Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả can thiệp trẻ rối loạn phổ tự kỷ từ 24 tháng đến 72 tháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 157 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC
------------------

LÊ THỊ KIM DUNG

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ
KẾT QUẢ CAN THIỆP TRẺ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ
TỪ 24 THÁNG ĐẾN 72 THÁNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

THÁI NGUYÊN - NĂM 2021


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC
------------------

LÊ THỊ KIM DUNG

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ
KẾT QUẢ CAN THIỆP TRẺ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ
TỪ 24 THÁNG ĐẾN 72 THÁNG
Chuyên ngành : Nhi khoa
Mã số

: 9720106

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Phạm Trung Kiên
2. TS. Nguyễn Thị Thanh Mai

THÁI NGUYÊN - NĂM 2021


1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Tự kỷ (Autism) là một rối loạn phức tạp về phát triển thần kinh (neurodevelopmental
disorder) ở mức độ từ nhẹ đến nặng, khởi phát sớm từ khi trẻ còn nhỏ (thường trước 3 tuổi)
và diễn biến kéo dài với biểu hiện đặc trưng là khiếm khuyết về tương tác xã hội,
ngôn ngữ, giao tiếp và hành vi định hình, rập khn, sở thích thu hẹp [16].
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tỉ lệ tự kỷ gia tăng một cách đáng lo ngại [32].
Theo trung tâm Kiểm sốt và phịng bệnh (CDC) năm 2007 tại Mỹ tỉ lệ tự kỷ là 1/150
trẻ (6,6‰), nhưng đến năm 2018, tỉ lệ này là 1/59 trẻ (khoảng 1,7%) [49], [107],[124].
Ở các nước đang phát triển tỉ lệ tự kỷ ước tính khoảng 1,5% dân số [124]. Tại Việt
Nam, theo nghiên cứu dịch tễ mới nhất về tự kỷ tại 8 tỉnh thành đại diện tồn quốc cơng
bố năm 2019, tỉ lệ mắc tự kỷ ở trẻ 18-30 tháng là 0,758% [31].
Hiện nay, nguyên nhân của tự kỷ chưa được xác định rõ ràng, được cho rằng rất
phức tạp từ sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm di truyền, sinh học và mơi trường.
Tager-Flusberg H (2016) phân tích các nghiên cứu trên trẻ sinh đơi và phân tích gen đã
cho rằng: tự kỷ liên quan đến yếu tố di truyền hoặc yếu tố môi trường hoặc tương tác
giữa gen-môi trường [196]. Theo nhiều tác giả, tự kỷ có tính di truyền cao, nhưng môi
trường và sự tương tác giữa gen và môi trường cũng là những yếu tố nguy cơ quan trọng
của tự kỷ [124],[172]. Do đó, việc xác định được các yếu tố nguy cơ là nhiệm vụ, mặc
dù luôn là thách thức, là mục tiêu trong tương lai của dịch tễ học tự kỷ [124], với mong
muốn có thể đưa ra những khuyến cáo quan trọng cho phịng bệnh, giảm tỉ lệ mắc tự kỷ.
Mặc dù có sự nỗ lực nghiên cứu phối hợp của nhiều lĩnh vực như y tế, giáo

dục…cho đến nay, tự kỷ vẫn được xác định là một khuyết tật tồn tại suốt cuộc đời,
khơng có khả năng điều trị khỏi hồn tồn [16],[149]. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã
chứng minh, trẻ mắc tự kỷ nếu được phát hiện, can thiệp sớm và tích cực trước tuổi đi
học, sẽ mang lại cho trẻ tự kỷ cơ hội hòa nhập với xã hội, đồng thời cải thiện chất lượng
sống, giảm bớt gánh nặng cho trẻ cùng gia đình và xã hội [25],[32]. Vì vậy, rất lợi ích
nếu trẻ ở lứa tuổi 24-72 tháng được quan tâm, đặc biệt phát hiện sớm ở lứa tuổi 24-35
tháng dựa trên cơ sở được nhận biết các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng của tự kỷ, để
trẻ có cơ hội được can thiệp sớm. Các chiến lược can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ ngày càng


