đối của
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời, phải bảo đảm sự kết hợp giữa

18


các hình thức giám sát của Nhà nước (giám sát Quốc hội, HĐND), hoạt động kiểm
tra, thanh tra của Nhà nước với các hình thức giám sát của MTTQ, các tổ chức
chính trị - xã hội. Do vậy, mơ hình giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã
hội phải bảo đảm các thiết chế giám sát không bị phụ thuộc vào đối tượng chịu sự
giám sát. Pháp luật phải bảo đảm MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội khơng bị
lệ thuộc vào chính đối tượng bị giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế. Ngồi
ra, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội phải thể hiện được hết vai trò giám sát
của mình một cách chủ động và độc lập với các chủ thể giám sát khác. Các CQNN,
cán bộ, cơng chức, viên chức và người có thẩm quyền phải có trách nhiệm cung cấp
thơng tin, tài liệu liên quan đến nội dung giám sát; trao đổi những vấn đề liên quan
theo đề nghị của chủ thể giám sát; góp ý vào dự thảo báo cáo giám sát khi được chủ
thể giám sát đề nghị. CQNN, người có thẩm quyền phải tổ chức thực hiện và trả lời
kiến nghị giám sát bằng văn bản cho chủ thể giám sát của Nhân dân theo quy định.
Hoạt động giám sát của MTTQVN được thực hiện bằng các hình thức sau:

MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp và tham gia các hoạt động giám
sát với Quốc hội và HĐND các cấp; thường xuyên “cử đại diện tham gia các đoàn
giám sát do Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, HĐND, các
ban của HĐND tiến hành đã giúp Ủy ban MTTQ phát hiện và kiến nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý những vi phạm pháp luật trong hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước”[5]. Hoạt động phối hợp này đã tạo ra bầu
khơng khí cởi mở và tạo ra sự đồng thuận giữa chủ thể và các đối tượng giám sát
trong việc tìm kiếm giải pháp để giải quyết những kiến nghị về giám sát.
Để thực hiện tốt chức năng quan trọng này, cần sự đổi mới căn bản về nhận
thức và phương thức hoạt động của MTTQ và các đồn thể các cấp. Chính phủ
và Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành quy chế phối hợp trong việc
giám sát hoạt động của cơ quan chính quyền và của cán bộ, cơng chức nhưng trên
thực tế chủ trương này chưa đi vào cuộc sống, chưa đủ những điều kiện cần thiết để
MTTQ các cấp triển khai thực hiện. Một số địa phương đề ra chủ trương và ban
hành các quyết định không được sự đồng thuận cao của nhân dân, trước hết là do
không tạo điều kiện để nhân dân tham gia ý kiến trực tiếp hoặc thông qua người đại

19


diện của nhân dân là MTTQ và các đoàn thể chính trị xã hội.
Giám sát và phản biện xã hội khơng phải là “bới lơng tìm vết” để phản
kháng, bác bỏ mà bản chất của hoạt động này mang tính xây dựng, làm cho các
quyết định của cơ quan Đảng, chính quyền được hồn thiện hơn, đúng đắn hơn, phù
hợp với ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân và có tính khả thi cao; giúp
cho đảng viên, cán bộ thấy được những khiếm khuyết, góp phần đấu tranh, ngăn
chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên.
Để MTTQVN làm tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, tổ chức Đảng,
chính quyền, cơ quan Nhà nước các cấp, trước hết là người đứng đầu, cần đổi mới
nhận thức, coi giám sát và phản biện xã hội là một khâu trong quy trình xây dựng đề

án, dự án trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết định. Mặt khác, Nhà nước ta
là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý và điều hành đất nước theo Hiến pháp
và pháp luật, vì vậy trên cơ sở thực hiện quy chế của Bộ Chính trị, từng bước rút
kinh nghiệm, tiến tới cần có Luật về giám sát và phản biện xã hội. Hằng năm,
MTTQ lựa chọn những vấn đề có quan hệ trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của nhân dân, những vấn đề mà các thành viên của MTTQ và dư luận xã hội quan
tâm…, để xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát và phản biện xã hội.
Đối tượng giám sát của MTTQ là các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ
sở và đảng viên, cán bộ, công chức. Để hoạt động giám sát bảo đảm thật sự dân chủ,
công khai, khách quan, xây dựng cần củng cố và phát huy vai trò của ban cơng tác
mặt trận thơn, tổ dân phố có đại diện của các cụm dân cư, tổ dân phố, đây là những
người trực tiếp sống với dân, gần dân, lắng nghe được nhiều ý kiến nguyện vọng
của dân. Để khắc phục tình trạng hình thức trong thực hiện Quy định 76-QĐ/TW
ngày 15/6/2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII), hằng năm Cấp ủy nơi đảng viên, cán
bộ, công chức cư trú, căn cứ vào kết quả giám sát, gửi nhận xét đến cấp ủy nơi công
tác hoặc gửi đến cơ quan quản lý cán bộ, đảng viên.
Trách nhiệm của MTTQVN: xây dựng kế hoạch phản biện xã hội; yêu cầu cơ
quan, tổ chức gửi dự thảo văn bản và thông tin cần thiết. Tổ chức phản biện, gửi văn
bản kiến nghị đến cơ quan, tổ chức dự thảo văn bản. Yêu cầu cơ quan soạn thảo trả
lời bằng văn bản đối với kiến nghị của mình; trường hợp cơ quan dự thảo văn bản

