Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của người sử dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.12 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI THANH LONG

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NHÀ CUNG CẤP
DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM
PHẠM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI THANH LONG

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NHÀ CUNG CẤP
DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM
PHẠM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bích Thảo



Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Mai Thanh Long


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM
QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ............................................................9
1.1. Khái quát về nhà cung cấp dịch vụ Internet ................................................9
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nhà cung cấp dịch vụ Internet..........................9
1.1.2. Phân loại nhà cung cấp dịch vụ Internet ................................................15
1.2. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ
Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ......................18
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối

với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ..........................................18
1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với
hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ................................................22
1.3. Cơ sở quy định trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối
với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ..........................................28
1.4. Các mơ hình pháp luật điều chỉnh trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp
dịch vụ Internet trên thế giới .....................................................................................30
1.4.1. Mơ hình Hoa Kỳ .....................................................................................32
1.4.2. Mơ hình châu Âu ....................................................................................35
Kết luận Chƣơng 1 ...........................................................................................41
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH
NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI
HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG VÀ ĐỀ
XUẤT HOÀN THIỆN. .............................................................................................44
2.1. Thực trạng xâm phạm quyền dân sự trên Internet ở Việt Nam .................44


2.2. Các quy định chung của Bộ luật dân sự về bảo vệ quyền dân sự và trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng ..............................................................50
2.3. Các quy định của pháp luật chuyên ngành liên quan đến trách nhiệm pháp
lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của
ngƣời sử dụng ............................................................................................................54
2.4. Quy định của điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên .....................61
2.5. Đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm pháp lý của nhà
cung cấp dịch vụ Internet ..........................................................................................64
2.5.1. Sự cần thiết hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý của nhà
cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử
dụng ở Việt Nam .......................................................................................................64
2.5.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khái niệm về nhà cung cấp dịch vụ Internet ...
..........................................................................................................................69

2.5.3. Bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại gián tiếp và quy
định các trƣờng hợp miễn trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet ..............72
Kết luận Chƣơng 2 ..........................................................................................78
KẾT LUẬN ......................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................86


Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BTTH

Bồi thƣờng thiệt hại

BTTHNHĐ Bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
ISP

Nhà cung cấp dịch vụ Internet (Internet Servive Provider)

CPTPP

Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dƣơng (Comprehensive and Progressive Agreement for
Trans - Pacific Partnership)


ECD

Chỉ thị Châu Âu về Thƣơng mại điện tử 2000/31/EC

CDA

Đạo luật về Thông tin truyền thông Hoa Kỳ

DMCA

Đạo luật bản quyền kỹ thuật số Hoa Kỳ


Danh mục hình ảnh, mẫu biểu
Thống kê số lƣợng ngƣời sử dụng truyền thơng di động,
Hình 1

Internet và sử dụng mạng xã hội
(Nguồn: Digital Việt Nam 2020)
Các nhà cung cấp dịch vụ Internet

Hình 2

(Nguồn: Tổng quan về Internet, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân)

Hình 3

Mơ hình cung cấp dịch vụ kết nối Internet



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Internet là mạng thơng tin tồn cầu, đƣợc hình thành trên cơ sở kết nối các
máy tính, các website, trang thông tin điện tử trên khắp hành tinh. Sự ra đời và phát
triển của Internet kết nối toàn cầu mở ra kỉ nguyên mới cho truyền thông và phát
triển của loài ngƣời. Sự ra đời của Internet đồng thời là sự phát triển nhanh chóng
của các tiến bộ kỹ thuật, khoa học công nghệ trong lĩnh vực truyền dẫn, kết nối,
thiết bị có khả năng kết nối Internet. Tại Việt Nam, kể từ thời điểm đƣợc cung cấp
bởi nhà cung cấp dịch vụ Internet đầu tiên là Công ty cổ phần Netnam vào năm
1994, Internet đã không ngừng phát triển trong nƣớc, hơn thế thế nữa còn vƣơn ra
tầm khu vực nhƣ trƣờng hợp của Tổng công ty viễn thông Quân đội Viettel.
Theo báo cáo thống kê tại Báo cáo Digital Việt Nam 2020 (đƣợc Tổ chức
“We Are Social” khảo sát tại 42 quốc gia) tính đến tháng 01 năm 2020 tại Việt Nam
đang có 68,17 triệu ngƣời đang sử dụng dịch vụ Internet đạt mức 70% trên tổng dân
số là 96,90 triệu ngƣời và hiện có 65 triệu ngƣời (chiếm 67% tổng dân số) hiện
đang sử dụng các phƣơng tiện truyền thơng xã hội để giải trí, liên hệ bạn bè, chia sẻ
khoảnh khắc, mẹo vặt cuộc sống và kể cả quảng cáo bán hàng.

Hình 1: Báo cáo thống kê sử dụng Internet tại Việt Nam
Từ những con số thống kê trên và nhiều thông tin liên quan đến việc sử dụng
Internet hiện nay, cũng nhƣ các thông tin về những sự kiện, những nội dung phát

