VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
PHAN HỒNG HẢI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN CẠNH TRANH QUỐC GIA
THEO LUẬT CẠNH TRANH 2018
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
PHAN HỒNG HẢI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN CẠNH TRANH QUỐC GIA
THEO LUẬT CẠNH TRANH 2018
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
Hà Nội, năm 2021
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1988, Việt Nam chính thức tham gia APEC - Diễn đàn hợp tác kinh
tế châu Á – Thái Bình Dương. Đây là một dấu mốc quan trọng, mở ra một
thời kỳ đổi mới, cải cách, tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng. Chỉ ít năm sau đó, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) vào đầu năm 2007. Mười năm sau, sự kiện APEC 2017
được Việt Nam tổ chức thành công như một lời khẳng định về vai trò, vị thế
mới của nước ta trong cộng đồng quốc tế. Cùng với bối cảnh của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, mà ở đó những thay đổi, tiến bộ ảnh hưởng sâu
rộng từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội, và mới đây nhất là việc Hiệp
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu
lực tại Việt Nam, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) cũng
từng bước hồn thiện, đó là những cơ hội không thể tuyệt vời hơn để nước ta
thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh chóng, mở cửa thị trường, các hoạt động
liên quan đến xuất nhập khẩu, sở hữu trí tuệ, kỹ thuật thương mại, tạo dựng
môi trường cạnh tranh, đầu tư - kinh doanh thông thống và lành mạnh.
Xun suốt trong q trình đó, việc Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế
thế giới đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội, từ đó đạt được nhiều kết quả khá tích cực, tồn diện trên các lĩnh
vực. Tuy nhiên, tốc độ hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế - xã hội
nhanh chóng trong những năm vừa qua đã khiến mơi trường kinh doanh và mơi
trường pháp lý trong nước có nhiều khác biệt so với thời điểm Luật Cạnh tranh
mới được ban hành lần đầu tiên ở Việt Nam, đặt ra những khó khăn, thách thức
mới cho q trình thực thi pháp luật cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh là văn bản quy phạm pháp luật cịn non trẻ, với nguồn
thơng tin và các tài liệu tham khảo trong lĩnh vực này tại Việt Nam còn khan
1
hiếm. Cũng trong thời gian đó đã có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành, bổ sung hoặc sửa đổi. Do các đặc thù riêng, thông lệ kinh
doanh riêng của một số ngành, lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,
viễn thơng… các cơ quan chức năng đã quy định thêm nhiều nội dung điều
chỉnh hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành. Ngoài ra, Bộ
luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) hiện đã bổ sung quy định
tại Điều 217 về Tội vi phạm quy định về cạnh tranh. Những điều này dẫn đến
một số nội dung của Luật Cạnh tranh cũ khơng cịn phù hợp.
Theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004, có hai cơ quan cạnh tranh độc
lập với nhau bao gồm Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.
Tuy nhiên trong thời gian qua, mơ hình hai cơ quan nói trên đã bộc lộ nhiều
bất cập, không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn: Kéo dài quá trình giải quyết
vụ việc cạnh tranh, nguồn lực bị phân tán khiến việc giải quyết vụ việc cạnh
tranh chưa được tập trung, kết quả giải quyết vụ việc luôn đi sau diễn biến của
thị trường và chưa thể hiện vai trò can thiệp kịp thời của Nhà nước để khắc
phục những khiếm khuyết của thị trường. Bên cạnh đó, việc duy trì cơ chế
kiêm nhiệm trong hoạt động của thành viên Hội đồng cạnh tranh dẫn đến sự
thiếu tập trung trong quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh. [25]
Vì vậy, để tránh chồng chéo, mâu thuẫn và đảm bảo sự hài hòa giữa mục
tiêu phát triển ngành và mục tiêu tạo lập, duy trì và thúc đẩy môi trường cạnh
tranh hiệu quả, cũng như đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp
luật địi hỏi cần có các điều chỉnh tương ứng trong pháp luật cạnh tranh. Tại
kỳ họp thứ 5 ngày 12 tháng 6 năm 2018, Luật Cạnh tranh được Quốc hội khóa
XIV thơng qua và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm
2019, thay thế cho Luật Cạnh tranh năm 2004 sau hơn 14 năm thi hành. Luật
Cạnh tranh năm 2018 tiếp tục kế thừa, phát triển, bổ sung những điểm tiến bộ
so với Luật cũ.
