Trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai
qua thực tiễn Thừa Thiên Huế
Phan Hữu Chánh
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Kiến giải một cách có cơ sở khái niệm trách nhiệm pháp lý của người quản lý
đất đai ở khía cạnh tiêu cực. Nghiên cứu, đã làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm trách nhiệm
pháp lý của người quản lý đất đai, các hình thức trách nhiệm pháp lý của người quản lý
đất đai. Đưa ra được các yêu cầu của Nhà nước đối với trách nhiệm pháp lý của người
quản lý đất đai. Đánh giá một cách tương đối toàn diện các quy định pháp luật về trách
nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai, cũng như thực trạng vi phạm pháp luật của
người quản lý đất đai và thực tiễn áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với người quản lý đất
đai vi phạm. Đề xuất được những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về trách
nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai và những giải pháp bảo đảm việc thực hiện trách
nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai hiện nay.
Keywords: Quản lý đất đai; Lịch sử nhà nước và pháp luật; Luật đất đai; Pháp luật Việt
Nam; Huế
Content
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tặng vật của thiên nhiên dành
cho con người nhưng đất đai không phải là vô tận và nếu việc quản lý, sử dụng không hợp lý thì
con người sẽ phải trả giá cho những hành động của mình. Việc quản lý đất đai ở nước ta trong
những năm qua còn tồn tại rất nhiều vấn đề bất hợp lý gây nhiều phản ứng gay gắt trong nhân
dân và là nỗi trăn trở của các nhà lãnh đạo. Hiện tượng vi phạm pháp luật của người quản lý đất
đai ở Việt Nam hiện nay còn khá phổ biến, nhất là tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về phẩm chất
đạo đức là tương đối nghiêm trọng. Các vi phạm pháp luật không giới hạn ở một lĩnh vực, một
ngành, một địa phương mà xảy ra trên phạm vi rộng, xảy ra ngay trong bộ máy các cơ quan bảo
vệ pháp luật.
Trong bảy năm qua, kể từ khi luật đất đai năm 2003 có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 có rất
nhiều cán bộ, công chức các cấp đã bị xử lý và khởi tố do liên quan đến vi phạm về quản lý pháp
luật đất đai . Tiêu cực đất đai là “địa chỉ nóng” cần đánh mạnh. Vừa qua hàng loạt các vụ án lớn
liên quan đến quản lý đất đai như vụ Đồ Sơn, Phú Quốc, Bình Phước, Tiên Lãng-Hải Phòng
Hiện tượng Đồ Sơn không còn là cá biệt. Tuy mức độ cụ thể có thể khác nhau nhưng chúng ta có
thể khẳng định rằng không nơi nào không có hiện tượng tham nhũng về đất đai, không có nơi
nào cán bộ có chức, có quyền không được giao đất với giá rẻ.
Luật đất đai 2003 ra đời lần đầu tiên đã quy định quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, quy định cụ thể việc xử
lý vi phạm đối với trường hợp cán bộ công chức nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật đất đai
hoặc vi phạm về thực hiện trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất.
Thừa Thiên Huế là một tỉnh duyên hải miền Trung với diện tích đất tự nhiên là Phía Bắc
giáp tỉnh Quảng Trị. Phía Tây giáp nước bạn Lào, phía Đông giáp biển Đông và phía Nam giáp
thành phố Đà Nẵng. Với địa hình phức tạp, đồi núi hiểm trở, dân cư phân bố không đồng đều và
đây là mảnh đất cố Đô gần ngàn năm thuộc chế độ phong kiến, vì vậy vấn đề quản lý vô cùng
phức tạp và dễ dẫn đến những vi phạm trong lĩnh vực này.
Một vấn đề khá nhạy cảm hiện nay trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế là quản lý và sử dụng
đất của các cơ sở tôn giáo, vì vậy cũng cần có những chính sách phù hợp để tránh vi phạm về
quản lý xảy ra trong lĩnh vực này.
Đây là vấn đề khá mới mẻ đối với các công trình nghiên cứu. Trước đây, chủ yếu nghiên
cứu về xử lý vi phạm nói chung và xử lý vi phạm đối với người sử dụng đất. Ít có công trình
nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm pháp lý của người
quản lý đất đai – qua thực tiễn của tỉnh Thừa Thiên Huế. Thực trạng và giải pháp” trong bối
cảnh hiện nay là hợp lý và cần thiết. Đã đến lúc quan cũng giống thứ dân cần phải bị xử lý
nghiêm minh. Nghiên cứu đề tài này cũng là cơ hội để tìm hiểu sâu hơn về thực trạng quản lý đất
đai ở nước ta cũng như việc xử lý vi phạm đối với người quản lý nói riêng và tôi cũng hy vọng sẽ
đóng góp được những giải pháp hay để tháo gỡ phần nào những vướng mắc trong việc xử lý vi
phạm đối với người quản lý đất đai.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu hạn chế vi phạm pháp luật đất đai của những người
quản lý đất đai, nâng cao trách nhiệm pháp lý của họ để mang lại hiệu lực và hiệu quả tốt nhất
của nhà nước trong quản lý đất đai và quyền và lơi ích chính đáng của người sử dụng đất nói.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của người
quản lý đất đai, nhằm nắm được thực trạng của việc vi phạm pháp luật đất đai của người quản lý tại địa
phương. Tìm ra nguyên nhân vi phạm, từ đó rút ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai, đảm bảo thực hiện tốt chế định này trong
thực tiễn.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Kiến giải một cách có cơ sở khái niệm trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai ở
khía cạnh tiêu cực. Trong giới hạn nghiên cứu, đã làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm trách nhiệm
pháp lý của người quản lý đất đai, các hình thức trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai .
- Đưa ra được các yêu cầu của Nhà nước đối với trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất
đai.
- Đánh giá một cách tương đối toàn diện các quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
người quản lý đất đai, cũng như thực trạng vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai và thực tiễn
áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với người quản lý đất đai vi phạm.
- Đề xuất được những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý
của người quản lý đất đai và những giải pháp bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm pháp lý của
người quản lý đất đai hiện nay.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cán bộ, công chức được nhà nước giao quyền trong lĩnh
vực quản lý đất đai
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu vi phạm pháp luật đất đai của người quản lý tại Thừa Thiên Huế trong vòng 5
năm (từ 2006-2011) và được chia thành hai dạng cơ bản sau:
+ Vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai.