20


khơng tiếp thu thì u cầu có giải trình; tổ chức đối thoại khi cần thiết.
Đối với cơ quan, tổ chức được phản biện phải có trách nhiệm gửi dự thảo văn
bản cần phản biện đến MTTQ Việt Nam trong thời hạn ít nhất là ba mươi ngày
trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết định; cung cấp thơng tin cần thiết. Cử
người có trách nhiệm tham dự hội nghị phản biện hoặc tham gia đối thoại khi
MTTQ Việt Nam có yêu cầu. Trả lời bằng văn bản về việc tiếp thu ý kiến phản biện

đến MTTQ Việt Nam; báo cáo ý kiến phản biện của MTTQ Việt Nam với cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền ban hành.
Quan điểm của Đảng về vai trò giám sát của MTTVN được thể chế hóa tại
Điều 9, Hiến pháp 2013, Luật MTTQ Việt Nam và một số văn bản pháp luật khác.
Để thực hiện tốt chức năng giám sát, thì phải có hoạt động phản biện. Bởi lẽ,
MTTQ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân thì thơng tin cũng phải có hai
chiều. Thơng qua hoạt động phản biện xã hội, sẽ góp phần nâng cao vai trị của
MTTQ Việt Nam trong việc xây dựng, tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng
nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Do phản biện xã hội là một nhiệm vụ mới, khó và nhạy cảm, hoạt động này
nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và qui định của Nhà nước. Vì vậy,
MTTQ Việt Nam cần kiến nghị đề xuất với Đảng có nghị quyết hoặc chỉ thị chuyên
đề và Nhà nước cần thể chế hóa bằng văn bản pháp luật về phản biện xã hội, để qui
định rõ về đối tượng, phạm vi, nội dung, hình thức, cơ chế cụ thể và điều kiện đảm
bảo thì MTTQ Việt Nam mới thực hiện tốt được vai trò phản biện xã hội.
1.1.2.5 Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Đảng cộng sản Việt Nam
Trong quan hệ bình đẳng, Đảng tham gia MTTQ có nghĩa vụ như mọi thành
viên khác. Đảng lãnh đạo MTTQ, Đảng phải ở trong MTTQ. Sự lãnh đạo của Đảng
đối với MTTQ là vấn đề có tính ngun tắc, bảo đảm cho MTTQ không ngừng
được củng cố và mở rộng.

21


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước cộng hịa XHCN Việt Nam.
Mặt trận Dân tộc thống nhất góp phần quan trọng vào việc thành lập Nhà

nước kiểu mới ở Việt Nam.
Mặt trận Việt Minh đã tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân đứng lên
giành chính quyền, giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ toàn bộ quyền
lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam là tổ chức tiền thân của Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Mặt trận tham gia xây dựng, củng cố chính quyền vững mạnh.
UBMTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên các cấp giúp đỡ đại biểu
HĐND cùng cấp làm nhiệm vụ đại biểu, tạo điều kiện cho đại biểu tiếp xúc với cử
tri, thu thập ý kiến, nguyện vọng và kiến nghị của nhân dân với HĐND.
Tổ chức Nhà nước, tổ chức MTTQ đều là đại diện cho các tầng lớp nhân dân
rộng rãi, thơng qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhà nước quản
lý xã hội theo pháp luật, MTTQ là chỗ dựa của chính quyền, động viên nhân dân
tham gia xây dựng chính quyền và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Hoạt động của Nhà nước mang tính quyền lực từ trên
xuống. Hoạt động của MTTQ mang tính chất vận động quần chúng từ cơ sở. Nhà
nước là quyền lực, MTTQ là lòng dân.
1.2. Các phương thức đảm bảo quyền con người của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
1.2.1 Thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri
MTTQVN tham gia tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp trước và sau mỗi kỳ họp. Qua các
cuộc tiếp xúc đó, MTTQ tập hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân cả
nước để báo cáo tại các kỳ họp của Quốc hội và HĐND các cấp, thực hiện và bảo
đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của nhân dân. Điều 9 Hiến pháp
2013 và Điều 3 của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều ghi nhận hoạt động tập
hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để phản ánh, kiến nghị với

22



×