1


sinh trên mơi trƣờng số hóa những năm qua, cho thấy Internet đang đóng vai trị rất
quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống con ngƣời từ việc giải trí, thỏa mãn nhu
cầu cá nhân đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân và sự hình thành mơ

hình bán hàng trực tuyến, kiếm tiền online (Make Money Online - MMO), ... đang
phát triển mạnh mẽ, đa dạng. Internet hiện nay là một trong những yếu tố cần thiết
của cuộc sống xã hội hiện đại, nhờ có Internet mà con ngƣời có một trải nghiệm
sống động, phong phú, đồng thời Internet trở thành một công cụ để thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể, cung cấp khả năng tạo ra môi trƣờng thực tế ảo. Thông qua
Internet cá nhân có thể sống trong cuộc sống của họ; có thể làm việc, giao tiếp xã
hội với ngƣời khác thông qua các phƣơng triện kỹ thuật, ứng dụng đƣợc cung cấp
trên Internet; cá nhân, tổ chức đƣợc cung cấp các không gian trao đổi trực tuyến và
điều này đã mang lại sự tiết kiệm chi phí, cơng sức, nhƣng hiệu quả đem lại là vơ
cùng to lớn. Bên cạnh đó, sự phát triển của Internet mạnh mẽ đến mức nhu cầu
đƣợc sử dụng Internet đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với nhiều ngƣời
và họ không thể một ngày khơng có Internet, đối với các doanh nghiệp mà cao hơn
là một quốc gia, việc khơng có Internet hoặc đƣờng truyền Internet bị ảnh hƣởng có
thể để lại các thiệt hại về kinh tế rất nặng nề. Tuy nhiên, vẫn có sự hai mặt của q
trình sử dụng Internet, bên cạnh các mặt tích cực tác động đến đời sống của cá nhân,
doanh nghiệp hay nền kinh tế của một quốc gia thì Internet cũng đi kèm các mặt trái
không thể ngăn chặn đƣợc, gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến an ninh, đời sống kinh
tế của một quốc gia, sự phát triển của doanh nghiệp và cả sự an tồn cá nhân.
Để mọi ngƣời có thể khai thác và sử dụng các dịch vụ Internet, cần có các
nhà cung cấp dịch vụ trung gian, có thể đƣợc liệt kê nhƣ sau: Thứ nhất, là nhà cung
cấp dịch vụ Internet (Internet Service Provider - viết tắt là ISP). ISP chuyên cung
cấp các giải pháp kết nối mạng, quyền truy cập Internet và các dịch vụ nhƣ Email,
Web, FTP, Telnet, Chat, … cho các đơn vị tổ chức hay các cá nhân ngƣời dùng có
nhu cầu về truy nhập và sử dụng các dịch vụ trên Internet, và để có thể truy nhập và
sử dụng các dịch vụ Internet thì ngƣời sử dụng phải đăng ký với nhà cung cấp dịch
vụ này. Tuy nhiên, các ISP thƣờng phải thuê đƣờng và cổng của một nhà cung cấp

2



dịch vụ đƣờng truyền (IAP) để kết nối với Internet. Hiện tại ở Việt Nam có 18 ISP
đăng ký cung cấp dịch vụ. Thứ hại, là nhà cung cấp đƣờng truyền để kết nối với
Internet (Internet Access Provider - IAP hay cịn đƣợc gọi là Internet Exchange
Provider - IXP). Thơng qua IAP ngƣời sử dụng đƣợc trực tiếp kết nối với Internet,
bên cạnh đó IAP có thể thực hiện cả chức năng của ISP nhƣng ngƣợc lại thì khơng
thể và một IAP thƣờng phục vụ cho nhiều ISP khác. Tại Việt Nam có 7 IAP, bao
gồm: Tập đồn Bƣu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Công ty đầu tƣ phát triển
công nghệ FPT, Tổng công ty viễn thông quân đội (Viettel), Công ty thông tin viễn
thông điện lực (ETC), Công ty cổ phần dịch vụ Bƣu chính Viễn thơng Sài Gịn
(SPT), Cơng ty cổ phần viễn thơng Hà Nội (HANOITELECOM), Công ty truyền
thông đa phƣơng tiện (VTC). Thứ ba, là ISP dùng riêng, ISP dùng riêng đƣợc cung
cấp đầy đủ dịch vụ Internet, điểm khác duy nhất giữa ISP và ISP dùng riêng là việc
ISP dùng riêng không cung cấp dịch vụ Internet với mục đích kinh doanh. Đây là
loại hình dịch vụ Internet của các cơ quan hành chính, các trƣờng đại học hay viện
nghiên cứu. Thứ tư, là nhà cung cấp dịch vụ nội dung thông tin Internet (Internet
Content Provider - ICP). ICP cung cấp các thông tin về: kinh tế, giáo dục, thể thao,
chính trị, quân sự (thƣờng xuyên cập nhật thông tin mới theo định kỳ) đƣa lên
mạng. Thứ năm, là nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet (Online Service
Provider - OSP). OSP cung cấp các dịch vụ trên cơ sở ứng dụng Internet (OSP)
nhƣ: Mua bán qua mạng, giao dịch ngân hàng, tƣ vấn, đào tạo, ...
Trong phạm vi hẹp của đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến trách
nhiệm của một loại hình chủ thể cung cấp dịch vụ trung gian trên Internet, đó là ISP
(nhà cung cấp dịch vụ Internet). Theo đó các ISP có quyền kinh doanh thơng qua
các hợp đồng cung cấp dịch vụ Internet cho các tổ chức và các cá nhân. Ngoài việc
cung cấp truy cập Internet, các ISP cũng có thể cung cấp các gói phần mềm (nhƣ
trình duyệt), tài khoản E-mail, và trang Web cá nhân hoặc trang chủ thông tin, tùy
theo nhu cầu của ngƣời dùng. Các ISP có thể lƣu trữ các trang Web cho các doanh
nghiệp và cũng có thể tự xây dựng các trang Web, và các ISP đƣợc kết nối với nhau