+ Vi phạm pháp luật trong sử dụng đất đai.
Trong luận văn này, tôi sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu, khai thác về vi phạm pháp luật đất
đai của người quản lý đất đai.
Luận văn bao gồm những nội dung sau:
- Những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm và xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật đất đai về xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai.
- Thực trạng vi phạm của người quản lý đất đai và xử lý vi phạm đối với người quản lý đất
đai, đồng thời tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến vi phạm và tình trạng xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai chưa triệt để và nghiêm minh.
- Qua các vấn đề nghiên cứu trên, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm ngăn ngừa và xử
lý vi phạm nghiêm minh, triệt để đối với người quản lý đất đai.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI QUẢN
LÝ ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm ngƣời quản lý đất đai
Người quản lý đất đai rất phong phú và đa dạng, bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức,
những người hợp đồng để giao nhiệm vụ quản lý đất đai Luận văn này chủ yếu nghiên cứu
người quản lý đất đai là công chức.
1.1.1. Khái niệm công vụ
Công vụ được hiểu là một loại lao động mang tính phục vụ, tính quyền lực và pháp lý, được
thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trong
quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm công chức
Công chức được hiểu là Công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
(Điều 4 Luật Cán bộ công chức)
1.2. Trách nhiệm pháp lý
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
Như vậy, trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm
pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, được
các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu
những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm
pháp luật.
1.3. Mục đích việc truy cứu trách nhiệm pháp lý
Truy cứu trách nhiệm pháp lý trước hết là nhằm mục đích trừng phạt đối với chủ thể vi phạm
pháp luật, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định
trong chế tài các quy phạm pháp luật. Ngoài mục đích trừng phạt, truy cứu trách nhiệm pháp lý còn có
ý nghĩa rất lớn trong việc phòng ngừa, cải tạo và giáo dục những chủ thể vi phạm pháp luật (ngăn ngừa
sự tiếp tục vi phạm pháp luật của chủ thể và cỉa tạo, giáo dục chủ thể ý thức tôn trọng, thực hiện
nghiêm minh pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng)
1.4. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức hay cá nhân nào đó cần phải xác định được cơ
sở thực tiễn và cơ sở pháp lý làm căn cứ cho việc truy cứu. Về cơ sở thực tiễn để truy cứu trách
nhiệm pháp lý thì phải có vi phạm pháp luật xảy ra. Về cơ sở pháp lý đó là những quy định pháp luật
hiện hành có liên quan đến vi phạm pháp luật đó và thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết vụ
việc đó.
1.5. Các loại trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý có nhiều loại, thông thường chúng được chia thành: Trách nhiệm hình
sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm vật chất
1.6. Những yêu cầu cơ bản đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lý
+ Chỉ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện
+ Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý. Tuân thủ
nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý là điều kiện vô cùng quan
trọng để việc truy cứu được tiến hành chính xác, đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục, đúng
pháp luật
+ Bảo đảm sự công bằng và nhân đạo trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý như
không áp dụng những biện pháp trừng phạt nhằm làm nhục con người, không áp dụng hiệu lực
trở về trước (hiệu lực hồi tố) khi luật quy định trách nhiệm pháp lý mới hoặc quy định trách
nhiệm pháp lý nặng hơn, nếu sự thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra
+ Bảo đảm tính phù hợp khi truy cứu trách nhiệm pháp lý.
+ Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý phải được tiến hành kịp thời, nhanh chóng, công
minh, chính xác theo đúng pháp luật và phải đạt hiệu quả cao.
2.1. Các hành thức trách nhiệm pháp lý trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất
đai
Xử lý vi phạm pháp luật đất đai là việc áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý đối với
người vi phạm nhằm mục đích buộc họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý do hành vi và hậu
quả của hành vi vi phạm gây ra
2.1.1. Trách nhiệm hành chính
- Đối tượng có thể bị xử lý biện pháp hành chính là hững người sử dụng đất và những
người khác nếu có hành vi làm trái với các quy định của pháp luật, về chế độ sử dụng đất, phá vỡ
trật tự quản lý đất đai.
2.1.2.Trách nhiệm kỷ luật
Đối tượng chịu trách nhiệm kỷ luật là những người thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
đất đai có hành vi vi phạm như: lợi dụng chức vụ, quyền hạn, làm trái với quy định của pháp luật
trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, thực hiện kế hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định nghĩa
vụ tài chính về đất đai, quản lý hồ sơ địa chính, ra quyết định hành chính trong quản lý đất đai,
thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về đất đai hoặc có hành vi khác gây
thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Đó là những hành vi vi
phạm nhưng ở mức độ nhẹ, chưa đén mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.1.3. Trách nhiệm hình sự
Căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm pháp luật đất đai
là những vi phạm được quy định trong Điều 140, 141 Luật đất đai năm 2003. Theo đó người sư
dụng đất có hành vi vi phạm đã xử phạt hành chính mà còn vi phạm hoặc vi phạm gây hậu quả
nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý theo Điều 173, Điều 174 Bộ luật hình sự
Đối với người quản lý có hành vi vi phạm pháp luật đất đai đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi
phạm hoặc vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý theo Điều 174 Bộ luật hình sự
2.1.4. Trách nhiệm dân sự
Đối tượng chịu trách nhiệm dân sự là người sử dụng đất, người có trách nhiệm quản lý đất
đai hoặc những người khác có hành vi vi phạm pháp luật đất đai hoặc những người khác có hành
vi vi phạm pháp luật đất đai mà gây thiệt hại cho Nhà nước, cho người khác thì ngoài việc bị áp
dụng một trong những biện pháp trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình
sự còn phải bồi thường theo mức thiệt hại thực tế cho Nhà nước hoặc cho người bị thiệt hại.
Tóm tại: Xử lý vi phạm pháp luật đất đai là nhằm ngăn ngừa và trừng phạt những hành vi
vi phạm đồng thời giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, bảo vệ những quan hệ, những giá trị
được pháp luật ghi nhận. Đó cũng là vấn đề có tính quyết định để duy trì trật tự kỷ cương và
nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý đất đai ở nước ta hiện nay.
3.1. Trách nhiệm pháp lý của cán bộ công chức
3.1.1. Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi cán bộ, công chức thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự coi là tội phạm.