2
Đáng kể nhất theo quan điểm của tác giả, đó là Luật Cạnh tranh năm 2018
đã quy định thành lập Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia với vai trò là cơ quan đơn
nhất tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công thương thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về cạnh tranh và trực tiếp thực hiện việc điều tra, xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật về cạnh tranh trên cơ sở hợp nhất, tổ chức lại Cục Cạnh
tranh và Bảo vệ người tiêu dùng và Hội đồng cạnh tranh (gồm Văn phòng Hội
đồng cạnh tranh). [25] Cơ quan cạnh tranh quốc gia được quy định tại Luật
Cạnh tranh năm 2018 với sự đổi mới về cả tên gọi, vai trị, vị trí và quy mơ so
với mơ hình trước đây quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004. Tuy nhiên,
vì cịn q mới mẻ, Cơ quan này vẫn chưa đi vào hoạt động và được hướng
dẫn cụ thể cách thức vận hành. Tác giả chọn Đề tài: “Tổ chức và hoạt động
của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia theo Luật Cạnh tranh 2018” làm đề tài
luận văn thạc sĩ Luật học, với mong muốn làm rõ thêm về mặt lý luận cũng
như đánh giá về việc thực thi pháp luật của tổ chức này để từ đó đưa ra các
kiến nghị, giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả vai trò của cơ quan cạnh
tranh tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những nghiên cứu về cơ quan cạnh tranh tại Việt Nam chưa thật sự sôi
nổi như nhiều lĩnh vực nghiên cứu truyền thống khác, một phần vì sự mới mẻ
cũng như kinh nghiệm thực tiễn ít ỏi trong lĩnh vực Tố tụng cạnh tranh. Mặt
khác trên phương diện quốc tế, vì pháp luật cạnh tranh là một lĩnh vực mang
tính đặc thù, vì vậy mơ hình Tố tụng cạnh tranh phụ thuộc vào cách thức tổ
chức bộ máy quyền lực nhà nước của mỗi quốc gia, vì vậy các cơng trình
nghiên cứu này chỉ có giá trị tham khảo, chọn lọc các điểm phù hợp, tiến bộ
nhằm áp dụng tại Việt Nam.
3
Nghiên cứu về địa vị pháp lý, thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ
thống cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay có các cơng trình tiêu biểu
như:
“Mơ hình Cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam”, năm 2004 của
Dương Đăng Huệ, Nguyễn Hữu Huyên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1
năm 2004;
“Giáo trình Luật Cạnh tranh”, năm 2010 của Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân
Bắc và Nguyễn Ngọc Sơn, ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh;
“Cơ quan Quản lý cạnh tranh ở Việt Nam – Những bất cập và phương
hướng hồn thiện”, năm 2011 của Trương Hồng Quang, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp số 6, 3/2011;
“Giáo trình pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại
(tái bản lần 1, có sửa đổi bổ sung)” năm 2020 của trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh;
“Bàn về tính độc lập của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia theo Luật Cạnh
tranh năm 2018”, năm 2020 của Bùi Xuân Hải, Tạp chí khoa học pháp lý Việt
Nam số 5/2020 (Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh).
Từ những kết quả nghiên cứu đã đạt được của các cơng trình tiêu biểu nêu
trên, luận văn sẽ tiếp tục được kế thừa, phát triển, làm rõ hơn nữa những vấn
đề về lý luận, bản chất của Cơ quan quản lý cạnh tranh tại Việt Nam theo
Luật Cạnh tranh năm 2018.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ cơ sở lý luận về cơ quan
cạnh tranh; Phân tích các quy định trong mơ hình cơ quan cạnh tranh của một
số quốc gia tiêu biểu trên thế giới về những vấn đề cơ bản trong tổ chức, hoạt
động, những điểm nổi bật, đáng chú ý về mặt nội dung cũng như thực tiễn thi
4
hành; Từ đó đề xuất các kiến nghị về định hướng sửa đổi, bổ sung các quy
định trong Luật Cạnh tranh Việt Nam hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, trên cơ sở tiếp thu những
tiến bộ của thế giới cũng như sự phù hợp với bối cảnh kinh tế, xã hội của Việt
Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề
sau:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của Cơ quan cạnh tranh
quốc gia;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia ở Việt Nam hiện nay;
- Nghiên cứu so sánh các quy định pháp luật về cơ quan cạnh tranh ở Việt
Nam hiện nay với quy định pháp luật của các quốc gia có bề dày kinh nghiệm
và truyền thống về xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật cạnh tranh trên
thế giới, để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp
luật về bộ máy cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam;
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện bộ máy
Cơ quan cạnh tranh quốc gia.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hiện nay ở Việt Nam, chỉ có Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định về Ủy ban
Cạnh tranh Quốc gia. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Cơ quan cạnh tranh tại Việt Nam, bao gồm các vấn đề về nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu, những vấn đề liên quan đến Cơ quan cạnh tranh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
5
Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Ủy
ban Cạnh tranh Quốc gia, cụ thể là về vị trí và chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn, cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động của cơ quan này trên cơ sở đánh
giá từ các quy định hiện hành được quy định trong Luật Cạnh tranh 2018 và
phân tích các yếu tố tác động đến quá trình triển khai thực hiện hoạt động của
cơ quan này.
Phạm vi không gian: Việt Nam, một số quốc gia phát triển và đang phát triển
trong khu vực ASEAN; Một số quốc gia có kinh nghiệm ban hành và thực thi
pháp luật cạnh tranh, đại diện cho các khu vực khác nhau trên thế giới.
Phạm vi thời gian: Các quy định pháp lý mới nhất về cạnh tranh được các
quốc gia tiêu biểu trên thế giới hiện đang thi hành.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu của đề tài đối với từng nội dung
của luận văn, đề tài được sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp so sánh; Phương pháp hệ
thống hóa. Cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp: Tổng hợp một cách có chọn
lọc những quy định của Pháp luật về cơ quan thực thi pháp luật về cạnh tranh;
Trên cơ sở kiến thức được tổng hợp, phương pháp phân tích được sử dụng
nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý luận về cơ cấu tổ chức, hoạt động của cơ quan đó.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh, đối chiếu các quy định
của Pháp luật trong nước và nước ngồi có liên quan. Phương pháp so sánh
được sử dụng nhằm mục đích tạo ra sự liên kết về mặt lý luận, rút ra bài học
kinh nghiệm, từ đó đề xuất cho Việt Nam.
- Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng xun suốt tồn bộ đề tài nhằm
trình bày các vấn đề, nội dung theo một trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, gắn
kết, phát triển những nội dung mới của đề tài.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt khoa học, luận văn là cơng trình nghiên cứu khá toàn diện về
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia theo Luật Cạnh
tranh năm 2018, góp phần giúp các nhà lập pháp, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các nhà nghiên cứu trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy Ủy ban
Cạnh tranh Quốc gia.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận v ă n góp phần nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, đồng thời
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các nhà lập pháp và tổ
chức trong công tác xây dựng pháp luật về cạnh tranh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Danh mục viết tắt, Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn được chia thành các chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Cơ quan cạnh tranh quốc gia
Chương 2: Quy định về tổ chức và hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh Quốc
gia theo Luật Cạnh tranh 2018
Chương 3: Kiến nghị thi hành pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ủy ban
Cạnh tranh Quốc gia
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
CƠ QUAN CẠNH TRANH QUỐC GIA
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của Cơ quan cạnh tranh quốc gia
Ngày nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp thuật ngữ "Cạnh tranh" trong rất nhiều
lĩnh vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao.
Tuy nhiên cho đến nay, các nhà khoa học dường như chưa thể thoả mãn với
bất cứ khái niệm nào về cạnh tranh. Bởi lẽ với tư cách là một hiện tượng xã
hội riêng có của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất hiện ở mọi lĩnh vực,
mọi cơng đoạn của q trình kinh doanh và gắn liền với bất cứ chủ thể nào
đang hoạt động trên thị trường. Do đó, cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều góc
độ khác nhau tùy thuộc vào ý định và hướng tiếp cận của các nhà khoa học.
[34, tr. 10]
Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ: “Cạnh tranh (kinh tế) là
giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản
lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có”. [1]
Theo cách hiểu phổ thông thể hiện trong Từ điển ngôn ngữ tiếng Anh,
“competition” (cạnh tranh) là “một sự kiện hoặc một cuộc đua, theo đó các
đối thủ ganh đua để giành phần hơn hay ưu thế tuyệt đối về phía mình”. Theo
Từ điển tiếng Việt, “cạnh tranh” là “cố gắng giành phần hơn, phần thắng về
mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như
nhau”. [24]
Với tư cách là động lực nội tại trong mỗi một chủ thể kinh doanh, cạnh
tranh được cuốn Black’Law Dictionary diễn tả là “sự nỗ lực hoặc hành vi của
hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ
thể thứ ba”. Với tư cách là hiện tượng xã hội, theo cuốn Từ điển Kinh doanh
của Anh xuất bản năm 1992, cạnh tranh được định nghĩa là “sự ganh đua, sự
8
kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên
hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”. [34, tr. 11]
Ở góc độ thương mại, cạnh tranh là một trận chiến giữa các doanh nghiệp
và các ngành kinh doanh nhằm chiếm được sự chấp nhận và lòng trung thành
của khách hàng. Hệ thống doanh nghiệp tự do đảm bảo cho các ngành có thể
tự mình đưa ra các quyết định về mặt hàng cần sản xuất, phương thức sản
xuất, và tự định giá cho sản phẩm hay dịch vụ. [1]
Chúng ta thường bắt gặp sự cạnh tranh giữa những doanh nghiệp, nhà sản
xuất, phân phối với nhau, họ có thể là những đối thủ trong cùng một ngành
hay giữa những ngành khác cùng cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh cũng có thể
xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán
hàng hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá
thấp. [1]
Kết quả của quá trình cạnh tranh là sự cải thiện về bình quân hóa tỷ suất
lợi nhuận giữa các ngành khác nhau, dẫn đến hệ quả là giá cả có thể giảm đi.
Mặt khác, kết quả của sự cạnh tranh trong nội bộ ngành sẽ kéo chất lượng sản
phẩm, dịch vụ tăng lên, tỷ lệ thuận với yêu cầu phát triển nâng cao kỹ thuật,
nghiệp vụ.
Cùng với sự phát triển của thị trường và nhận thức của con người về môi
trường tồn tại của mình, trong đó có mơi trường của đời sống kinh tế, pháp
luật cạnh tranh ngày càng được hoàn thiện và trở thành chế định pháp luật cơ
bản của pháp luật kinh tế, góp phần làm cho thị trường vận hành ổn định và
hiệu quả.
Nhìn chung trên thế giới, Luật Cạnh tranh được áp dụng đối với mọi hoạt
động từ sản xuất, phân phối đến tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Luật Cạnh tranh
điều chỉnh bất kỳ chu trình nào của quá trình kinh doanh nhằm bảo vệ thị
trường, bảo vệ các doanh nghiệp và bảo vệ người tiêu dùng. [23] Từ lịch sử
9
xây dựng và phát triển pháp luật cạnh tranh trên thế giới đã cho thấy một thực
tế là, cơ quan quản lý cạnh tranh có vai trị quyết định trong việc bảo đảm
thực thi Luật Cạnh tranh.