2
phát triển với nhiều phương pháp tiếp cận mới đã mang lại những thay đổi đáng kể cho
trẻ tự kỷ ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam.
Cùng với xu hướng chung tại Việt Nam, Thái Nguyên - một trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa của khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, là một trong số ít các tỉnh
thành bắt đầu có sự nhận thức và quan tâm tích cực đến trẻ em mắc tự kỷ trong thập kỷ
gần đây. Năm 2014, nghiên cứu khảo sát tự kỷ ở lứa tuổi từ 16-60 tháng tại cộng đồng
tỉnh Thái Nguyên ghi nhận tỉ lệ là 0,45% [12]. Thực tế trẻ tự kỷ tại Thái Nguyên chưa
được phát hiện sớm, chưa được chẩn đoán xác định tại tỉnh, nhưng số trẻ mắc tự kỷ
sau khi được chẩn đoán tại Hà Nội đã được tiếp cận dịch vụ can thiệp, điều trị ở bệnh
viện và các trung tâm của địa phương ngày càng gia tăng nhanh chóng. Tuy nhiên, kết
quả can thiệp cịn nhiều hạn chế, chưa có sự kết hợp đa chyên ngành và chưa có các
nghiên cứu đánh giá về lĩnh vực này nhằm nhìn nhận một cách khách quan, hướng đến
những thay đổi để đạt được hiệu quả can thiệp tốt hơn cho trẻ tự kỷ tại Thái nguyên.
Thực tế nêu trên cho thấy việc tăng cường nhận biết các dấu hiệu lâm sàng nhằm
phát hiện sớm, chẩn đoán sớm, đánh giá kết quả can thiệp, đồng thời tìm các yếu tố
nguy cơ giúp cho tuyên truyền, tư vấn phòng mắc tự kỷ tại Thái Nguyên trở thành vấn
đề rất cần được quan tâm nghiên cứu.
Do đó, chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài này với các mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ 24-72 tháng tuổi

2. Xác định một số yếu tố nguy cơ đến rối loạn phổ tự kỷ từ 24-72 tháng tuổi
3. Đánh giá kết quả can thiệp trẻ rối loạn phổ tự kỷ từ 24-72 tháng tuổi


3
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1 Khái niệm tự kỷ
Thuật ngữ “Autism” có nguồn gốc từ từ “Autos” - tiếng Hi Lạp có nghĩa là “tự
thân” dùng để mơ tả những bệnh nhân có biểu hiện cơ lập, rút lui khỏi xã hội [51].
Chứng tự kỷ thực sự được công nhận vào năm 1943 bởi Leo Kanner (1894-1981)
- một bác sĩ tâm thần tại Bệnh viện Johns Hopkins, Hoa Kỳ. Kanner cho rằng: “Tự kỷ
là sự rút lui cực đoan của một số trẻ em từ lúc mới bắt đầu cuộc sống, triệu chứng đặc
biệt của bệnh là một sự hiếm thấy, đó là sự rối loạn từ cội rễ, là sự khơng có khả năng
của những trẻ này trong việc thiết lập các mối quan hệ bình thường với những người
khác và hoạt động một cách bình thường với các tình huống từ lúc chúng bắt đầu cuộc
sống”[118].
Những thay đổi trong quan điểm về các dạng rối loạn kiểu tự kỷ có thể nhận thấy
trong lịch sử của hai hệ thống phân loại rối loạn tâm thần quốc tế. Đó là: Bảng thống kê,
phân loại quốc tế về các bệnh và những vấn đề liên quan đến sức khỏe (ICD) do Tổ chức
Y tế Thế giới công bố và Sổ tay chẩn đoán và thống kê rối loạn tâm thần (DSM) của Hội
tâm thần học Mỹ. Trong những phiên bản đầu tiên, ICD chưa đề cập đến vấn đề tự kỷ;
còn ở phiên bản DSM-I (1952), DSM-II (1968), tự kỷ được cho là một dạng tâm thần
phân liệt. Lần tái bản thứ 10 của ICD (1992) và các lần tái bản thứ III và IV của DSM đã
dựa trên quan điểm hiện đại cho rằng tự kỷ là một trong các dạng rối loạn về phát triển ở
trẻ em [40],[208]. Theo DSM-IV, “Rối loạn tự kỷ” nằm trong nhóm “Rối loạn phát
triển lan tỏa (Pervasive Developmental Disorder)” với 5 dạng chính là: (1) Rối loạn
tự kỷ (Autistic Disorder), (2) Rối loạn Asperger (Asperger Disorder ), (3) Rối loạn
thoái triển tuổi ấu thơ (Chidhood Disintergrative Disorder ), (4) Hội chứng Rett (Rett
Disorder), (5) Rối loạn phát triển lan tỏa - không đặc hiệu (Pervasive Developmental
Disorder - Not Otherwise Specified) [40].