3.1.2. Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi cá nhân, tổ chức có hành vi vi
phạm luật dân sự
3.1.3. Trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm đặt ra khi cá nhân, hoặc tổ chức có hành vi vi
phạm pháp luật hành chính.
Cán bộ, công chức vi phạm pháp luật hành chính cũng phải chịu trách nhiệm như mọi cá
nhân, tổ chức khác.
3.1.4.Trách nhiệm kỷ luật của cán bộ công chức
3.1.4.1. Khái niệm
Trách nhiệm kỷ luật của cán bộ công chức là loại trách nhiệm pháp lý đặt ra khi cán bộ,
công chức có hành vi vi phạm các nguyên tắc của chế độ công vụ. Kỷ luật là hình thức trừng
phạt đối với cán bộ công chức chây lười không hoàn thành nhiệm vụ được giao hoặc vi phạm
nghĩa vụ, vi phạm những điều cán bộ, công chức không được làm. Tùy theo mức độ vi phạm mà
công chức có thể bị áp dụng các hình thức kỷ luật khác nhau.
3.1.4.2. Các trường hợp bị xử lý kỷ luật
3.1.4.3. Những trường hợp chưa xem xét kỷ luật đối với cán bộ, công chức
3.1.4.4. Những trường hợp không áp dụng các hình thức kỷ luật
3.1.4.5. Các nguyên tắc xem xét xử lý kỷ luật cán bộ, công chức
- Khách quan, công bằng, nghiêm minh, đúng thời hiệu quy định
- Khi sử lý kỷ luật cán bộ, công chức phải thành lập Hội đồng kỷ luật. Trừ trường hợp cán
bộ, công chức phạm tội bị Tòa án phạt tù mà không được hưởng án treo.
- Quyết định xử lý kỷ luật phải do người có thẩm quyền ký theo đúng quy định của pháp
luật.
- Mỗi hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một hình thức kỷ luật. Nếu cán bộ, công chức có nhiều
hành vi vi phạm thì bị xử lý kỷ luật về từng hành vi và chịu hình thức kỷ luật cao hơn một mức.
- Cấm mọi hành vi xâm phậm thân thể, danh dự, nhân phẩm của cán bộ, công chức trong
quá trình xem xét xử lý kỷ luật, cấm áp dụng biện pháp phạt tiền thay cho hình thức kỷ luật.
- Không áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức nữ khi đang có
thai và cán bộ, coog chức đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
3.1.4.6. Khiếu nại, khởi kiện quyết định kỷ luật
Trường hợp cán bộ, công chức không đồng ý với quyết định xử lý kỷ luật thì có quyền
khiếu nại đến cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3.1.4.7. Giải quyết các kết luận khiếu nại
Quyết định xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức đã được các cơ quan, tổ chức đơn vị có
thẩm quyền kết luận hoặc Tòa án phán quyết là bị oan thì chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết
luận hoặc từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
nơi cán bộ, công chức làm việc có trách nhiệm công bố công khai kết luận hoặc phán quyết đến
toàn thể cán bộ, công chức đồng thời phải có trách nhiệm bồi hoàn những quyền lợi chính đáng
đối với cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật.
3.1.4.8. Hình thức và thời hiệu kỷ luật
Hình thức kỷ luật
Cán bộ, công chức vi phạm các quy định của pháp luật thì phải chịu một trong các hình
thức kỷ luật sau:
1. Khiển trách
2. Cảnh cáo
3. Hạ bậc lương
4. Hạ ngạch
5. Cách chức
6. Buộc thôi việc
3.1.4.9. Tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức vi phạm pháp luật
Trong thời gian đang bị xem xét kỷ luật, cán bộ, công chức có thể bị cơ quan, tổ chức, đơn
vị có thẩm quyền quản lý ra quyết định tạm đình chỉ công tác nếu xét thấy cán bộ, công chức đó
tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xác minh hoặc tiếp tục có hành vi vi phạm
3.2. Khái niệm, phân loại vi phạm pháp luật
3.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật và cấu thành vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp
lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
3.2.2. Phân loại vi phạm pháp luật
- Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm)
- Vi phạm dân sự: Là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới những quan hệ tài
sản, quan hệ nhân thân
- Vi phạm kỷ luật nhà nước: Là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác lập
trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học
- Vi phạm hành chính: Nói khái quát là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, do tổ
chức, cá nhân thực hiện nhưng chưa đến mức là tội phạm hình sự. Vấn đề này là cơ sở lý luận
của vấn đề mà luận văn nghiên cứu, sẽ được trình bày trong phần dưới đây.
Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm đối với người
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
4.1. Vi phạm pháp luật đất đai:
4.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai
Vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật, được thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm tới quyền lợi của Nhà nước, với vai trò là đại diện cho chủ sở hữu, quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất đai, cũng như các quy định về chế độ sử dụng các loại đất
4.1.2. Dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật đất đai
- Có hành vi trái pháp luật
- Yếu tố lỗi
5.1. Phân loại vi phạm pháp luật đất đai
5.1.1. Vi phạm xâm hại đến quyền đại diện cho chủ sở hữu đất đai của Nhà nước
5.2.2. Vi phạm, xâm phạm đến quyền của người sử dụng đất
- Lấn chiếm đất đai, không tuân theo những nghĩa vụ do pháp luật quy định về ranh giới,
diện tích, lợi ích
6.1. Những yếu tố tác động đến hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời quản lý đất đai
- Do bất cập của pháp luật nói chung và Luật đất đai nói riêng dẫn đến người quản lý dễ bị
vi phạm.
7.1. Những yếu tố tác động đến Truy cứu trách nhiệm pháp lý của những ngƣời quản lý đất
đai.
8.1. Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
8.1.1. Đặc điểm của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Theo quy định của pháp luật hiện hành, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai bao
gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác.
8.2.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
8.2.3. Hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Tóm lại, vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân,
tổ chức vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ
ĐẤT ĐAI HIỆN NAY
2.1 Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức
2.1.1. Về trách nhiệm kỷ luật của công chức
Pháp luật về trách nhiệm kỷ luật của công chức đã xác về nguyên tắc những vấn đề về vi
phạm kỷ luật - cơ sở trách nhiệm kỷ luật, biện pháp trách nhiệm kỷ luật và thủ tục xử lý kỷ luật.