Theo quan điểm của tác giả. Có thể hiểu “Cơ quan cạnh tranh quốc gia là
cơ quan thực thi và kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước, có chức năng
điều tiết, đảm bảo thực hiện chức năng thay mặt nhà nước điều hành xã hội
trong lĩnh vực cạnh tranh trên phạm vi lãnh thổ”.
Hay nói cách khác, Cơ quan cạnh tranh quốc gia là cơng cụ của Chính phủ
trong việc quản lý nhà nước về cạnh tranh, nhưng đồng thời cơ quan này cũng
có quyền tiến hành các hoạt động điều tra, ra các quyết định phán xử đúng –
sai và áp dụng các chế tài với quy trình ra quyết định gần tương tự như tố
tụng của tòa án. [19, tr. 1]
Trên thế giới, việc quản lý và thực thi pháp luật cạnh tranh có thể được
giao cho một cơ quan chuyên trách, nhưng cũng có thể do nhiều cơ quan khác
nhau thực hiện. [18, tr. 309] Mỗi quốc gia tùy điều kiện kinh tế - xã hội cụ
thể của mình mà có cách xây dựng mơ hình cơ quan quản lý cạnh tranh khác
nhau, song mục đích thành lập ra nó thì chỉ có một, đó là góp phần thực thi
Luật Cạnh tranh một cách có hiệu quả nhất. [21, tr. 1] Cho dù tổ chức theo
mơ hình nào, nhìn chung, cơ quan cạnh tranh được thiết lập trong pháp luật
cạnh tranh của các quốc gia thường có những đặc điểm cơ bản sau đây: [18, tr.
312]
Thứ nhất, chức năng quan trọng nhất của cơ quan cạnh tranh ở các nước
là đảm bảo thực thi pháp luật cạnh tranh, bảo vệ cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, chống các hành vi hạn chế cạnh tranh, cản trở cạnh
tranh. Đây là chức năng và nhiệm vụ cơ bản, quan trọng và đặc trưng nhất của
cơ quan quản lý cạnh tranh.
10
Thứ hai, tổ chức và hoạt động của cơ quan cạnh tranh thường trên
nguyên tắc độc lập để đảm bảo tính cơng bằng, khách quan trong hoạt động.
Các nước đều có các thiết chế pháp lý để đảm bảo rằng hoạt động của cơ quan
này sẽ không bị lệ thuộc và chi phối bởi bất kỳ cơ quan hay tổ chức nào khác.
Tính độc lập của cơ quan cạnh tranh cũng được thể hiện qua địa vị pháp lý của
nó và thẩm quyền bổ nhiệm, cách chức thành viên của cơ quan này. Về nguyên
tắc, thành viên của cơ quan quản lý cạnh tranh cần phải liêm chính, có trình độ
và làm việc độc lập, khách quan. Tất cả những yêu cầu trên được đặt ra để đảm
bảo rằng cơ quan cạnh tranh có thể thực thi các chức năng, quyền hạn của mình
một cách độc lập, khơng bị ảnh hưởng bởi các cá nhân hay cơ quan khơng có
thẩm quyền.
Thứ ba, với chức năng tổ chức thực thi pháp luật cạnh tranh và bảo vệ
cạnh tranh, cơ quan cạnh tranh thường có chức năng tiếp nhận các khiếu nại, tố
cáo và tiến hành điều tra các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh
và ra các quyết định xử lý đối với các hành vi vi phạm đó. Như vậy, cơ quan
cạnh tranh thường tiến hành tất cả các hành động cần thiết từ khi tiếp nhận
thông tin, khiếu nại cho đến khi cho ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
1.2.
Nhu cầu thành lập Cơ quan cạnh tranh quốc gia
Cạnh tranh có vai trị quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng và
trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất tiến bộ, góp
phần vào sự phát triển kinh tế. Mục tiêu của cạnh tranh là thu hút khách hàng
về phía mình, chính vì vậy nó buộc các nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch
vụ phải có chiến lược đúng đắn và lâu dài, nhằm tạo ra sản phẩm, dịch vụ với
chất lượng cao nhất và giá thành phù hợp nhất. Sự cạnh tranh buộc người sản
xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng,
tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những
tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện
11
cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Dù bất kỳ ngành nghề hay lĩnh vực nào
nếu thiếu đi sự cạnh tranh thì thường khơng có đột phá, kém phát triển.
Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và nền kinh tế, đặc
biệt là cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản
phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức
khoa học, cơng nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng, thỏa mãn được nhu cầu
và xu hướng của thị trường tiêu dùng. [1] Sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp càng lớn thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng
có chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng
giá trị tối ưu đối với những đồng tiền mà họ bỏ ra cho sản phẩm, dịch vụ đó.
