Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Nguyen Chi Thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.71 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Nguyễn Chí Thanh: Vị đại tướng được Bác Hồ đặt tên</b>


By Thượng tướng Phùng Thế Tài


<b>- Quân đội ta có hai vị Đại tướng đầu tiên thì một người xuất</b>
<b>thân từ trí thức, một người xuất thân từ nơng dân và cùng q</b>
<b>Bình Trị Thiên. Có điều đặc biệt, người xuất thân từ trí thức</b>
<b>thì trở thành quan võ, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tư lệnh.</b>
<b>Người xuất thân từ nơng dân thì trở thành quan văn, Chủ</b>
<b>nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam...</b>


<b>Người cộng sản kiên cường</b>


Nói thế thơi, chứ thực ra cả hai vị đại tướng này đều là văn võ
kiêm tồn, đều có nhãn quan chiến lược vào loại tầm cỡ, xứng
đáng được ghi vào sử sách. Một người thì rõ ràng đã được thế giới
suy tơn là một trong các vị tướng nổi tiếng thế giới. Còn một người
thì đã từ giã chúng ta, để lại một chỗ trống khơng gì có thể bù đắp
được và cho đến nay nhiều người vẫn nuối tiếc...


Tên khai sinh của anh là Nguyễn Vịnh. Tại Hội nghị Đảng toàn quốc ở Tân Trào tháng 8/1945,
khi nghe có tên Nguyễn Chí Thanh trong danh sách Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nguyễn
Vịnh quay sang hỏi đồng chí Võ Nguyên Giáp ngồi bên cạnh: "Nguyễn Chí Thanh là ai mà nghe
lạ thế!". Đồng chí Võ Nguyên Giáp mỉm cười trả lời: "Là anh chứ ai nữa, chính Bác đặt tên cho
anh đấy". Nguyễn Vịnh vừa ngỡ ngàng, vừa sung sướng! Từ đây cái tên Nguyễn Chí Thanh trở
thành một phần lịch sử của quân đội ta, của Cách mạng Việt Nam.


Nguyễn Vịnh sinh ngày 1/1/1914 tại làng Niệm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.
Cuối năm 1936, đầu năm 1937, anh may mắn được gặp các anh Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí
Diểu trong Phong trào Mặt trận Bình dân và bắt đầu được giác ngộ về lý tưởng Cộng sản. Tháng
7/1937, Nguyễn Vịnh được kết nạp vào Đảng.



Trong 8 năm, từ khi là một đảng viên Đảng Cộng sản Đơng Dương, rồi Bí thư Chi bộ và sau đó
là Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, Nguyễn Vịnh đã bị đế quốc bắt giam 3 lần ở các nhà lao Huế, Lao
Bảo, Buôn Ma Thuột và đã từng vượt ngục để tiếp tục hoạt động. Suốt thời gian lăn lộn với
phong trào cũng như những năm tháng bị tù đày Nguyễn Vịnh luôn tỏ ra là một đảng viên cộng
sản kiên cường, nguy hiểm khơng sờn lịng, khó khăn khơng lùi bước. Anh đã góp phần xây
dựng cơ sở Đảng, đẩy mạnh phong trào cách mạng ở Thừa Thiên - Huế trong suốt thời kỳ hoạt
động bí mật trước cách mạng.


<b>"Chúng ta chỉ sợ mất lòng tin của dân"</b>


Đầu năm 1947, anh là người có cơng lớn trong việc khơi phục
phong trào sau khi mặt trận Huế bị vỡ. Ngày 25/3/1947, tức 40
ngày sau khi quân ta rút khỏi Huế, với cương vị là Ủy viên Trung


Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh (1/1/1914-6.7.1967)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, anh triệu tập một cuộc họp đặc biệt, địa điểm họp không
phải ở chiến khu mà là ở ngay làng Nam Dương (huyện Phong Điền) - một làng ở ngay sát nách
địch, chỉ cách Huế 20 cây số.


Mở đầu cuộc họp, anh đọc lá thư đề ngày 5/3/1947 của Bác Hồ "Gửi các đồng chí Trung
Bộ", nêu lên những khuyết điểm của cán bộ đảng viên trong những ngày đầu kháng
chiến. Liên hệ với tình hình địa phương, anh nghiêm khắc tự phê bình và phê bình để rút
ra bài học sâu sắc trong thời gian qua. Anh nói: "Bộ đội ta rất anh dũng. Tinh thần cách
mạng của đồng bào ta rất cao. Điều đáng trách là cán bộ, đảng viên chúng ta không biết
cách tổ chức huấn luyện và chỉ huy anh em đánh giặc".