2.1.2. Về trách nhiệm hình sự của công chức
Pháp luật quy định về trách nhiệm hình sự đối với người có chức vụ nói chung, công chức nhà
nước nói riêng đã từng bước được quan tâm hoàn thiện. Tuy nhiên, những quy định như "đã bị xử phạt
hành chính", "đã bị xử lý kỷ luật" hoặc "gây hậu quả nghiêm trọng" trong phần tội phạm có chức vụ
chưa được cụ thể hóa.
2.1.3. Về trách nhiệm hành chính
Pháp luật về trách nhiệm hành chính những năm qua đã được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quan tâm hoàn thiện.
2.1.4. Về trách nhiệm vật chất của công chức
Pháp luật về trách nhiệm vật chất của công chức đã bước đầu được hoàn thiện, đáp ứng yêu
cầu khách quan của đời sống xã hội.
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức
2.2.1. Thực trạng vi phạm pháp luật của công chức
Tình trạng vi phạm pháp luật của công chức nhất là tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về
phẩm chất đạo đức hiện nay đã có những biểu hiện tương đối nghiêm trọng. Vấn đề này được
nêu trong các Báo cáo chính trị Đại hội Đảng IX, X và tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Trong thực tế, các vi phạm này không giới hạn ở một lĩnh vực, một ngành, một địa phương mà
xảy ra trên phạm vi rộng, xảy ra ngay trong bộ máy các cơ quan bảo vệ pháp luật. Các hình thức vi
phạm của công chức cũng rất đa dạng, xảy ra trên nhiều lĩnh vực quản lý, từ những vi phạm nhỏ đến vi
phạm lớn, rất lớn.
2.2.2. Thực trạng áp dụng trách nhiệm pháp lý của công chức
Trong những năm gần đây, các cơ quan chức năng của nhà nước về cơ bản đã phát hiện và
truy cứu trách nhiệm pháp lý kịp thời đối với những cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp
luật. Nhiều vụ án lớn về kinh tế - xã hội, an ninh trật tự như vụ án Đồ Sơn-Hải Phòng, Tiên
Lãng-Hải phòng, Vân Giang, Đồng Phú-Bình Phước … liên quan đến tham nhũng, tiêu cực, lãng
phí, tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có sự tham gia của một số cán bộ
cao cấp trong bộ máy Đảng, chính quyền đã bị phát hiện, xử lý.
2.3. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực và hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về
trách nhiệm pháp lý của công chức
2.3.1. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực
- Về nguyên nhân khách quan
+ Hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức nói riêng đã
và đang được nhà nước quan tâm hoàn thiện.
+ Do yêu cầu của việc đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, cải cách hành chính, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế.
+ Do tác động từ phía dư luận xã hội.
- Về nguyên nhân chủ quan
+ Đại bộ phận công chức nước có phẩm chất đạo đức tốt
2.3.2. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt hạn chế
- Về nguyên nhân khách quan
+ Do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường
- Về nguyên nhân chủ quan
+ Tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, công chức chưa cao
2.4. Tình hình quản lý về đất đai tại tỉnh Thừa Thiên Huế
Trong những năm gần đây Thừa Thiên Huế là một trong những tỉnh có bước phát triển
tương đối nhanh và khá toàn diện: Kinh tế tăng trưởng ở mức cao và ổn định, cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch đúng định hướng và tích cực. Tổ chức thực hiện có kết quả các chương trình, dự
án trọng điểm, nhất là các dự án phát triển kết cấu hạ tầng. Thu hút đầu tư nước ngoài, giá trị sản
xuất hàng hóa các ngành dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp tiếp tục tăng mạnh. Đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
2.5. Những kết quả đạt đƣợc trong lĩnh vực quản lý nhà nƣớc về đất đai thể hiện trong các
nội dung sau:
- Đến nay trên địa bàn tỉnh đã cơ bản hoàn thiện công tác xây dựng và ban hành hệ thống
văn bản pháp quy, tạo khuôn khổ pháp lý để thực hiện công tác quản lý nhà nước về đất đai. Với
phương châm cụ thể hóa, bổ sung sửa đổi kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền của UBND tỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương trên cơ sở căn cứ Luật đất
đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật có hiệu lực, đến nay, UBND tỉnh đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về cấp Giấy chứng nhận QSDĐ như: các chỉ thị về đẩy
nhanh tiến độ cấp Giấy chứng nhận cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, các quyết định ban hành
quy định hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở đối với trường hợp thửa đất ở có vườn ao
cho hộ gia đình, cá nhân, quy định ghi nợ tiền sử dụng đất để cấp giấy CNQSDĐ ở, quy định về
thủ tục thừa kế để cấp giấy CNQSDĐ ở, quy định diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng
loại đất…), quyết định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất,
cho thuê đất trên địa bàn tỉnh…
2.6. Thực trạng vi phạm hành chính về đất đai ở tỉnh Thừa Thiên Huế
Những thành tựu do nền kinh tế thị trường đem lại là không thể phủ nhận, tuy vậy nó cũng
có những mặt hạn chế nhất định:
- Kinh tế thị trường, với cơ chế chạy theo lợi nhuận, dễ làm phát sinh các tiêu cực, các vi
phạm pháp luật.
- Kinh tế thị trường dễ làm phát sinh gian dối, lừa đảo, vì lợi ích cá nhân mà sẵn sàng bất
chấp pháp luật, sẵn sàng "đè" lên lợi ích của cộng đồng để đạt được mục đích riêng của mình.
- Kinh tế thị trường tạo ra sự bất bình đẳng trong phân phối và thu nhập, chính vì thế mà sự
phân tầng xã hội ngày càng rõ.