3



thông qua các điểm truy cập mạng, các thiết bị mạng công cộng trên đƣờng trục
Internet.
Tại Việt Nam, theo số liệu báo cáo tại “Sách trắng” năm 2019 của Bộ Thông
tin và truyền thông đã thống kê đến 31 tháng 12 năm 2018 cho thấy số doanh
nghiệp đang cung cấp dịch vụ truy nhập Internet băng rộng cố định là 58 đơn vị.
Mặc dù ISP có tốc độ phát triển rất nhanh chóng, nhƣng khi đề cập đến trách nhiệm
của ISP thì đây là đang là một khoảng trống trong hệ thống pháp luật nƣớc ta. Điều
này thể hiện ngay từ khái niệm về ISP trong hệ thống luật. Khác với định nghĩa
trong luật của một số quốc gia trên thế giới và trong các hiệp định thƣơng mại tự do
thế hệ mới mà Việt Nam tham gia nhƣ Hiệp định đối tác tồn diện và tiến bộ xun
Thái Bình Dƣơng (CPTPP), theo pháp luật Việt Nam, ISP chỉ đơn thuần là một tổ
chức cung cấp khả năng truy nhập Internet hoặc có vai trị trung chuyển lƣu lƣợng
Internet, khơng bao gồm doanh nghiệp có vai trị lƣu trữ hay cung cấp các công cụ
định vị thông tin cho ngƣời dùng. Hệ thống pháp luật Việt Nam từ trƣớc đến nay
đều ghi nhận ISP thuần túy có vai trị nhƣ một “ngƣời vận chuyển” thông tin mà
không phải là “ngƣời điều hành” hay “ngƣời biên tập”. Các doanh nghiệp này chỉ
đơn thuần làm nhiệm vụ trung gian chuyển tải thông tin theo yêu cầu của ngƣời gửi
đến ngƣời nhận, và thƣờng không bị áp trách nhiệm phải thực thi việc bảo hộ quyền
tác giả trong môi trƣờng mạng.
Thực tế hiện nay các qui định về trách nhiệm của ISP chủ yếu liên quan đến
vấn đề quyền tác giả, có thể thấy rằng khơng có một quy định cụ thể nào để ràng
buộc trách nhiệm của các ISP đối với các hành vi xâm phạm quyền dân sự nói
chung của ngƣời sử dụng Internet trong môi trƣờng kỹ thuật số. Với cơ chế pháp lý
nhƣ trên, hiện các ISP ở Việt Nam chỉ đƣợc tổ chức hoạt động phù hợp với vai trị
ngƣời trung gian, hầu nhƣ khơng chịu trách nhiệm về nội dung thông tin và hành vi
của ngƣời sử dụng. Hay nói cách khác, ở nƣớc ta hiện nay chƣa quy định rõ ràng,
đầy đủ về trách nhiệm của ISP đối với các hành vi xâm phạm quyền dân sự của
ngƣời sử dụng. Đây là điểm hạn chế, chƣa bắt kịp với pháp luật của các nƣớc phát

triển.

4


Những hạn chế, bất cập trong qui định của pháp luật có thể sẽ khiến Việt
Nam gặp nhiều khó khăn, thách thức khi gia nhập các hiệp định thƣơng mại tự do
thế hệ mới khi mà cơ chế luật áp nhiều trách nhiệm lên ISP và nghiêng về bảo hộ
chủ thể quyền tác giả hơn so với cả ISP lẫn ngƣời sử dụng Internet.
Liên quan đến nội dung trách nhiệm của ISP đã có một số chuyên đề khoa
học, bài viết trên tạp chí khoa học pháp lý, các bài viết chuyên khảo hoặc đề tài của
một số cuộc hội thảo đã đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội
dung liên quan đến trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ, có thể kể đến nhƣ: Luận
văn thạc sĩ ĐHQGHN: “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý”, Đặng Thị Thu
Trang; năm 2012; “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự: Cần
được hướng dẫn”, ThS Lê Văn Sua, Tạp chí Luật sƣ Việt Nam số 5/2016; “Quyền
riêng tư trên thế giới và ở Việt Nam”, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Đăng Duy,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN năm 2017;
Sách tham khảo: “Phạm vi và giới hạn của tự do Internet”, PGS.TS Nguyễn Thị
Quế Anh, PGS.TS Vũ Cơng Giao, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2018;
“Trách nhiệm pháp lí của nhà cung cấp dịch vụ trung gian với vi phạm quyền tác
giả trên Internet”, Ngô Trọng Quân - Trần Phƣơng Anh, Tạp chí Luật học số 01
năm 2019. Các nghiên cứu đã phân tích đánh giá các nội dung liên quan đến quyền
riêng tƣ, quyền bí mật thơng tin, quyền tác giả, …, nhƣng vấn đề trách nhiệm của
nhà cung cấp dịch vụ Internet, đặc biệt là trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của nhà
cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử
dụng thì chƣa đƣợc đề cập, nghiên cứu một cách sâu sắc.
Vì những lý do ở trên, tác giả lựa chọn đề tài:"Trách nhiệm pháp lý của nhà
cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của người sử
dụng" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học với mong muốn góp phần

phát hiện những hạn chế của quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm
pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet, cũng nhƣ những khó khăn, vƣớng mắc
trong quá trình thực thi ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về trách nhiệm pháp lý của nhà

5


cung cấp dịch vụ Internet, từ đó bảo vệ tốt hơn các quyền dân sự của cá nhân, tổ
chức trong kỷ nguyên số.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về trách
nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền
dân sự do ngƣời dùng Internet thực hiện, mô hình điều chỉnh pháp luật về vấn đề
này ở các nƣớc phát triển, chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam và
đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với các hành vi
xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng là một lĩnh vực tƣơng đối rộng, phức
tạp và là một vấn đề mới, thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự, tác
giả tập trung nghiên cứu về trách nhiệm dân sự của nhà cung cấp dịch vụ Internet
đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng đƣợc pháp luật Việt
Nam quy định. Giới hạn khảo sát của luận văn là các quy định về trách nhiệm của
nhà cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự
của các chủ thể khác do chính những ngƣời sử dụng Internet thực hiện khi họ tham
gia vào các hoạt động trên Internet, trong đó, luận văn tập trung vào những hành vi
xâm phạm quyền dân sự phổ biến hiện nay nhƣ xâm phạm quyền riêng tƣ; xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của ngƣời khác trên mơi trƣờng mạng; xâm phạm
quyền tác giả.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Để có thể đạt đƣợc mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn
phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm pháp lý (dân
sự) của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của
ngƣời sử dụng nhƣ khái niệm, đặc điểm, cơ sở hình thành trách nhiệm, các mơ hình
pháp luật điều chỉnh vấn đề trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet.