Cuối cùng anh củng cố lòng tin cho mọi người: "Mất đất chưa phải là mất nước. Chúng ta
chỉ sợ mất lòng tin của dân. Có lịng tin của dân là có tất cả. Vì vậy chúng ta khơng được


chạy dài. Chúng ta phải trở về với dân".


Bác Hồ và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
bên ao sen ở Nghệ An. Ảnh tư liệu


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

địch". Từ đó phong trào kháng chiến ở vùng sau lưng địch của Bình Trị Thiên đã vượt qua được
những khó khăn hiểm nghèo, từng bước tiến lên giành những thắng lợi.


Năm 1948, Trung ương quyết định thành lập Phân khu Bình Trị Thiên để thống nhất chỉ huy 3
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Phân khu ủy Bình Trị Thiên được thành lập và anh
Thanh được chỉ định làm Bí thư.


Nhận nhiệm vụ mới, anh cùng các đồng chí trong Phân khu ủy đi sâu nghiên cứu tình hình và ra
nghị quyết mở một chiến dịch phá tề trong cả 3 tỉnh của Phân khu. Đây là một chủ trương sáng
suốt và kịp thời. Kết quả là cả một hệ thống ngụy quyền địch ở cơ sở bị ta đập vỡ từng mảng lớn,
làm cho chúng hết sức hoảng sợ. Bởi vì khi một khu vực hàng mấy huyện lớn khơng cịn hội tề
nữa thì tự nhiên cả hệ thống đồn bốt của địch bị trơ ra giữa vịng vây của nhân dân.


Trên một vùng nơng thơn rộng lớn của Bình Trị Thiên, sau chiến dịch đâu đâu cũng có chính
quyền cách mạng, có dân qn du kích hoạt động, những đồn lẻ của địch bị tiêu diệt.


Những cuộc hành quân của địch luôn bị chặn
đánh bởi hoạt động của du kích tại chỗ.
"Bình Trị Thiên khói lửa" sau một thời gian
tạm lắng đã vươn lên hịa nhập với phong
trào cả nước. Trong chiến cơng chung đó có
sự đóng góp quan trọng, nếu khơng nói là
quyết định của Nguyễn Chí Thanh. Sau sự
việc này, Bác Hồ đã tặng Nguyễn Chí Thanh
danh hiệu: "Vị tướng du kích".



Giữa năm 1950, cuộc kháng chiến chống
Pháp bước sang một giai đoạn mới, quân đội
ta phát triển nhanh chóng và ngày càng lớn
mạnh. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Chí Thanh
được Đảng giao cho một trọng trách mới.
Anh được điều động vào quân đội và được


bổ nhiệm giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Về Đảng anh
được cử giữ chức Phó bí thư Quân ủy Trung ương.


Năm 1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2, Nguyễn Chí Thanh được bầu lại vào Ban Chấp
hành Trung ương và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.


Với trọng trách đảm nhận cơng tác Đảng, cơng tác chính trị trong qn đội, Nguyễn Chí Thanh
đã có đóng góp to lớn tạo nên sức mạnh của quân đội ta, liên tiếp đánh thắng địch trong nhiều
chiến dịch lớn, kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử tháng 5/1954. Năm 1959, anh
được phong hàm Đại tướng và đây là vị Đại tướng thứ hai của quân đội ta.


Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3 tháng 9/1960, Nguyễn Chí Thanh lại được bầu vào Ban
Chấp hành Trung ương và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Năm 1961, do u cầu của cơng cuộc hợp tác hóa nơng nghiệp và đẩy mạnh sản xuất nơng
nghiệp, Nguyễn Chí Thanh được Trung ương Đảng giao cho phụ trách Ban Nông nghiệp Trung
ương. Chỉ ít lâu sau, một phong trào thi đua mới trên mặt trận nông nghiệp nổi lên như sóng cồn.
Đó là kết quả của mấy tháng liền Nguyễn Chí Thanh xuống xâm nhập cơ sở ở Hợp tác xã Đại
Phong (xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình). Bài báo "Hoan nghênh Hợp tác xã Đại
Phong" do anh viết đăng trên báo Đảng, trở thành một sự kiện trong đời sống chính trị của nhân
dân miền Bắc lúc bấy giờ.