2.6.1. Tình hình vi phạm
Kiểm tra 152 xã, phường, thị trấn thì 47 xã, phường, thị trấn (bằng 29%) có 352 hộ gia
đình, cá nhân lấn, chiếm 37.069 m
2
, trong đó 212 hộ đã xây dựng nhà ở trên đất lấn, chiếm. Cụ
thể như sau:
Huyện, thành phố
Số xã, phƣờng,
thị trấn trong
huyện, thành
phố
Số xã,
phƣờng, thị
trấn có vi
phạm
Số hộ
vi
phạm
Số ngƣời
quản lý vi
phạm
Diện tích
vi phạm
(m
2
)
Thành phố Huế
27
10
86
4
12.512
Phong Điền
16
7
30
3
1.838
Quảng Điền
11
11
63
3
4.383
Phú Lộc
18
9
29
2
4.070
Phú Vang
20
14
45
7
3.376
Nam Đông
11
11
102
2
6.139
A Lưới
21
13
78
4
12.936
Thị xã Hương Trà
16
10
38
3
2.815
Tổng
140
85
471
28
48.069
2.6.2. Đánh giá tình hình vi phạm hành chính về đất đai ở Thừa Thiên Huế
Vi phạm hành chính về đất đai ở Thừa Thiên Huế thời gian qua có sự tăng, giảm thất
thường; xảy ra nhiều hơn ở Thành phố, thị trấn; vi phạm trong sử dụng đất đai không có xu
hướng "ẩn"; nhưng vi phạm hành chính trong dịch vụ về đất đai hiện nay chưa có trường hợp nào
bị phát hiện, nhưng chắc chắn sẽ gia tăng trong thời gian tới.
2.7. Thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của ngƣời quản lý đất đai ở tỉnh Thừa
Thiên Huế
2.7.1. Quan điểm, chủ trương và các văn bản của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên
Huế trong xử lý vi phạm pháp luật về đất đai nói chung và vi phạm hành chính về đất đai nói
riêng
2.7.2. Kết quả xử lý vi phạm pháp luật đất đai và vi phạm hành chính về đất đai ở Thừa Thiên
Huế
Như chúng tôi đã trình bày tại phần trên thì trong 5 năm qua, UBND tỉnh đã thành lập các
đoàn kiểm tra của tỉnh hoặc chỉ đạo ngành Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp huyện và xã
trong tỉnh tiến hành kiểm tra, phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật đất đai, vi phạm hành
chính về đất đai. Qua kiểm tra đã phát hiện được rất nhiều sai phạm (số liệu trình bày tại tiết phụ
lục), tuy nhiên số vụ bị xử lý hình sự và hành chính lại rất ít. Cụ thể như sau:
+ Thực hiện Công văn số 237/CV-UB ngày 06/4/2006 của UBND tỉnh về kiểm tra việc
quản lý, sử dụng đất đai của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh; từ ngày 27/8/2010 đoàn kiểm
tra của tỉnh đã đi kiểm tra và phát hiện tại 16 cơ quan của tỉnh sử dụng 264.450 m
2
đất không
đúng mục đích, hiệu quả thấp hoặc không sử dụng trong thời gian quá 12 tháng. Nhưng đến ngày
02/1/2011, UBND tỉnh mới quyết định thu hồi được 191.982 m
2
(xấp xỉ 72,3%) tại 6 cơ quan.
+ Thực hiện Chỉ thị 20/2006/CT-UB ngày 03/8/2006 của UBND tỉnh về việc kiểm tra quản
lý, sử dụng đất của các đơn vị sản xuất kinh doanh và đơn vị hành chính sự nghiệp trong tỉnh; đoàn
kiểm tra của tỉnh đã tiến hành kiểm tra 87 đơn vị ở 938 điểm sử dụng đất. Trong đó có 61 đơn vị sản
xuất kinh doanh, 26 đơn vị hành chính sự nghiệp đã phát hiện ở tất cả các đơn vị (87) được kiểm tra
sử dụng đất không đúng mục đích là 29.132,7 m
2
; 9 đơn vị để đất hoang hóa (quá 12 tháng) 29.630
m
2
; 4 đơn vị kinh doanh không nộp tiền thuế đất .
Trong khi kiểm tra, đoàn kiểm tra đã yêu cầu các đơn vị sử dụng đất chưa làm thủ tục ký
hợp đồng thuê đất, những đơn vị có nhà và đất cho thuê, mượn không đúng mục đích kinh doanh
phải thanh lý hợp đồng với từng trường hợp cụ thể. Yêu cầu 9 đơn vị sử dụng đất lãng phí, kém
hiệu quả quy hoạch lại 80.154 m
2
, đề nghị cấp có thẩm quyền thu hồi 26.110 m
2
đất hoang hóa .
Nhưng sau khi kiểm tra, các doanh nghiệp lại vi phạm và các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử
lý vi phạm không tiến hành bất kỳ một xử lý nào.
+ Kiểm tra theo Chỉ thị số 11/2007/CT-UB ngày 21/5/2008 của UBND tỉnh về tăng cường
công tác quản lý, sử dụng đất đai; Chỉ thị số 12/2006/CT-UB ngày 08/8/2006 của UBND tỉnh về
tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh công tác quản lý, sử dụng đất đai ở các xã, phường, thị trấn
trong tỉnh, đã phát hiện ở 76 xã, phường, thị trấn và 156 doanh nghiệp, hộ gia đình. Kết quả xử lý là:
Yêu cầu các đơn vị cho thuê và đi thuê đất phải làm đầy đủ thủ tục hành chính về cho thuê đất;
thu hồi 32,1 ha đất của 24 doanh nghiệp sử dụng đất lãng phí, không đúng mục đích; các vi phạm
trên không xử lý hình sự và hành chính .
2.7.3. Nhận xét đánh giá về tình hình xử lý vi phạm hành chính về đất đai ở Thừa Thiên Huế
Tóm lại, vi phạm pháp luật về đất đai ở Thừa Thiên Huế còn xảy ra rất nhiều; các cấp ủy
Đảng, chính quyền trong tỉnh đã ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo, định hướng cho phòng,
chống vi phạm, nhưng do số vụ vi phạm bị xử lý hành chính và hình sự không có hoặc rất ít, dẫn
đến vi phạm không giảm mà còn có chiều hướng gia tăng. Nếu Thừa Thiên Huế không có biện
pháp hữu hiệu trong quản lý và sử dụng đất đai thì hậu quả sẽ khó khắc phục, đặc biệt khi Thừa
Thiên Huế "mở cửa" kêu gọi đầu tư; thực hiện chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp, nông thôn.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN
VỀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
3.1. Yêu cầu khách quan, cấp bách và quan điểm tăng cƣờng trách nhiệm pháp lý của ngƣời
quản lý đất đai ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay
3.1.1. Yêu cầu khách quan, cấp bách của việc tăng cường Trách nhiệm pháp lý về đất đai ở
Thừa Thiên Huế
Một là, đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, với Thừa Thiên Huế -
một tỉnh "đất chật, người đông", thì tính chất quý giá và đặc biệt của đất đai lại càng cao hơn. Nếu
phòng, chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai không tốt, sẽ phá vỡ trật tự, kỷ cương, làm
giảm hoặc làm mất hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai, dẫn đến thiếu công bằng, mâu thuẫn, bất bình
trong nội bộ nhân dân, có thể sẽ dẫn đến diễn biến phức tạp, khó lường, cùng nguy cơ tiềm ẩn những
phản ứng có tính chất điểm nóng của nhân dân như năm 2007.