6


Thứ hai, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về
trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân
sự của ngƣời sử dụng trong tƣơng quan so sánh với các quy định trong điều ƣớc
quốc tế và pháp luật một số quốc gia khác.
Thứ ba, nêu và phân tích thực tiễn thi hành các quy định pháp luật Việt Nam
về trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền
dân sự của ngƣời sử dụng, chỉ ra những bất cập, hạn chế. Trên cơ sở đó phân tích
ngun nhân của thực trạng trên và đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân
sự của ngƣời sử dụng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu luận văn đã sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phƣơng pháp này đƣợc sử dụng
phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về trách nhiệm của nhà cung
cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng.
Phương pháp luật học so sánh: Những phƣơng pháp này đƣợc ngƣời viết vận

dụng để đƣa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp lý hay
khơng trong mối tƣơng quan so với quy định của điều ƣớc quốc tế có liên quan hoặc
pháp luật của các nƣớc khác…
Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Đƣợc vận dụng để triển khai
có hiệu quả các vấn đề liên quan đến trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet
đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng, đặc biệt là các kiến
nghị hoàn thiện. Cụ thể nhƣ trên cở sở đƣa ra những kiến nghị mang tính khái quát,
súc tích ngƣời viết dùng phƣơng pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

7


Kết quả đạt đƣợc của luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về trách nhiệm
của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của
ngƣời sử dụng. Cụ thể: củng cố, bổ sung lý luận về khái niệm và đƣa ra những tiêu
chí cơ bản nhất để xác định trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với
hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng, phân tích thực trạng điều chỉnh
pháp luật đối với vấn đề này, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đƣa ra phƣơng
hƣớng hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam.
Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơ
quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hồn thiện
pháp luật trong lĩnh vực tƣơng ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo
hữu ích khơng chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà cịn có giá trị đối với các
cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật ở Việt Nam.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các ký
hiệu viết tắt, nội dung chính của luận văn gồm 2 chƣơng, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp
dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng.

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm pháp lý của nhà
cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử
dụng và đề xuất hoàn thiện.

8


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP
LÝ CỦA NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM
PHẠM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG
1.1. Khái quát về nhà cung cấp dịch vụ Internet
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nhà cung cấp dịch vụ Internet
Internet đã mang lại một cuộc cách mạng truyền thơng, nó cho phép mọi
ngƣời có nhiều cơ hội để giao tiếp với nhau mà khơng có rào cản địa lý. Khi số
lƣợng ngƣời dùng của nó tăng theo cấp số nhân, Internet biến đổi toàn bộ bức
tranh của phổ giao tiếp, văn hóa, chính trị và pháp lý. Với một hệ thống thơng tin
rộng mở, phổ biến mang tính quy mơ tồn cầu, mơi trƣờng Internet đáp ứng
đƣợc nhiều nhu cầu khác nhau của con ngƣời, kéo theo đó thì việc xuất hiện
hoặc phát triển những phƣơng thức, cách thức tiếp cận để khai thác tài nguyên
trên môi trƣờng Internet ngày càng đa dạng, trong đó có thể đề cập đến các dịch
vụ chính đƣợc sử dụng nhƣ dịch vụ kết nối Internet (Internet Service Provider viết tắt là ISP), dịch vụ cung cấp đƣờng truyền để kết nối với Internet (Internet
Access Provide - IAP) và dịch vụ ứng dụng Internet (Online Service Provider OSP). Các dịch vụ này đƣợc cung cấp bởi các công ty, chủ thể trung gian đƣợc
gọi là nhà cung cấp dịch vụ trung gian (Internet Intermediary), trong nghiên cứu
này tác giả lựa chọn loại hình ISP để phân tích và nghiên cứu.

Hình 2: Các nhà cung cấp dịch vụ Internet

9



Với xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng Internet ngày càng tăng
cao, để đáp ứng đƣợc nhu cầu này, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet
đã hình thành và phát triển với nhiều hình thức khác nhau, đa dạng hóa các loại
hình dịch vụ, có những thay đổi tƣ duy cũng nhƣ cách thức tổ chức điều hành
hoạt động, phát triển nền tảng dịch vụ, hoàn thiện các nền tảng ứng dụng dịch vụ
chức năng của mình để đáp ứng thị hiếu ngƣời sử dụng. Để đáp ứng đƣợc nhu
cầu của ngƣời sử dụng trên môi trƣờng Internet, ISP ra đời với những chức năng
cơ bản nhƣ điều hành, điểm trung chuyển, lƣu trữ thông tin dữ liệu... Có thể hiểu
ISP là nơi cung cấp đến ngƣời sử dụng khả năng truy cập Internet và nếu một cá
nhân hay tổ chức không đăng ký dịch vụ thì khơng thể kết nối đƣợc mạng
Internet. Thơng qua các nền tảng dịch vụ khai thác trên môi trƣờng Internet của
ISP mà ngƣời sử dụng đã đƣợc cung cấp các nền tảng ứng dụng dịch vụ khai
thác Internet rộng mở hơn, khơng bó hẹp chỉ trong một số trang web đặc định mà
thay vào đó là ngƣời sử dụng đƣợc cung cấp các nền tảng dịch vụ đa dạng,
phong phú hơn trên mơi trƣờng Internet, có thể kể đến là các trang web (website)
nhƣ: Blog, Youtube, các trang mạng xã hội nhƣ Facebook, Instargram, Twitter,
... Cách nhận diện chung nhất hiện nay khi đề cập đến một ISP đƣợc hiểu là một
cơng ty cung cấp một cổng vào Internet có thể bao gồm mọi thứ từ việc cho phép
ngƣời sử dụng thiết lập liên lạc với mạng đến các dịch vụ cụ thể hơn nhƣ e-mail,
lƣu trữ dữ liệu, công cụ tìm kiếm hoặc các trang web sử dụng cho từng mục đích
khác nhau (đấu giá, mua bán, trao đổi, …). Một cách hiểu khác thƣờng thấy, ISP
đƣợc định nghĩa là nhà cung cấp bất kỳ loại dịch vụ nào trên Internet, bao gồm
các mạng xã hội và ngang hàng (P2P) của nền tảng chia sẻ [40]. Khi có nhu cầu
sử dụng Internet thì tổ chức, cá nhân phải đăng ký với những nhà cung cấp dịch
vụ Internet để đƣợc cung cấp đƣờng dẫn kết nối, hiện nay những công ty viễn
thơng, cơng ty kinh doanh dịch vụ truyền hình cáp thƣờng thực hiện chức năng
này.
ISP là thuật ngữ dùng cho các cơng ty có thể cung cấp quyền truy cập sử
dụng Internet thông qua các thiết bị điện tử viễn thông, phổ biến đƣợc sử dụng