Cùng với quá trình nghiên cứu về “tự kỷ”, các nhà khoa học nhận thấy có sự phát
triển khá đa dạng các biểu hiện “tự kỷ” và điều đó hướng họ đến một thuật ngữ có phạm
vi mơ tả lớn hơn, có thể bao gồm nhiều dạng tự kỷ. Vì lí do này thuật ngữ “rối loạn phổ tự
kỷ” (Autism Spectrum Disorders - ASDs) ra đời vào những năm 70 và 80 của thế kỷ XX.
Người có quan điểm nổi bật là Lorna Wing. Năm 1996, Lorna Wing đã sử dụng thuật ngữ


4
“Autistic Spectrum” (phổ tự kỷ) [207]. Sau đó, thuật ngữ này đã bắt đầu được sử dụng
trong các bài viết về tự kỷ, tuy chưa được cơng nhận chính thức [83],[106],[111]. Năm
2013, tại phiên bản DSM-5, “rối loạn phổ tự kỷ” chính thức được sử dụng và khơng cịn
xu hướng phân chia các dạng khác nhau, với một tiêu chí chẩn đoán chung [42]. Cũng
theo phiên bản phân loại mới này, tự kỷ (Autism) là một rối loạn phức tạp về phát triển
thần kinh (neurodevelopmental disorder) với biểu hiện đặc trưng là khiếm khuyết về
tương tác xã hội, ngôn ngữ, giao tiếp và hành vi định hình, rập khn, sở thích thu hẹp,
mức độ từ nhẹ đến nặng, khởi phát sớm từ khi trẻ còn nhỏ (thường trước 3 tuổi) và diễn
biến kéo dài trong suốt cuộc đời [42].
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tơi hướng đến đối tượng trẻ mắc rối
loạn phổ tự kỷ, sử dụng ngắn gọn với thuật ngữ là “Tự kỷ”.
1.2. Dịch tễ học tự kỷ
1.2.1. Tỉ lệ mắc
Trên thế giới tỉ lệ mắc tự kỷ tăng lên nhanh chóng. Theo trung tâm kiểm sốt và
phịng bệnh (CDC) của Mỹ năm 2007, tỉ lệ tự kỷ tại Mỹ là 1/150 trẻ (6,6‰), nhưng đến
năm 2018, tỉ lệ này là 1/59 trẻ [49],[124]. Atladottir H.O và cs nghiên cứu trên tất cả trẻ
sinh ra ở Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển và Tây Úc, từ năm 2007-2011, nhận thấy tỉ lệ
hiện mắc tự kỷ đã vượt quá 1% ở Phần Lan và Thụy Điển, 1,5% ở Đan Mạch; tỉ lệ hiện
mắc gia tăng theo độ tuổi [45]. Erskine và cs (2016) trong một báo cáo tổng quan
nghiên cứu trên toàn cầu về gánh nặng bệnh tật do rối loạn tâm thần kinh ở trẻ 5-17
tuổi nhận định tỉ lệ tự kỷ lên tới 16,1% [80]. Ở Việt Nam, chứng tự kỷ mới được quan
tâm trong vài thập niên gần đây. Nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy

số lượng trẻ được chẩn đoán và điều trị tự kỷ ngày càng nhiều, số trẻ tự kỷ đến khám
năm 2007 tăng gấp 50 lần so với năm 2000, số trẻ đến điều trị tự kỷ năm 2007 tăng
gấp 33 lần so với năm 2000; xu thế mắc tự kỷ tăng nhanh từ 122% lên đến 268% trong
giai đoạn 2004-2007 so với năm 2000 [2]. Tại thành phố Hồ Chí Minh, nếu năm 2000
chỉ có 2 trẻ đến Bệnh viện Nhi đồng 1 khám và điều trị chứng tự kỷ, thì năm 2008 số
trẻ đến khám là 324, tăng hơn 160 lần [19]. Cho đến nay, Việt Nam chưa có số liệu
dịch tễ về tỉ lệ trẻ em mắc tự kỷ trên phạm vi toàn quốc. Hiện tại mới chỉ có một số ít
nghiên cứu dịch tễ được công bố như nghiên cứu sàng lọc 6.583 trẻ từ 18 đến 24 tháng