Thế nhưng bên cạnh những mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những
hệ quả tiêu cực không mong muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã
hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có
những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn
vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Những tác động tiêu cực thể hiện ở
cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi
phạm pháp luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại,...) hoặc những hành vi
cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại mơi trường sinh thái. [1]
Vì lý do trên nên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi
các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước. Từ đó, các cơ quan quản lý
cạnh tranh của các quốc gia ra đời và liên tục đổi mới để phù hợp với thực
tiễn xã hội, đảm bảo thích ứng với mơi trường kinh doanh. Ngồi ra, việc cập
nhật, đổi mới tiến bộ của Cơ quan cạnh tranh quốc gia còn giúp pháp luật
cạnh tranh nước này đáp ứng các yêu cầu trong xu thế hội nhập quốc tế. Dù
với mơ hình nào, tên gọi ra sao, tất cả đều có chung một mục đích là giúp cho
các thực thể kinh tế có cơ hội tiếp cận, bình đẳng cạnh tranh, bảo vệ người
12
tiêu dùng thơng qua việc khuyến khích hạ giá và cải thiện chất lượng sản
phẩm. Đây được xem như một hệ quả của cạnh tranh tự do và lành mạnh trên
thị trường, và trách nhiệm của Cơ quan cạnh tranh quốc gia là duy trì và bảo
vệ hoạt động cạnh tranh cơng bằng đó. [31, tr. 23]
1.3.
Địa vị pháp lý của Cơ quan cạnh tranh quốc gia
Pháp luật cạnh tranh của các nước khi đề cập đến cơ quan cạnh tranh đều
không sử dụng các thuật ngữ “Lập pháp”, “Hành pháp” hay “Tư pháp” để chỉ
bản chất pháp lý của các cơ quan này. Các thuật ngữ này thường chỉ xuất hiện
trong các học thuyết về quyền lực Nhà nước gắn liền với tổ chức bộ máy nhà
nước, ví dụ như học thuyết tam quyền phân lập của Montesquier. Theo học
thuyết này, quyền lực Nhà nước được phân thành ba quyền năng: Quyền lập
pháp (ban hành pháp luật); Quyền hành pháp (tổ chức thi hành pháp luật) và
quyền tư pháp (xét xử các tranh chấp). Trong một bộ máy nhà nước, tùy theo
chức năng và quyền hạn nói trên mà các cơ quan công quyền được chia thành
3 loại tương ứng là cơ quan lập pháp; Cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
Chính vì vậy, việc xem xét bản chất pháp lý của các cơ quan này cũng
chính là nghiên cứu vị trí, chức năng và quyền hạn của các cơ quan cạnh tranh
rồi từ đó rút ra được cơ quan này có quyền năng của loại hình cơ quan nào.
[16]
Tính đến tháng 04/2017, theo số liệu từ trang thông tin điện tử Mạng lưới
cạnh tranh thế giới (ICN), [4, tr. 8] có thể thấy các cơ quan cạnh tranh đa
phần là sự kết hợp giữa “Hành chính” và “Tư pháp”, thay vì cách tiếp cận
truyền thống về phương pháp tổ chức bộ máy nhà nước được chia thành “Lập
pháp”, “Hành pháp” và “Tư pháp”. Sự kết hợp này đảm bảo cho cơ quan cạnh
tranh thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, các
quốc gia trên thế giới đang có xu hướng rằng cơ quan cạnh tranh ngày càng
độc lập và ít chịu sự kiểm soát của các Bộ/ngành.
13
Có thể thấy rằng trong khn khổ pháp lý và thể chế, cần đảm bảo sự cân
bằng giữa “tính độc lập” của cơ quan cạnh tranh và “khả năng thực thi mục
tiêu chính sách cơng của Chính phủ”. Hay nói cách khác đó là đảm bảo tính
độc lập và tính chịu trách nhiệm của cơ quan cạnh tranh, các quyết định của
cơ quan cạnh tranh cần được quy định có thể được xem xét, rà sốt lại thơng
qua thủ tục pháp lý. Tính độc lập của cơ quan cạnh tranh cần đảm bảo rằng
các yếu tố chính trị hay các lợi ích nhóm khơng tác động đến hoạt động, quyết
định, phán quyết trong thực thi pháp luật cạnh tranh. [4, tr. 4]
Qua tìm hiểu mơ hình cơ quan quản lý cạnh tranh của một số nước có nền
kinh tế thị trường tiêu biểu trên thế giới, có thể rút ra một số nhận xét như
sau: [21, tr. 6]
Thứ nhất, cơ quan quản lý cạnh tranh có vai trị quyết định trong việc
bảo đảm thực thi Luật cạnh tranh. Chính sự hiệu quả trong hoạt động, sự công
bằng, công khai, minh bạch của cơ quan này sẽ đảm bảo cho Luật Cạnh tranh
được thực thi nghiêm chỉnh.
Thứ hai, nhìn chung, cơ quan quản lý cạnh tranh của các nước đều
mang tính "lưỡng tính", tức nó vừa là cơ quan hành chính, lại, là cơ quan tư
pháp. Sự kết hợp hai đặc tính "Hành chính", "Tư pháp" là yếu tố đảm bảo cho
cơ quan này thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, dù được tổ chức theo mơ hình cụ thể như thế nào thì nguyên
tắc quan trọng hàng đầu đối với cơ quan này là bảo đảm tính độc lập cho nó.
Khác với phương pháp tổ chức bộ máy nhà nước truyền thống được chia theo
lập pháp, hành pháp và tư pháp, nguyên tắc đảm bảo tính độc lập này đã gợi
mở ra một tư duy mới, một cách tiếp cận mới về mơ hình tổ chức và hoạt
động của Cơ quan cạnh tranh quốc gia. Cơ quan hành chính độc lập, cụm từ
này khơng chỉ thể hiện tính chất "lưỡng tính" như vừa đề cập tới ở trên, mà nó
gợi ra một vấn đề lớn hơn, đó là tổ chức, hoạt động của thiết chế điều tiết kinh
14
tế này phải được thiết kế làm sao để bảo đảm không để bị can thiệp hoặc bị
chi phối từ các cơ quan khác (lập pháp, hành pháp, tư pháp). Độc lập chính là
yếu tố hàng đầu để đảm bảo công bằng trong việc xử lý các vụ việc cạnh
tranh, điều mà các bên đương sự luôn chờ đợi ở cơ quan này.