3.1.2. Quan điểm về nâng cao Trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai ở Thừa Thiên
Huế hiện nay
Từ những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của
Thừa Thiên Huế về phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến đất đai; trên cơ sở nghiên cứu lý
luận và thực tiễn việc xử lý vi phạm hành chính về đất đai; chúng ta thấy rằng, tăng cường Trách
nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai phải quán triệt đầy đủ các quan điểm
3.2. Các giải pháp kiến nghị góp phần áp dụng có hiệu quả và hoàn thiện các quy định của
pháp luật về Trách nhiệm pháp lý của ngƣời quản lý đất đai
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quản lý, sử dụng đất đai và xử lý vi phạm hành chính về đất
đai
Như chúng ta đã biết đất đai có vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế -
xã hội, vì vậy một số cơ quan, đơn vị và cá nhân luôn tìm cách lấn, chiếm, sử dụng đất đai không
đúng mục đích; chuyển đổi, chuyển nhượng không tuân thủ quy định của pháp luật…, nhất là
trong quá trình thực hiện CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Để tăng cường QLNN đối với đất đai,
Nhà nước ta đã và đang không ngừng ban hành, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật
đất đai và xử lý vi phạm hành chính về đất đai để tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng điều
chỉnh những quan hệ xã hội hết sức phức tạp và nhạy cảm đang tồn tại trong lĩnh vực này. Chính
vì vậy, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã chỉ rõ: "Cùng với pháp
luật, Nhà nước phải ban hành hệ thống chính sách để định hướng và thúc đẩy nền kinh tế phát
triển theo những mục tiêu đã đề ra. Đối với nông nghiệp và nông thôn, chính sách ruộng đất là
một trong những chính sách quan trọng nhất".
Trong việc ban hành văn bản pháp luật ở nước ta, thực tế có hạn chế là do nhiều nguyên
nhân khác nhau, một số văn bản chính đã ban hành, nhưng văn bản hướng dẫn chưa được chuẩn
bị hoặc một thời gian dài sau đó mới được ban hành đã ảnh hưởng đến tính khả thi của văn bản
gốc. Những hạn chế đó phải sớm được khắc phục và đổi mới, nhất là trong quy trình lập pháp,
lập quy, khi nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XNCN Việt Nam như Hội nghị lần
thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã chỉ rõ: "Văn bản chính chỉ ban hành khi đã cơ
bản chuẩn bị được văn bản hướng dẫn" .
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý nhà nước về đất đai và xử
lý vi phạm hành chính về đất đai
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý nhà nước về đất đai và xử lý
vi phạm hành chính về đất đai là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra đường lối,
chủ trương cụ thể trên lĩnh vực đất đai; Nhà nước thể chế hóa những đường lối, chủ trương đó
thành pháp luật, thành những quy định chung thống nhất trên quy mô toàn quốc về quản lý, sử dụng
đất đai và xử lý vi phạm hành chính về đất đai. Đồng thời, Đảng thường xuyên theo dõi, kiểm tra,
hướng dẫn, chỉ đạo việc chấp hành đường lối, chủ trương đó; khuyến khích những mặt tốt, tích cực;
xử lý, uốn nắn kịp thời những lệch lạc, những vi phạm.
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai với mọi tầng lớp nhân
dân
Ý thức pháp luật là nhân tố năng động, thường xuyên bám sát sự thay đổi liên tục của
thực tiễn để kịp thời thực hiện, tuân thủ, tôn trọng, phát hiện, đề xuất, kiến nghị ban hành, sửa
đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng. Ý thức pháp
luật là một hình thái ý thức xã hội, nên ý thức đó không thể tự có nhanh chóng ở mỗi con người
được; vì vậy muốn pháp luật nói chung, pháp luật đất đai nói riêng được thực hiện và tuân thủ
một cách nghiêm minh thì phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai
với mọi tầng lớp nhân dân.
3.2.4. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai và xử lý vi phạm hành
chính về đất đai
Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng, mỗi công việc lại cần một đội ngũ cán bộ có trình độ,
phẩm chất, năng lực tương ứng. Hiện nay ở nước ta, việc không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức ngành địa chính, đội ngũ cán bộ công chức làm nhiệm vụ tham mưu giúp các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đất đai, các cá nhân có
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về đất đai là một trong những yếu tố quan trọng góp phần
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính về đất đai.
2.5. Nâng cao chất lƣợng công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thực hiện tốt việc
thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất; đẩy nhanh tiến
độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thống kê và kiểm kê đất đai, xây dựng bản đồ hiện
trạng sử dụng đất, cấp GCNQSDĐ nhằm đánh giá hiện trạng sử dụng đất đai, xác định rõ quỹ đất
đang sử dụng, quỹ đất đã đưa vào sử dụng nhưng còn để hoang hóa, quỹ đất chưa sử dụng, tình
hình biến động đất đai so với kỳ kiểm kê trước, làm căn cứ để lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất kỳ tiếp theo, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt,
thiết lập tài liệu điều tra cơ bản về tài nguyên đất của từng đơn vị hành chính ở các cấp, từ đó đề
xuất việc hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai của cấp huyện
và cấp tỉnh, hoàn chỉnh các chính sách pháp luật đất đai của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp CNH, HĐH của địa phương, của tỉnh và của cả nước.
2.6. Tăng cƣờng kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động quản lý, sử dụng đất đai; xử lý
nghiêm minh, kịp thời các vi phạm hành chính về đất đai
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, mở cửa, như hiện nay, khi mà "tấc đất" là "tấc vàng", và đặc biệt với Thừa
Thiên Huế là một tỉnh nông nghiệp thì công tác quản lý và sử dụng đất đai càng có tầm quan
trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đổi mới, vì vậy đòi hỏi cần phải tăng cường kiểm tra,
thanh tra, giám sát hoạt động quản lý và sử dụng đất đai; xử lý nghiêm minh, kịp thời các vi
phạm hành chính về đất đai.