10


hiện nay nhƣ máy tính, điện thoại di động thơng minh. ISP có thể là một cơng ty,
một tổ chức cung cấp cho những cá nhân hoặc những công ty khác quyền truy
cập Internet cũng nhƣ các dịch vụ liên quan nhƣ Web, lƣu trữ ảo, hệ thống quản
trị (Server). Một số ISP phổ biến trên thế giới thƣờng đƣợc nhắc đến nhƣ AT&T
WorldNet, IBM Global Network, MCI, Netcom, UUNet và PSINet, cịn tại Việt
Nam hiện nay có thể kể đến một số ISP thơng dụng nhƣ Tập đồn Bƣu chính
viễn thơng Việt Nam (VNPT), Cơng ty cổ phần truyền thơng (FPT), Tổng cơng
ty viễn thơng Qn đội (Viettel), …

Hình 3: Mơ hình cung cấp dịch vụ kết nối Internet
Tại một số khu vực, quốc gia đều có những quy định riêng về ISP trên cơ
sở đặc điểm phát triển trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ Internet của mình. Tại
Tây Ban Nha, Hiệp hội quản lý ngƣời biểu diễn (AISGE) đƣa ra cách nhận diện
chung đối với những nhà cung cấp dịch vụ khi đề cập đến bất kỳ cá nhân hoặc
pháp nhân nào cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành công nghiệp thông tin
[26], trong cách nhận diện này nhà cung cấp nội dung là những ngƣời cung cấp
thông tin cho ngƣời dùng Internet. Tại Liên bang Nga, ISP đƣợc hiểu là các công
ty cung cấp cho khách hàng của họ quyền truy cập Internet và các dịch vụ liên
quan đến Internet khác nhƣ Email và lƣu trữ (bao gồm cả máy chủ và máy chủ
ảo), đối với hầu hết các dịch vụ thì về bản chất của ISP đƣợc coi là chỉ là trung

11


gian truyền dữ liệu từ ngƣời dùng Internet này sang ngƣời dùng khác hoặc tạo cơ
hội cho ngƣời dùng tìm kiếm và trao đổi dữ liệu, nhƣ việc điều hành bảng tin và
diễn đàn [41]. Trong một nghiên cứu khác đã đƣa ra định nghĩa về ISP nhƣ là

công ty cung cấp kết nối và dịch vụ Internet cho các cá nhân và tổ chức. Ngoài
việc cung cấp quyền truy cập vào Internet, các ISP cũng có thể cung cấp các gói
phần mềm (nhƣ trình duyệt, lƣu trữ dữ liệu, tài khoản email và trang web cá
nhân hoặc trang chủ); ISP có thể lƣu trữ các trang web cho doanh nghiệp và cũng
có thể tự xây dựng các trang web cung cấp nền tảng ứng dụng theo nhu cầu của
tổ chức, cá nhân; và các ISP đều đƣợc kết nối với nhau thông qua các điểm truy
cập mạng, các cơ sở mạng công cộng trên đƣờng trục Internet [36].
Chỉ thị Thƣơng mại điện tử của Châu Âu 2000/31/EC (viết tắt là Chỉ thị
ECD) đã đƣa ra một chế độ liên quan đến trách nhiệm của chủ thể trung gian
cung cấp dịch vụ Internet, đồng thời đã khái quát về ISP là bất kỳ cá nhân hoặc
tổ chức nào thực hiện việc cung cấp dịch vụ “xã hội thông tin” [29]. Trong đó,
“xã hội thơng tin” là một thuật ngữ thƣờng đƣợc sử dụng để chỉ một xã hội sử
dụng, sáng tạo, phân phối, thao túng và tích hợp thơng tin nhƣ là một hoạt động
kinh tế, chính trị và văn hóa quan trọng, với động lực chính là cơng nghệ thông
tin và truyền thông, dẫn đến sự tăng trƣởng thông tin nhanh chóng và làm thay
đổi mọi khía cạnh của tổ chức xã hội, và chủ thể chính trong hoạt động này
thƣờng đƣợc xem là những ngƣời dùng máy tính hoặc thậm chí là cơng dân kỹ
thuật số - những ngƣời sử dụng Internet thƣờng xuyên và hiệu quả. Tuy nhiên để
có một khái niệm thể hiện đầy đủ, rõ ràng nội dung bản chất của thuật ngữ “xã
hội thông tin” đến nay vẫn đang còn nhiều tranh luận, ý kiến khác nhau. Trong
giới hạn nghiên cứu cho thấy ISP tham gia vào hoạt động xử lý và lƣu trữ thông
tin, dữ liệu dựa trên bất kỳ nền tảng giao tiếp điện tử nào mà mình sử dụng và
đƣợc trả thù lao từ hoạt động này, hay nói cách khác là một hoạt động kinh tế mà
ISP thực hiện [25, tr 43-45]. Để đạt điều kiện đƣợc xem là một ISP cần phải xem
xét nền tảng nào mà một ISP cung cấp có mục đích liên quan đến dịch vụ liên
quan xã hội thông tin. Cụ thể hơn, Chỉ thị ECD cũng đã chỉ rõ ISP là bất kỳ dịch