<b>Con người của quần chúng</b>


Nói đến Nguyễn Chí Thanh là nói đến quần chúng, nói đến phong trào quần chúng. Hầu như anh
sinh ra trên đời này là để sống với nhân dân. Là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Nơng nghiệp
Trung ương nhưng hầu như Nguyễn Chí Thanh có mặt cả tháng liền với các hợp tác xã, và từ đó
sinh ra gió "Đại Phong". Hồi cịn là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cũng vậy - Là Đại tướng
nhưng Nguyễn Chí Thanh thường xun có mặt ở các đơn vị, gần gũi cán bộ, chiến sĩ và từ đó
cờ "Ba Nhất" phất phới bay. Có thể nói Nguyễn Chí Thanh ở đâu là ở đó có phong trào quần
chúng. Bởi anh tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh của quần chúng. Anh thường nói, khơng có quần
chúng thì khơng thể có thắng lợi của cách mạng. Anh cũng thường nói: "Cán bộ thế nào thì
phong trào thế ấy", cán bộ phải lăn lộn, gắn bó với phong trào và chính anh là điển hình của một
cán bộ như thế.


Có một giai thoại về vị "Đại tướng nơng dân" này rất thú vị. Đó là vào năm 1951, khi Nguyễn
Chí thanh vừa được bổ nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị chưa được bao lâu, anh
cùng đơn vị đi Chiến dịch Hịa Bình. Trên đường hành qn ra trận, phải qua một con suối, ai
cũng xắn quần lội qua. Có một anh cán bộ cấp đại đội hay tiểu đoàn gì đó đang loay hoay với đơi
giày thì thấy một người trạc tuổi chưa đến 40, da ngăm đen, khỏe mạnh mặc bộ quần áo nâu bạc
đi qua, anh cán bộ nghĩ chắc là một bác nông dân, liền gọi lại:


- Ơng chịu khó cõng mình qua suối một tí.


"Người đó" khơng tỏ ra khó chịu mà vui vẻ nhận lời, ghé lưng vén quần cõng anh cán bộ qua
suối.


Sang đến bờ bên kia, anh cán bộ phấn khởi vỗ vai người đã giúp cõng mình qua suối, định nói
lời cảm ơn. Nhưng bỗng thấy bác nơng dân nghiêm mặt lại, nói giọng miền Trung nghiêm khắc:
- Cậu có biết tớ là ai khơng?


Anh cán bộ chưa kịp định thần vì câu hỏi bất ngờ thì được nghe người đó nói tiếp:



- Tớ là Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Hơm nay tớ giúp cậu vì xét ra cậu
cũng cần giúp nhưng nhớ lần sau đừng bắt người khác cõng như thế nữa nhé.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

trong khu quân đội. Anh tâm sự với các đồng
chí xung quanh: "Từ chiến tranh chuyển sang
hịa bình, khó tránh khỏi chớm nở trong bộ
đội tư tưởng địi hưởng thụ. Mình ở nhà sang
q thì khó gần gũi anh em, mà có khi muốn
nói điều cần nói cũng khó lọt tai người
nghe".


Trung tướng Đồn Chương, nguyên thư ký
riêng cho anh Thanh nhiều năm, kể lại: Theo
chế độ, chính sách, với cương vị cao là Ủy
viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị, gia đình anh được cơ quan trang bị
thêm tủ, giường và một số đồ dùng khác.
Nhưng anh bảo đem phân phối cho những
anh em khác cịn thiếu thốn.


Trung tướng Đồn Chương cịn nói về chị


Cúc, vợ anh bằng những lời lẽ tốt đẹp: "Là vợ một cán bộ lãnh đạo cao cấp, nhưng tuyệt nhiên
chị không bao giờ cậy thế chồng để lên mặt "bà chủ" với anh em phục vụ. Điều đó một phần do
bản chất đơn hậu của chị, một phần quan trọng là do thái độ của anh Thanh. Anh chúa ghét
những thói ấy".


Có một lần anh xuống dự đại hội đại biểu một tỉnh có nhiều hiện tượng cán bộ đảng viên tham ơ,
xâm phạm đến lợi ích của quần chúng. Kỳ giáp hạt năm ấy địa phương bị mất mùa, nhân dân


thiếu ăn. Nhà nước đưa gạo về giúp, nhưng một số nơi cán bộ thiếu trách nhiệm, quản lý không
chặt chẽ, để xảy ra nhiều hiện tượng tiêu cực rất đáng xấu hổ. Đối với những trường hợp như thế
anh thường khơng giữ được bình tĩnh. Trên bục phát biểu khi nhắc đến hiện tượng này giọng anh
như lạc hẳn đi:


"Đảng viên gì? Cán bộ gì? Dân đói, Nhà nước gửi về mấy tạ gạo, ba ông Chi ủy dấm dúi chia
nhau mỗi người mấy chục cân, thì khơng bằng... con chó! Khơng thể nào để lại trong Đảng ta
những con người thối hóa đến mức ấy".