1.4.
Kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của Cơ quan cạnh
tranh quốc gia
Theo một báo cáo nghiên cứu thực hiện thống kê số liệu và thơng tin của
150 cơ quan cạnh tranh trên tồn thế giới, 1/3 số cơ quan cạnh tranh trên thế
giới (cụ thể là 47 cơ quan, chiếm 31%) thuộc Chính phủ, gồm các nước như
Ấn Độ, Ăc-hen-ti-na, Đài Loan, Đức, Hàn Quốc, Liên Bang Nga, Úc, Vê-nêzuê-la,v.v. Gần một nửa số cơ quan cạnh tranh (cụ thể là 63 cơ quan, tương
đương với 42% tổng số) trên thế giới là các cơ quan thuộc các Bộ/ngành, như
Cục các ten Liên Bang Đức thuộc Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên Bang Đức,
Ủy ban Cạnh tranh Hy Lạp thuộc Bộ Kinh tế, Cạnh tranh và Vận tải biển, Ban
Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Lào thuộc Bộ Công thương, Ủy ban
Cạnh tranh Nam Phi thuộc Bộ Công thương, v.v. [4, tr. 8]
Chỉ có số rất ít cơ quan cạnh tranh (7 cơ quan, chiếm tỷ lệ 5%) thuộc Quốc
hội gồm một số nước Bul-ga-ria, Cro-tia, Hung-ra-ry, Albania, Kosovo. Còn
lại 22% (33 cơ quan) số cơ quan cạnh tranh được tổ chức theo mơ hình khác
và là cơ quan độc lập như Ủy ban Quốc gia về bảo vệ cạnh tranh Armenia, Ủy
ban Nhà nước về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng, Tòa Cạnh tranh Cana-đa, Tòa án bảo vệ cạnh tranh tự do Chi-lê, Ủy ban Cạnh tranh cộng đồng
Caribê, Ủy ban thúc đẩy cạnh tranh Costa Rica. [4, tr. 8]
Qua số liệu trên, có thể thấy các cơ quan cạnh tranh đa phần là cơ quan
cạnh tranh vừa là cơ quan hành chính, chịu trách nhiệm thực thi các chính
sách, pháp luật theo chỉ đạo của Chính phủ, vừa là cơ quan hoạt động mang
tính tài phán khi có quyền ra quyết định điều tra, xử phạt và đưa ra các biện
15
pháp chế tài đối với các bên có hành vi vi phạm pháp luật. Với chức năng
hành chính bán tư pháp, để đảm bảo tính cơng bằng trong việc xử lý các vụ
việc, đảm bảo công bằng trong tố tụng cạnh tranh, vì mục tiêu bảo vệ trật tự
cơng cộng, cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, yếu tố quan trọng nhất đó là
đảm bảo tính độc lập cho cơ quan cạnh tranh. Tính độc lập được thể hiện ở
việc cơ quan cạnh tranh không chịu chi phối hay can thiệp bởi các cơ quan
khác (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và sử dụng những quyền hạn được quy
định theo Luật để yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan có liên quan.
[4, tr. 3]
Mơ hình quản lý cạnh tranh của Nhật Bản là một ví dụ dễ hình dung nhất
về cơ quan hành chính bán tư pháp. Theo Luật về chống độc quyền của Nhật
Bản năm 1947, cơ quan quản lý cạnh tranh ở Nhật Bản là Ủy ban thương mại
công bằng Nhật Bản (Japan Fair Trade Commission-JFTC). Tính chất hành
chính thể hiện ở chỗ, nó là một bộ phận của Bộ Quản lý công, Nội vụ, Bưu
chính và Viễn thơng. [21, tr. 3] Chức năng hành chính bao gồm: (i) Ban hành
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chống độc quyền; (ii) Thực hiện phối
hợp với các ngành khác trong việc soạn thảo luật và chính sách ngành; (iii)
Hợp tác quốc tế về cạnh tranh và chống độc quyền. Về thẩm quyền tư pháp,
khi xử lý vụ việc vi phạm Luật chống độc quyền, Ủy ban có thể thi hành Luật
đối với vụ việc hoàn toàn dựa vào các điều khoản và cách hiểu như tòa án. [4,
tr. 3]
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên
Hiệp quốc (UNCTAD) (2011) đối với 112 quốc gia trên thế giới, hơn nửa số
quốc gia có cơ quan cạnh tranh độc lập, và khơng trực thuộc các Bộ/ngành.