12



vụ nào đƣợc cung cấp và nhận thù lao từ dịch vụ đó, mà ở khoảng cách xa và
bằng thiết bị điện tử để xử lý và lƣu trữ dữ liệu và theo yêu cầu riêng của ngƣời
nhận dịch vụ mà một ISP cung cấp. Một số dịch vụ đƣợc đề cập đến trong Chỉ
thị ECD bao gồm việc cung cấp dịch vụ truy cập (Access/Mere conduit), cung
cấp bộ nhớ đệm (Caching) và cung cấp dịch vụ lƣu trữ (Hosting). Điều quan
trọng là phần định nghĩa liên quan đến việc ISP có khoản doanh thu từ các hoạt
động cung cấp dịch vụ của mình phải thỏa mãn điều kiện là dịch vụ đƣợc cung
cấp rộng rãi tạo thành một phần của hoạt động kinh tế (Ví dụ: dịch vụ có thể
đƣợc cung cấp miễn phí, nhƣng ISP có thể kiếm tiền từ việc cung cấp dịch vụ
bằng cách liên kết quảng cáo đến trang). Trong đó tiêu chí về khoảng cách là
một vấn đề quan trọng đƣợc đặt ra, cần phải thỏa mãn điều kiện là ISP và ngƣời
sử dụng khơng có mặt ở cùng một nơi, và những u cầu về giao tiếp, truy cập
khai thác thông tin, dữ liệu Internet đƣợc thực hiện thông qua các thiết bị điện tử
mà ISP sử dụng để cung cấp dịch vụ trên nền tảng ứng dụng của mình. Dựa vào
thiết bị điện tử nhƣ một phƣơng tiện để ISP phân phối thông tin, dữ liệu trên của
thông tin sẽ mở rộng trên một khu vực không xác định đƣợc, miễn là có truy cập
Internet.
Đạo luật bản quyền kỹ thuật số của Hoa Kỳ (Digital Millennium
Copyright Act, viết tắt là Đạo luật DMCA) cũng đã đƣa ra định nghĩa về một nhà
cung cấp dịch vụ cho ngƣời sử dụng qua việc cung cấp truyền tải, định tuyến
hoặc cung cấp các kết nối cho truyền thông trực tuyến kỹ thuật số, giữa các nhà
cung cấp hoặc giữa các điểm đƣợc chỉ định bởi ngƣời sử dụng; tài nguyên dữ
liệu do ngƣời sử dụng lựa chọn, mà nhà cung cấp không sửa đổi nội dung của dữ
liệu nhƣ đã gửi hoặc nhận; và một nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến hoặc truy cập
mạng hoặc nhà điều hành các cơ sở. [30]
Đối với Việt Nam, theo quy định của pháp luật hiện nay định nghĩa hay
một khái niệm rõ ràng về ISP vẫn chƣa đƣợc thống nhất trong cách nhận diện,
cũng nhƣ chƣa thể hiện hết các chức năng của một ISP. Khái niệm về ISP mà
pháp luật Việt Nam hiện có đƣợc thể hiện tại Khoản 2 Điều 3 của Thông tƣ liên


13


tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19/6/2012: “Doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trung gian gồm doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet, doanh
nghiệp viễn thông, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ thông tin
số bao gồm cả dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ trang thông tin điện tử, doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
tìm kiếm thơng tin số”. Trong khi đó, tại Khoản 4 Điều 3 của Nghị định số
72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ Internet và thông tin trên mạng: “Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet là
doanh nghiệp viễn thơng cung cấp dịch vụ Internet”, kèm theo đó với quy định
tại Khoản 2 Điều 3: “Dịch vụ Internet là một loại hình dịch vụ viễn thơng, bao
gồm dịch vụ truy nhập Internet và dịch vụ kết nối Internet”. Có thể thấy, cách
đƣa ra định nghĩa đối với ISP trong pháp luật nƣớc ta chƣa có sự thống nhất,
đồng thời các định nghĩa này hoàn toàn khác biệt so với khái niệm về ISP theo
CPTPP, cũng nhƣ chƣa thể hiện hết bản chất của ISP trong điều kiện phát triển
kinh tế, xã hội hiện nay. Theo cam kết CPTPP, các nội dung về ISP cơ bản tập
trung nhiều đến việc bảo vệ quyền tác giả trên môi trƣờng mạng. CPTPP đã đƣa
ra khái niệm về ISP cơ bản đầy đủ, thể hiện rõ bản chất của ISP: “Nhà cung cấp
các dịch vụ trực tuyến cho việc truyền dẫn, định tuyến, hoặc cung cấp kết nối
cho truyền thông trực tuyến kỹ thuật số, giữa hai hay nhiều điểm do người dùng
xác định, đối với các nội dung do người dùng lựa chọn, thực hiện chức truyền
tải, định tuyến hoặc cung cấp những liên kết của tài liệu mà không sửa đổi nội
dung của nó, hoặc việc lưu trữ tạm thời các tài liệu đó được tiến hành tự động
trong suốt một quy trình kỹ thuật hoặc thực hiện chức năng lưu trữ tài liệu theo
sự chỉ dẫn của người sử dụng, trên một hệ thống hoặc không gian mạng được
kiểm soát hoặc vận hành bởi Nhà cung cấp dịch vụ hoặc dẫn chiếu hoặc kết nối
người dùng đến một vị trí trực tuyến bằng việc sử dụng các cơng cụ định vị
thông tin bao gồm các siêu liên kết và thư mục” [15]. Có thể thấy, định nghĩa của