Trung tướng Trần Quý Hai kể lại, hồi ở chiến khu Thừa Thiên, mặc dầu với cương vị Ủy viên
Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, anh và gia đình vẫn sống hòa chung cuộc sống thiếu thốn,
gian khổ với nhân dân. Có tháng cả nhà liên tục ăn sắn, nấu cháo bằng sắn, làm bánh bằng bột
sắn. Có ai đem biếu một tí gạo, thức ăn, anh lại đem chuyển sang bệnh viện cho thương bệnh
binh - Mẹ anh thương anh làm việc vất vả, người hốc hác nói với anh rằng đây là người ta
thương anh người ta biếu anh chứ có phải của tham ơ đâu, nhưng anh nói với mẹ: "Mẹ hãy hiểu
cho con, con là cán bộ của Đảng, của dân thì khơng thể dân ăn khổ mà chỉ riêng con ăn ngon
được"./.


<b>Kỷ niệm về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Phút giây cảm động nhất trong đời Nguyễn Chí Thanh có lẽ là phút chia tay Bác Hồ buổi
chiều hơm đó. Bác tiễn anh ra tận giàn nho và đứng lại hồi lâu với anh ở đó. Bác dặn anh
phải giữ gìn sức khỏe; Bác hỏi thăm các cháu của anh sơ tán về Mỹ Đức (Hà Tây) có gì
khó khăn khơng; về tình hình cơng tác của chị Cúc vợ anh...


Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
tại Đại hội Đảng bộ quân đội 1960. Ảnh tư liệu


<b>Một mẫu mực sáng ngời về đạo đức cách mạng</b>



Có lần lên cơng tác Tây Bắc, Khu ủy bố trí cho anh ở nhà khách của Khu ủy. Dạo đó là năm
1961, cả thị xã Sơn La - thủ phủ Khu Tây Bắc lúc bấy giờ - chỉ mới có hai ngôi nhà 2 tầng trên
đồi cao. Từ cửa sổ phịng khách, nhìn xuống phố xá mới hồi cư, nhà ở toàn bằng nứa lá, đường
phố tung bụi đỏ mờ mịt, anh trầm ngâm nói với đồng chí Phan Quang, phóng viên Báo Nhân
Dân đi cùng anh trong chuyến cơng tác đó:


- Đồng chí xem, dân cịn ở thế kia, cần gì phải xây một lúc mấy nhà to như thế này. Tôi nghĩ chỉ
cần một trụ sở Chính quyền khu cho bề thế, để đồng bào các dân tộc vùng núi cao về trông thấy
cơ ngơi cách mạng mà phấn khởi, tin tưởng. Để đồng bào có dịp so sánh mấy mươi năm dưới
chế độ cũ, chưa nhìn đâu thấy nhà to như thế này. Còn trụ sở Đảng bộ chưa cần xây dựng vội.
Giá như ta dùng số tiền này vào việc phục vụ sản xuất có tốt hơn khơng?


Anh Thanh vừa nói đến đây, thấy đồng chí chủ nhiệm nhà khách đi đến, anh ân cần mời vào
phòng rồi thân mật nói tiếp câu chuyện đang nói:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

tịch nước, khơng bao giờ đãi khách q 3 món, trừ những bữa tiệc đặc biệt về ngoại giao. Một
bữa, chủ khách ăn chung, sau đấy thôi. Anh em dưới xi lên đây cơng tác, các đồng chí chăm
sóc cho là quý rồi. Còn ai ăn cơm đều phải trả tiền. Trả bao nhiêu tùy điều kiện và tiêu chuẩn
mỗi người. Các đồng chí mến khách, cho thêm gói chè, bao thuốc, tơi khơng phản đối nhưng nên
vừa phải. Tơi thấy ở phịng này đặt chè và thuốc, trong buồng ngủ cũng có, phịng khách cũng
có. Làm gì mà lắm thế!


Tơi nói riêng với các đồng chí: Các cuộc họp Ban Bí thư Trung ương Đảng, mọi khi có thuốc lá
nay khơng cịn nữa. Mình là dân nghiện, thắc mắc hỏi mới biết Bác Hồ bảo thơi. Thật ra tốn kém
chẳng bao nhiêu, mà cái chính Bác muốn tạo thói quen. Ở nước ngồi giàu có, đến hội nghị ai
muốn hút thuốc, bỏ của mình ra mà dùng. Mà cũng chỉ được hút ở hành lang.