Trong đó, 20 quốc gia đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi cũng có
cơ quan cạnh tranh độc lập. Đó là xu hướng chuyển đổi mơ hình cơ quan cạnh
tranh ngày càng độc lập và ít chịu sự kiểm sốt của các Bộ/ngành. [4, tr. 8]
16
Các quốc gia như Ý, Hung-ga-ry đã thành lập cơ quan cạnh tranh của
mình trực thuộc Quốc hội, độc lập với tư pháp và Chính phủ. Các nước như
Đức, Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Nhật Bản, Úc, Mê-xi-cơ,v.v có cơ quan cạnh
tranh trực tiếp trực thuộc Chính phủ. Một số nước lại tổ chức cơ quan cạnh
tranh như một Bộ hay ngang Bộ hoạt độc độc lập. Các nước như Ca-na-đa,
Pháp, Bỉ, Trung Quốc,… dù đặt trong một Bộ, ngành nào đó nhưng vẫn duy
trì một chế độ độc lập rất cao trong hoạt động và chỉ bị phụ thuộc về mặt hành
chính. [4, tr. 3] Ngồi ra, việc pháp luật cạnh tranh các nước bổ nhiệm nhân
sự, quy định rõ ràng ngân sách hoạt động của cơ quan và chế độ đãi ngộ cho
các thành viên cũng góp phần hiệu quả cho tính độc lập của các cơ quan cạnh
tranh này.
Dựa trên kết quả nghiên cứu về tính độc lập của các cơ quan cạnh tranh,
các cơ quan cạnh tranh thuộc Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn, giúp đảm
bảo và thúc đẩy việc tập trung chun mơn, tính cơng chính, minh bạch và
khả năng chịu trách nhiệm giải trình của cơ quan này. Tự chủ về quá trình
tuyển chọn, bổ nhiệm cũng như đào tạo nhân sự, tự chủ về mặt ngân sách hoạt
động đảm bảo cho cơ quan cạnh tranh có thực quyền cao hơn. Đây là kinh
nghiệm từ nhiều quốc gia có cơ quan cạnh tranh hoạt động rất hiệu quả như
Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Ca-na-đa, Úc,v.v. nơi mà cơ quan quản lý cạnh
tranh đều có vị trí độc lập và quyền tự chủ. [4, tr. 8]
Ngồi ra, nhằm đảm bảo tính chất quan trọng và tính độc lập của cơ quan
cạnh tranh trong quá trình hoạt động của cơ quan cạnh tranh các nước thuộc
Chính phủ thì người đứng đầu cơ quan cạnh tranh và các thành viên Hội đồng
cạnh tranh đều do Thủ tướng hoặc Tổng thống ra quyết định bổ nhiệm hoặc
miễn nhiệm. Cho dù các cơ quan cạnh tranh thuộc Bộ/ngành, nhưng người
đứng đầu chịu trách nhiệm của cơ quan cạnh tranh vẫn do Chính phủ ra quyết
17
định bổ nhiệm, nhằm đảm bảo tính độc lập cho cơ quan cạnh tranh trong quá
trình thực thi luật.
Trong các quốc gia kể trên, hầu hết các nước đều có 01 cơ quan cạnh tranh
duy nhất nhằm đảm bảo thống nhất trong q trình thực thi chính sách và
pháp luật cạnh tranh quốc gia. Trong đó, hầu hết các quốc gia đều hướng tới
xây dựng mơ hình cơ quan cạnh tranh độc lập trong cả về tổ chức và hoạt
động. Bên cạnh đó, để đảm bảo độc lập trong tổ chức và hoạt động thì mơ
hình hiệu quả hiện nay là cơ quan cạnh tranh phải là một cơ quan ngang Bộ,
thuộc Quốc hội hoặc Chính phủ. [4, tr. 8]
Tính đến năm 2017, có 04 quốc gia có từ 02 cơ quan cạnh tranh trở lên,
tuy nhiên, chức năng, nhiệm vụ được phân chia theo lĩnh vực, nhóm hành vi
chứ không phân chia theo giai đoạn tố tụng gồm Trung Quốc, Bờ biển Ngà,
Tunisia và Hoa Kỳ. Có 04 quốc gia có Tịa án cạnh tranh riêng trong hệ thống
tư pháp gồm Ca-na-đa, Chi-lê, Nam Phi và Ấn Độ. Chỉ duy nhất có Việt Nam
trong số hơn 130 quốc gia có mơ hình hai cơ quan cạnh tranh có vai trò và
thực thi các khâu và giai đoạn khác nhau trong q trình tố tụng cạnh tranh.
Theo đó, điểm yếu của việc tách biệt hai cơ quan cạnh tranh trong quá trình
điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh phát sinh nhiều bất cập. Như đã đề cập ở
trên, do mối quan hệ mật thiết giữa chính sách cạnh tranh và chính sách bảo
vệ người tiêu dùng, một số cơ quan cạnh tranh các nước đồng thời là cơ quan
thực thi pháp luật và chính sách bảo vệ người tiêu dùng, Việt Nam cũng là
một trong số các quốc gia đó. [4, tr. 9]
Nhiệm vụ chính của cơ quan cạnh tranh đó là đảm bảo thực thi hiệu quả
pháp luật cạnh tranh. Qua nghiên cứu mơ hình cạnh tranh của một số nước, có
thể đúc rút ra một số chức năng, nhiệm vụ chính của cơ quan cạnh tranh gồm:
[4, tr. 7]
18
(i) Điều tra, xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên thị
trường;
(ii) Điều tra, xử lý các hành vi chống độc quyền, lạm dụng vị trí thống
lĩnh trên thị trường;
(iii) Kiểm sốt q trình sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp trên thị
trường;
(iv) Điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị
trường; và
(v) Thực hiện các hoạt động khác nhằm đảm bảo mơi trường cạnh tranh
lành mạnh.