CPTPP về ISP rộng hơn và rõ hơn so với định nghĩa về ISP theo các quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành. Theo các quy định của pháp luật Việt Nam,

14


các ISP chỉ đơn thuần cung cấp cách thức để ngƣời dùng truy cập và sử dụng
mạng Internet, còn CPTPP quy định cụ thể và rõ ràng cách thức cung cấp dịch
vụ cũng nhƣ đối tƣợng đƣợc cung cấp dịch vụ của các ISP.
1.1.2. Phân loại nhà cung cấp dịch vụ Internet
Hiện nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về ISP cũng nhƣ việc phân
loại ISP. Việc phân loại ISP có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trách
nhiệm pháp lý của ISP. Trong đó, việc xem xét ISP sử dụng các phƣơng tiện kỹ
thuật, nền tảng công nghệ thông tin nào để cung cấp dịch vụ là cơ sở xác định
ISP đủ điều kiện hoạt động theo các quy định của pháp luật hiện hành. Định
nghĩa ISP hƣớng đến các cá nhân và tổ chức cung cấp các dịch vụ trên nền tảng
Internet nhƣ: thiết kế web, lƣu trữ web, đăng ký tên miền, dịch vụ truy cập
Internet và quá cảnh Internet… Khi cung cấp các dịch vụ này, ISP có thể phải
chịu trách nhiệm pháp lý phát sinh từ việc ngƣời dùng sử dụng dịch vụ một cách
khơng đúng đắn. Trách nhiệm có thể phát sinh do kết quả của nội dung đƣợc
cung cấp, thông qua nền tảng hoặc lƣu trữ tài liệu trên nền tảng bởi các bên thứ
ba và đƣợc ngƣời sử dụng dịch vụ Internet truy cập.
Việc phân loại nhà cung cấp nhằm xác định mức độ liên quan của ISP đối
với hành vi vi phạm do ngƣời sử dụng thực hiện, từ đó làm cơ sở quy trách
nhiệm cho ISP. Trong một nghiên cứu chỉ ra rằng khi xem xét các nhà cung cấp
dịch vụ thƣờng xuất hiện các trƣờng hợp sau: Một là, nhà cung cấp truy cập là
những ngƣời chỉ cung cấp truy cập Internet; Hai là, nhà cung cấp nội dung là
những ngƣời chỉ cung cấp nội dung trực tuyến; Ba là, nhà cung cấp không gian
web là những nhà cung cấp cho thuê không gian để ngƣời sử dụng dịch vụ tạo
lập trang Web cá nhân và đăng tải thông tin, dữ liệu lên các trang Web của riêng

họ và cũng có những nhà cung cấp đồng thời cả ba dịch vụ [34].
Mặc dù mỗi quốc gia, khu vực có cách phân loại khác nhau nhƣng về cơ
bản mỗi cách phân loại phù hợp với điều kiện, tình hình riêng tại mỗi quốc gia,
khu vực. Việc định hình, phân loại ISP cụ thể và rõ ràng nhất hiện nay đƣợc đề

15


cập tại Chỉ thị Thƣơng mại điện tử 2000/31/EC của Châu Âu (Chỉ thị ECD),
trong đó phân loại ISP thành 03 (ba) loại hình:
Thứ nhất, ISP là “mere conduit” (hay còn đƣợc gọi là “access” tại một số
tài liệu nƣớc ngồi) - đây là loại hình mà ISP đƣợc xem nhƣ một nhà cung cấp
đường truyền hay là một điểm trung chuyển nhằm thực hiện việc truyền tải thông
tin, dữ liệu, cấp quyền truy cập vào mạng truyền thông (Internet), với hình thức
cung cấp dịch vụ này, ISP sẽ khơng chịu trách nhiệm về thông tin đƣợc truyền
tải trên Internet khi đủ các điều kiện nhƣ: không bắt đầu việc truyền tải dữ liệu;
không thực hiện việc chọn thiết bị truyền phát dữ liệu; và không chọn nội dung
hoặc sửa đổi nội dung, thông tin của dữ liệu đƣợc truyền tải.
Thứ hai, ISP cung cấp dịch vụ “caching” - đây là loại hình ISP tạo ra bộ
nhớ đệm từ đó truyền tải thông tin, dữ liệu của người sử dụng. Bộ nhớ đệm liên
quan đến việc tạo một bản sao nội dung của bên thứ ba để giảm sử dụng băng
thông rộng giúp việc truy cập các trang Web nhanh hơn và ISP không chịu trách
nhiệm về việc lƣu trữ tự động, trung gian và tạm thời của quá trình hoạt động,
bởi mục đích duy nhất của hoạt động này là làm cho hiệu quả hơn việc truyền
thông tin từ ngƣời khác đến ngƣời nhận dịch vụ theo yêu cầu của họ, với điều
kiện: không sửa đổi thông tin; tuân thủ các điều kiện về quyền truy cập vào
thông tin; tuân thủ các quy tắc liên quan đến việc cập nhật thông tin, đƣợc chỉ
định theo cách đƣợc công nhận rộng rãi và đƣợc sử dụng bởi ngành công nghiệp
công nghệ thông tin.
Thứ ba, ISP cung cấp dịch vụ “hosting” - đây là loại hình ISP cung cấp

dịch vụ lưu trữ thông tin, ISP không chịu trách nhiệm về thông tin đƣợc lƣu trữ
theo yêu cầu của ngƣời nhận dịch vụ (ngƣời sử dụng), với điều kiện: ISP thực tế
không biết về thông tin, hoặc hoạt động bất hợp pháp nào đó có liên quan đến
việc yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại; ISP không nhận thức đƣợc sự kiện hoặc hoàn
cảnh thực tế xảy ra hoạt động trái pháp luât; hoặc khi có thơng tin rõ ràng và có
biết về lĩnh vực liên quan, ISP cho thấy mình đã có hành động khẩn trƣơng để
loại bỏ hoặc vơ hiệu hóa quyền truy cập vào dữ liệu, thông tin vi phạm.