3.2.7. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đất đai
Hiện nay, các cơ quan Nhà nước đều ứng dụng tin học để quản lý trong lĩnh vực chuyên
môn của mình, quản lý về đất đai cũng không là ngoại lệ. Ứng dụng tin học trong quản lý đất đai
sẽ mang lại tính chính chính xác từ khâu đo đạc, quản lý, lưu trữ Từ đó sẽ hạn chế việc vi phạm
của những người quản lý.
3.2.8. Lắng nghe ý kiến của nhân dân về công tác quản lý đất đai để phát hiện và xử lý kịp thời
những vi phạm của người quản lý đất đai.
Thông tin từ nhân dân là một kênh vô cùng quan trọng. Từ thực tiễn của nhiều vụ án liên
quan đến đất đai chúng ta thấy rằng: Chính nhân dân đã phát hiện ra nhiều sai phạm của những
người quản lý về đất đai, góp phần phát hiện nhanh chóng và xử lý kịp thời những trường hợp vi
phạm.
Tóm lại, vi phạm pháp luật về đất đai nói chung và vi phạm hành chính về đất đai nói
riêng dẫn đến Trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai ở Thừa Thiên Huế là hệ quả trực
tiếp của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là do ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị
trường trong thời kỳ đầu chuyển đổi nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường. Để phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính về đất đai, đòi hỏi các cấp, các ngành
phải thực hiện bằng nhiều giải pháp, các giải pháp này có mối quan hệ hữu cơ với nhau tạo thành
sức mạnh tổng hợp, được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, của các cơ quan, các đơn vị. Các
giải pháp này phải được được tiến hành một cách đồng bộ, thường xuyên, có sơ kết, tổng kết rút
kinh nghiệm; có như vậy mới hạn chế được vi phạm pháp luật về đất đai nói chung và vi phạm
hành chính về đất đai nói riêng. Với Thừa Thiên Huế, một tỉnh chủ yếu là nông nghiệp, mật độ
dân số cao thì việc thực hiện đồng bộ các giải pháp đó là cần thiết cho phòng, chống vi phạm
hành chính về đất đai mà luận văn đã đề cập trong chương 3.
KẾT LUẬN
Với mọi quốc gia, ở mọi thời điểm thì đất đai luôn là nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn
tài sản vô cùng quý giá, không thể thay thế được. Đất đai có vị trí và tầm quan trọng vô cùng lớn
lao trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của mọi quốc gia, dân tộc; càng ngày nó
càng được khai thác có hiệu quả hơn để phục vụ đời sống con người. Ở nước ta, từ trước đến
nay, đất đai luôn được mọi chế độ Nhà nước quan tâm, bảo vệ; đặc biệt là chế độ Nhà nước
XHCN. Đảng và Nhà nước ta nhận thức rất rõ tầm quan trọng và ý nghĩa đó, bởi mỗi tấc đất Việt
Nam đã thấm bao mồ hôi, máu và nước mắt của mọi thế hệ người Việt Nam.
Cũng chính vì đất đai có vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, nên nhiều cán bộ quản
lý đất đai đã cố tình vi phạm pháp luật đất đai, tìm mọi cách để làm lợi cho mình từ đất đai, đặc
biệt là với Thừa Thiên Huế, khi mà bình quân diện tích đất trên đầu người rất thấp. Để hạn chế vi
phạm pháp luật đất đai cần phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai với nhiều biện
pháp như làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục; xử lý nghiêm các vi phạm dù đối
tượng vi phạm là bất kỳ ai, giữ bất kỳ vị trí gì trong xã hội; nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ
làm công tác quản lý nhà nước về đất đai Một trong các biện pháp hữu hiệu để quản lý đó là xử
phạt vi phạm hành chính. Xử phạt vi phạm hành chính về đất đai được áp dụng đối với cá
nhân(Cán bộ, công chức), cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý, hoặc vô ý vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính.
Những năm qua, việc xử lý vi phạm hành chính về đất đai ở Thừa Thiên Huế đã đạt
được những kết quả rất tích cực, cùng nhân dân cả nước bảo vệ từng tấc đất - đó là thành quả
cách mạng do bao thế hệ người Việt Nam đã hy sinh xương máu của mình để bảo vệ; góp
phần quan trọng vào việc ổn định tình hình chính trị, an ninh trật tự; đưa đất đai vào sử dụng
ngày một đúng pháp luật, hiệu quả, tiết kiệm; người sử dụng đất gắn bó với đất hơn và sử
dụng đất hiệu quả hơn; dành được nhiều đất hơn để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các
khu công nghiệp, cụm công nghiệp, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh trong những năm qua.
Tuy việc xử lý vi phạm hành chính về đất đai đối với người quản lý đất đai ở Thừa Thiên
Huế đã đạt được những kết quả đáng khích lệ như vậy, nhưng chính bản thân nó cũng còn những
bất cập, hạn chế, yếu kém nhất định. Vi phạm đất đai xảy ra nhiều nhưng xử lý ít, thậm chí
không xử lý; dùng văn bản chỉ đạo, đôn đốc, nhắc nhở thay cho việc xử phạt; từ đó dẫn đến tình
trạng vi phạm liên tục tái diễn, làm "nhờn" pháp luật và diễn biến phức tạp mà hậu quả chưa thể
lường trước được.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do hệ thống pháp luật về đất đai, về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai chưa hoàn chỉnh; trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác quản lý nhà nước về đất đai, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức có thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính về đất đai còn hạn chế; một bộ phận đội ngũ cán bộ này thiếu trách nhiệm, né
tránh, thoái hóa, biến chất; việc xử lý vi phạm không nghiêm, không có tính răn đe, ngăn ngừa và
giáo dục; bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác như sự hiểu biết về pháp luật, tinh thần
và trách nhiệm chưa cao của một số ít nhân dân
Vì vậy, việc xử lý vi phạm hành chính của cán bộ quản lý về đất đai hiện nay ở Thừa Thiên
Huế trở nên bức xúc và cấp thiết, nó xuất phát từ thực trạng hoạt động của chính bản thân nó
trước những đòi hỏi và sự phát triển của xã hội, của nền kinh tế nước ta hiện nay.