<b>Cánh chim đại bàng lại cất cánh</b>


Đang say sưa trên mặt trận nơng nghiệp thì Mỹ đưa qn vào miền Nam tiến hành cuộc Chiến


tranh cục bộ đối với nước ta. Một lần nữa, Nguyễn Chí Thanh được gọi trở lại quân đội và lên
đường vào chiến trường đánh Mỹ.


Thế là con chim đại bàng lại vỗ cánh bay về phương Nam. Anh đi chưa được bao lâu, tin chiến
thắng từ chiến trường đã dồn dập bay về.


Trận Bình Giã, trận Ba Gia quân ta tiêu diệt
hàng tiểu đoàn, hàng trung đoàn địch. Tiếp
theo là những trận đọ sức đầu tiên với quân
viễn chinh Mỹ. Chiến thắng Núi Thành và
nhất là chiến thắng Vạn Tường khẳng định
quân và dân ta hồn tồn có khả năng thắng
Mỹ về quân sự trong Chiến tranh cục bộ.
Nhớ lời Bác dặn lúc ra đi, Nguyễn Chí Thanh
nhanh chóng đúc rút những bài học kinh
nghiệm của những trận đầu thắng Mỹ điện
gấp ra miền Bắc. Cuối năm 1965, Nghị quyết
lần thứ 11, khóa III của Ban Chấp hành


Trung ương Đảng về quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược được nhất trí thơng qua có sự
đóng góp xứng đáng của Nguyễn Chí Thanh.


Sau mấy năm lăn lộn ở chiến trường và đã tìm ra chiếc chìa khóa để thắng Mỹ, đầu năm 1967,
Nguyễn Chí Thanh được triệu tập ra Hà Nội để chuẩn bị cho bước phát triển mới của chiến tranh.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14 tháng 6/1967, Nguyễn Chí Thanh đã báo cáo một cách tồn
diện tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Nội dung của bản báo cáo toát lên một
nội dung chủ yếu và đặc biệt quan trọng là: "Ta nhất định thắng Mỹ. Mỹ thua đã rõ ràng. Cần
phải tiếp tục thế tiến công địch để tiến lên giành thắng lợi quyết định".


Những ngày đầu tháng 7/1967, Nguyễn Chí Thanh chuẩn bị trở lại chiến trường. Ngày 5/7, Bác


Hồ nói với đồng chí Vũ Kỳ mời Nguyễn Chí Thanh đến ăn cơm chiều với Bác cũng là để tiễn


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nguyễn Chí Thanh ngày mai lên đường. Phút giây cảm động nhất trong đời Nguyễn Chí Thanh
có lẽ là phút chia tay Bác Hồ buổi chiều hơm đó. Bác tiễn anh ra tận giàn nho và đứng lại hồi lâu
với anh ở đó. Bác dặn anh phải giữ gìn sức khỏe; Bác hỏi thăm các cháu của anh sơ tán về Mỹ
Đức (Hà Tây) có gì khó khăn khơng; về tình hình cơng tác của chị Cúc vợ anh. Những năm anh
ở chiến trường, mỗi lần tết đến thỉnh thoảng Bác cho mời chị Cúc và các cháu vào ăn cơm với
Bác. Ở trong Nam nhận được thư chị gửi vào kể chuyện này, anh vơ cùng xúc động.


Nhìn mái tóc bạc phơ của Bác, nhìn dáng đi của Bác khơng cịn được nhanh nhẹn như xưa,
Nguyễn Chí Thanh cảm thấy trái tim mình như có ai bóp chặt. Qua một số đồng chí Ủy viên Bộ
Chính trị, anh biết Bác sắp phải đi Trung Quốc chữa bệnh. Vì thế, bữa cơm là bữa cơm Bác tiễn
anh vào chiến trường phương Nam, cũng là bữa cơm anh tiễn Bác lên phương Bắc.


Trong tham luận đọc tại Hội thảo nhân 30 năm ngày mất của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ngày
5/7/1997, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Nhớ tới anh Thanh, tôi tưởng nhớ và vô cùng
thương tiếc một người bạn chiến đấu thân thiết, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, một cán bộ
lãnh đạo xuất sắc của Đảng, một tướng lĩnh tài ba của quân đội ta, người đã có những cống hiến
quan trọng vào sự nghiệp vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam ta".


 <b>Nguồn: </b>


1 - Vị đại tướng được Bác Hồ đặt tên / Phùng Thế Tài // ANTG, 09.02.2009.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×