16


Từ cơ chế hoạt động của từng loại hình trên theo phân loại của Chỉ thị
ECD, chúng ta có thể thấy mức độ kiểm soát của ISP đối với hành vi của ngƣời
dùng là khác nhau và do đó khi xét trách nhiệm của mỗi loại hình ISP là khác
nhau. Pháp luật Châu Âu có cách tiếp cận khác so với Hoa Kỳ trong việc xem
xét trách nhiệm của ISP, thay vì miễn trừ trách nhiệm cho ISP trong mọi trƣờng
hợp nhƣ quy định của Đạo luật về Thông tin truyền thơng năm 1996 của Hoa Kỳ
thì với các quy định tại Chỉ thị Thƣơng mại điện tử của Châu Âu xem xét, giải
quyết riêng biệt từng vụ việc theo chức năng của ISP.
Trong khi đó, Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn Hiệp định CPTPP), trong
đó có sự phân loại ISP thành 03 loại hình: (1) truyền tải; (2) định tuyến hoặc
cung cấp lƣu trữ; (3) dẫn chiếu hoặc kết nối ngƣời dùng đến một vị trí trực
tuyến. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay mới chỉ định nghĩa “dịch vụ
Internet” là một loại hình dịch vụ viễn thơng bao gồm 02 dạng dịch vụ chính
gồm: (1) Dịch vụ kết nối Internet và (2) Dịch vụ truy nhập Internet [16]. Mặc dù
Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển nhanh với số lƣợng
ngƣời sử dụng năm 2019 đạt 64 triệu ngƣời sử dụng Internet trên tổng dân số gần
97 triệu dân và với tỷ lệ ngƣời dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng
ngày là 94% [21], kèm theo đó là nhiều hoạt động kinh tế, xã hội diễn ra phức
tạp trên Internet nhƣng hệ thống pháp luật chƣa kịp thời hoàn thiện, bổ sung các

quy định về trách nhiệm pháp lý của các ISP, đây là khoảng trống trong pháp
luật Việt Nam, trong khi nguy cơ xâm phạm quyền dân sự trên Internet là rất
cao.
Từ những phân tích ở trên, tác giả xây dựng định nghĩa về ISP nhƣ sau:
“Nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) là một doanh nghiệp hoặc tổ chức thực
hiện các hoạt động thu lợi nhuận từ việc cung cấp các dịch vụ, giải pháp kết nối
mạng toàn cầu (Internet) cho các đơn vị, tổ chức hay cá nhân người sử dụng có
nhu cầu truy cập, khai thác tài nguyên dữ liệu Internet. ISP đảm bảo cung cấp
những thiết bị và quyền truy cập những dịch vụ trên nền tảng Internet, duy trì
các dịch vụ mạng cho người sử dụng”.

17


1.2. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ
Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet
đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của người sử dụng
a) Khái niệm trách nhiệm pháp lý
“Trách nhiệm pháp lý” là một vấn đề quan trọng trong khoa học pháp lý.
Một số tác giả tiếp cận thuật ngữ “trách nhiệm” theo nghĩa là nghĩa vụ, nhiệm
vụ, bổn phận, quyền hạn. Có tác giả hiểu trách nhiệm là “bổn phận phải thực
hiện, nó cịn là điều khơng được làm, được làm, phải làm và nên làm (…). Trách
nhiệm là những gì mà họ buộc phải làm và phải chịu sự giám sát của người
khác” [5; tr. 27-33]. Tác giả khác thì cho rằng trách nhiệm “thường được hiểu là
khả năng của con người ý thức được những kết quả hoạt động của mình, đồng
thời là khả năng thực hiện một cách tự giác những nghĩa vụ được đặt ra cho
mình” [3]. Thơng thƣờng thuật ngữ “trách nhiệm” đƣợc hiểu theo hai nghĩa: Một
là, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận của một ngƣời trƣớc ngƣời khác, trƣớc xã
hội hoặc trƣớc Nhà nƣớc; Hai là, trách nhiệm là hậu quả bất lợi mà một ngƣời

phải gánh chịu trƣớc ngƣời khác, trƣớc xã hội hoặc Nhà nƣớc do đã có hành vi
xâm phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó [38]. Có thể thấy rằng, thuật ngữ chỉ về
“trách nhiệm” còn đƣợc dùng với nhiều nghĩa nhƣ “bổn phận”, “nghĩa vụ”, “hình
phạt”, “xử phạt” [33].
Trong khoa học Lý luận nhà nƣớc và pháp luật, một số tác giả cho rằng
trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nƣớc (thông
qua cơ quan chuyên môn) và chủ thể vi phạm pháp luật (có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân), trong đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất
lợi và những biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc đƣợc quy định ở chế tài pháp
luật [21; tr.307]. Trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay, thuật ngữ trách
nhiệm pháp lý đƣợc tiếp cận theo nghĩa hẹp với hai nghĩa khác nhau: Nghĩa thứ
nhất, trách nhiệm pháp lý đƣợc gắn với vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý
phát sinh do có vi phạm pháp luật, hay còn đƣợc gọi là trách nhiệm pháp lý tiêu

18


×