Xử lý vi phạm hành chính của cán bộ quản lý về đất đai, phòng, chống vi phạm hành chính về
đất đai phải dựa trên nhiều cơ sở, sử dụng nhiều giải pháp và áp dụng nhiều phương pháp, biện pháp
khác nhau, nhưng chủ yếu dựa vào các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý
đất đai và xử lý vi phạm hành chính của cán bộ quản lý về đất đai; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác quản lý, sử dụng đất đai và xử lý vi phạm hành chính về đất đai; đẩy mạnh tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai cho mọi tầng lớp nhân dân; nâng cao trình độ đội ngũ
cán bộ làm công tác quản lý đất đai và xử lý vi phạm hành chính về đất đai; nâng cao chất lượng
công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thực hiện tốt việc thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng
bản đồ hiện trạng sử dụng đất; đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; tăng
cường kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động quản lý, sử dụng đất đai, xử lý nghiêm minh, kịp thời
các vi phạm hành chính về đất đai.
Muốn xử lý vi phạm hành chính của cán bộ quản lý về đất đai, phòng và chống vi phạm
hành chính về đất đai có hiệu quả thì chúng ta phải tiến hành một cách tích cực, đồng bộ và kiên
quyết các giải pháp trên.
References
1. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 của Chính phủ về thi hành
Luật Đất đai, Hà Nội.
2. Chính phủ (2004), Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Hà Nội.
3. Chính phủ (2009), Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Hà Nội.
4. Cục Thống kê Thừa Thiên Huế (2008), Báo cáo xu hướng biến động dân số và tác động
của nó đến sự phát triển của Thừa Thiên Huế.
5. Cục Thống kê Thừa Thiên Huế (2009), Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế
năm 2009, Thừa Thiên Huế.
6. C.Mác - Ph.Ăngghen (1979), Tuyển tập, tập 23, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Trần Thị Minh Châu (2012), “Quan hệ lợi ích giữa các chủ thể kinh tế trong Luật đất đai ở
Việt Nam”, Hội thảo khoa học.
9. Đào Trung Chính (2012), “Thực trạng, những vấn đề đặt ra, một số kiến nghị về chính
sách và giải pháp đối với đất nông nghiệp và sử dụng đất nông nghiệp hiện nay”, Tổng cục
quản lý đất đai.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998),Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Trần Ngọc Đường (2010), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
21. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Giáo trình Luật Hành chính và Tài phán hành
chính Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
22. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
23. Trần Quang Huy (2011), “Phương án giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa nhà
nước, người bị thu hồi đất, nhà đầu tư trong các dự án thu hồi đất để phát triển kinh tế”,
Luật học. (4).
24. Tôn Gia Huyên (2012), “Tổng quan quản lý nhà nước về đất đai trong những năm đổi mới
vừa qua”, Viện nghiên cứu lập pháp Quốc hội.
25. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi,
bổ sung năm 2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội (2004), Luật Đất đai năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2010), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999(sửa
đổi, bổ sung năm 2009), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội (2011), Luật Tố cáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Quốc hội (2012), Luật Tố tụng hành chính, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
36. Hoàng Thị Kim Quế. “Khoa học về lý luận chung Nhà nước và Pháp luật – truyền thống và
hiện đại, kế thừa và đổi mới”. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Trung tâm KHXH&NV
Quốc gia. Số 124/1998.
37. Nguyễn Thanh Sơn (2012). “Thực tiễn thi hành pháp luật đất đai tại Thừa Thiên Huế -
Thực trạng và giải pháp”.
38. Sở Tài nguyên và Môi trường Thừa Thiên Huế (2009), Báo cáo số 51/BC-TNMT ngày
24/11 về tình hình quản lý, sử dụng đất đai thời gian qua và kế hoạch sử dụng đất năm
2015, Thừa Thiên Huế.
39. Sở Tài nguyên và Môi trường Thừa Thiên Huế (2011), Báo cáo số 05/BC-TNMT ngày
24/01 về kết quả công tác năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 20125, Thừa Thiên
Huế.
40. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (1999), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế 1930-1975, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
41. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (2007), Nghị quyết 06/NQ-TU ngày 12/01 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh về những chủ trương, giải pháp ổn định tình hình trong tỉnh, Thừa Thiên
Huế.
42. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (2010), Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên Huế lần thứ
15, Thừa Thiên Huế.
43. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (2010), Nghị quyết số 07/NQ-TU ngày 20/3 về việc dồn điền đổi
thửa và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, Thừa Thiên Huế.
44. Thừa Thiên Huế-Thực trạng và giải pháp”
45. Lê Minh Tâm (2001), "Về một số điểm mới trong báo cáo Chính trị Đại hội Đảng IX và
những vấn đề đặt ra đối với luật học", Luật học, (3),
46. Nguyễn Quang Tuyến (2012), “Đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ trong hệ thống pháp
luật đất đai-tiếp cận từ việc nhận diện những vướng mắc, bất cập trong hệ thống pháp luật
đất đai”, Luật học,(5),
47. Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình Lý
luận chung về Nhà nước và Pháp luật-Khoa Luật, 2010.
48. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
50. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Hành chính, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
51. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2009), Chỉ thị số 11/2009/CT-UB ngày 21/5 tăng cường
công tác quản lý nhà nước về đất đai, Thừa Thiên Huế.
52. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2010), Tờ trình số 52/TT-UB ngày 29/12/2010 về
kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2005-2010), Thừa Thiên Huế.
53. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2010), Báo cáo số 75/BC-UB ngày 24/12 về tình
hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 và mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu năm 2012, Thừa
Thiên Huế.
54. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2011), Báo cáo số 63/BC-UB ngày 04/10 về tình
hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2011, Thừa Thiên Huế.
55. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2011), Công văn số 1829 ngày 18/10 về xử lý vi
phạm Luật Đất đai trên địa bàn tỉnh, Thừa Thiên Huế.
56. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2011), Thừa Thiên Huế, Tiềm năng và đầu tư phát
triển, Thừa Thiên Huế.
57. Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Tài liệu
học tập và nghiên cứu môn học Nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội.
58. VI. Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
59. VI. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
60. VI. Lênin (1993), Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
61. V.M. Cogan (1997), Các đặc tính xã hội của tình trạng tội phạm, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.