Xét trên khía cạnh quy trình xử lý vụ việc cạnh tranh, các cơ quan cạnh
tranh trên thế giới có thể được phân ra theo 03 mơ hình sau: [4, tr. 11] (i) Mơ
hình cơ quan cạnh tranh chia nhánh; (ii) Mơ hình cơ quan cạnh tranh hai cấp
xét xử; (iii) Mơ hình cơ quan cạnh tranh thống nhất. Hầu hết các quốc gia xây
dựng mô hình cơ quan cạnh tranh có tính chất kết hợp giữa các mơ hình cấu
trúc nêu trên, phù hợp với quy định pháp luật, bối cảnh kinh tế - xã hội –
chính trị và luật pháp quốc gia. Tuy nhiên, mơ hình cơ quan cạnh tranh thống
nhất sẽ đem lại tính tập trung, quyền lực phán xét cao nhất cho cơ quan cạnh
tranh.
Pháp luật cạnh tranh của các quốc gia nghiên cứu nói trên đều quy định rất
chặt chẽ về những yêu cầu phải công bố công khai các hoạt động của cơ quan
cạnh tranh. Ngoài ra, các bên liên quan có quyền yêu cầu các cơ quan cạnh
tranh cho phép tiếp cận thông tin liên quan tới vụ việc. Trên thực tế, các cơ
quan cạnh tranh cũng luôn đề cao tiêu chí minh bạch trong các hoạt động cụ
thể của mình, từ việc cơng khai các chính sách, pháp luật cũng như các quy
trình xử lý cơng việc… cho đến nội dung các quyết định cụ thể trên các
website của mình. Tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh phải có trách nhiệm bảo mật
19
các thơng tin thu thập được trong q trình điều tra liên qua đến bí mật kinh
doanh của các doanh nghiệp là đối tương bị điều tra. Bởi minh bạch trong
hoạt động của các cơ quan nhà nước là một địi hỏi hết sức quan trọng. Đối
với cơ quan có chức năng và nhiệm vụ thực thi pháp luật cạnh tranh, thì việc
minh bạch hóa càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hơn, giúp nâng cao thêm
uy tín của chính các cơ quan này trong vai trị là cơ quan duy trì trật tự cạnh
tranh rõ ràng, lành mạnh, đảm bảo sự thông suốt. [4, tr. 4]
20
Tiểu kết chương 1
Cạnh tranh đóng một vai trị quan trọng, là động lực thúc đẩy cho sự phát
triển của xã hội nói chung và của nền kinh tế nói riêng. Lịch sử phát triển của
xã hội đã cho thấy, pháp luật cạnh tranh của các nước ra đời đều bắt nguồn từ
nhu cầu của nền kinh tế. [31, tr. 22] Cùng với quá trình phát triển, pháp luật
cạnh tranh là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống pháp luật trong nền
kinh tế thị trường, và phải tổ chức thực thi có hiệu quả pháp luật cạnh tranh
nhằm bảo vệ thị trường cạnh tranh và chống các hành vi hạn chế cạnh tranh,
cạnh tranh không lành mạnh. Nhiệm vụ thực thi pháp luật cạnh tranh được
giao cho các Cơ quan cạnh tranh quốc gia, một thiết chế quan trọng và khá
đặc thù trong cấu trúc tổ chức của bộ máy nhà nước.
Tính đặc thù của các Cơ quan cạnh tranh quốc gia có thể thấy qua bản chất
pháp lý của nó. Khác với các cơ quan nhà nước trong hệ thống lập pháp, hành
pháp hay tư pháp, Cơ quan cạnh tranh quốc gia là một cơ quan “lưỡng tính”,
cơ quan hành chính “bán tư pháp”. Nói cách khác, Cơ quan cạnh tranh quốc
gia là cơng cụ của Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về cạnh tranh,
nhưng đồng thời cơ quan này cũng có quyền tiến hành các hoạt động điều tra,
ra các quyết định phán xử đúng – sai và áp dụng các chế tài với quy trình ra
quyết định gần tương tự như tố tụng của tịa án. [19, tr. 1]
Qua tìm hiểu mơ hình cơ quan quản lý cạnh tranh của một số nước có nền
kinh tế thị trường tiêu biểu trên thế giới, có thể nhận thấy dù được tổ chức
theo mơ hình cụ thể như thế nào thì nguyên tắc quan trọng hàng đầu đối với
cơ quan này là bảo đảm tính độc lập cho nó. Để tạo lập sự độc lập về mặt tổ
chức và tài chính, một số nước có cơ quan cạnh tranh trực tiếp trực thuộc
Chính phủ. Một số cơ quan cạnh tranh khác lại được tổ chức như một Bộ hay
ngang Bộ, độc lập với các Bộ ngành khác. Một số trường hợp khác mặc dù
đặt trong một Bộ ngành nào đó nhưng lại duy trì một chế độ độc lập rất cao
21
trong hoạt động và các cơ quan này chỉ bị phụ thuộc về mặt hành chính. Đó là
những tham khảo có giá trị cao trong cơng tác xây dựng bộ máy cơ quan cạnh
tranh của mỗi quốc gia.
22