5
tuổi của tác giả Nguyễn Thị Hương Giang và cs tại Thái Bình (2012), cho thấy tỉ lệ mắc
tự kỷ là 0,46%; trong nghiên cứu sàng lọc 7.316 trẻ em từ 18 đến 60 tháng tuổi tại Thái
Nguyên của Phạm Trung Kiên, tỉ lệ mắc tự kỷ là 0,45%; Nguyễn Thị Hồng Yến nghiên
cứu tại một số tỉnh phía Bắc khác thấy tỉ lệ mắc tự kỷ trẻ em dao động trong khoảng 0,40,5% [2],[12],[32]. Nghiên cứu dịch tễ mới nhất về tự kỷ tại Việt Nam đã công bố tỉ lệ
mắc tự kỷ ở trẻ 18-30 tháng khu vực phía bắc Việt Nam là 0,752% [105] và 8 tỉnh thành
trong toàn quốc là 0,758% [31]. Số trẻ em mắc tự kỷ được phát hiện ngày càng nhiều và
điều này đang là thách thức lớn đối với nhiều quốc gia, từ những nước phát triển như
Mỹ, đến các nước đang phát triển như Việt Nam [19],[167]. Một câu hỏi được nhiều
người đặt ra: tại sao tự kỷ lại gia tăng nhanh chóng như vậy? Các nhà chuyên gia trong
lĩnh vực y học cho rằng, một phần do sự thay đổi về tiêu chuẩn chẩn đốn [124],[189].
Ngồi ra, theo Hyman, S.L và cs (2020), có thể sự gia tăng thực sự của tỉ lệ mắc tự kỷ
liên quan đến các yếu tố nguy cơ sinh học khác [107]. Như vậy, có thể còn nhiều
nguyên nhân khác dẫn đến tỉ lệ tự kỷ gia tăng một cách rõ rệt cần được nghiên cứu thêm.
1.2.2. Về giới tính
Theo hầu hết các số liệu nghiên cứu trên thế giới, tự kỷ gặp nhiều ở trẻ nam hơn
trẻ nữ. Theo Trung tâm kiểm soát và phòng bệnh (CDC) của Mỹ năm 2014, tự kỷ phổ
biến hơn ở trẻ nam (1/42) so với trẻ nữ (1/189) [167]. Số liệu mới nhất về dịch tễ học tự
kỷ của Kristen Lyall và cs (2017) cho thấy tỉ lệ tự kỷ ở trẻ nam/trẻ nữ là 4/1 [124].
Tương tự kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế giới, ở Việt Nam tỉ lệ trẻ nam mắc

tự kỷ nhiều hơn trẻ nữ ở tất cả các nghiên cứu, dao động từ 3,7/1 đến 7,1/1 [2],[12],[32].
Tuy nhiên, một nghiên cứu trên quy mô lớn đã phát hiện ra rằng trẻ nữ bị tự kỷ thường
có khiếm khuyết lớn hơn trẻ nam bị tự kỷ, thể hiện ở khả năng giao tiếp xã hội, khả năng
nhận thức và ngôn ngữ thấp hơn, thích ứng kém hơn và có nhiều hành vi nặng hơn [87].
Nghiên cứu của Song, L và cs (2020) cho rằng, tình trạng thiếu vitamin D gặp phổ biến
ở trẻ tự kỷ, mà vitamin D có tác dụng làm tăng nồng độ estrogen, estrogen rất quan
trọng cho sự phát triển não bộ; điều này có thể giải thích tại sao nam giới có nguy cơ
mắc tự kỷ cao gấp 4-5 lần so với nữ giới [192]. Một số tác giả đưa ra giả thuyết rằng trẻ
nữ có thể có một kiểu hình tự kỷ khác với trẻ nam. Điều này cho thấy có thể nhiễm sắc
thể giới tính liên quan đến rối loạn phổ tự kỷ. Alaerts và cs (2016), Smith và cs (2019)


6
nghiên cứu sự khác biệt về tổ chức vỏ não ở nam và nữ mắc tự kỷ dựa trên hình ảnh cộng
hưởng từ chức năng (Functional Magnetic Resonance Imaging-fMRI đã tìm thấy sự khác
nhau về kết nối chức năng (Seed - to - voxel) trong não của trẻ tự kỷ nam và nữ, điều này
dẫn đến sự khác biệt về giới tính ở trẻ tự kỷ [35],[190].
1.3. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Đánh giá về nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ với trẻ được chẩn đoán tự kỷ luôn là
yêu cầu được các nhà khoa học đặt ra. Tuy nhiên, cho đến nay nguyên nhân của tự kỷ vẫn
chưa được xác định rõ ràng và còn nhiều tranh luận [107]. Theo Masi và các cs (2017),
Cheng J và các cs (2019) nguyên nhân của tự kỷ thường được cho là do di truyền kết hợp
với yếu tố môi trường [65],[144]. Tordjman và cs (2014), Tager-Flusberg H (2016) cho
rằng nguyên nhân của tự kỷ rất phức tạp, liên quan đến yếu tố di truyền hoặc yếu tố môi
trường hoặc tương tác giữa gen-môi trường [196]. Bae và cs (2015) cho rằng các nguyên
nhân di truyền của tự kỷ làm thay đổi phát triển của não [47]. Theo các nghiên cứu về
dịch tễ học tự kỷ, có thể chia ra các nhóm nguy cơ chính như sau [2],[91],[196].
1.3.1. Yếu tố di truyền
Việc xác định nguyên nhân di truyền giúp cho các bác sĩ lâm sàng có nhiều thơng
tin hơn để tư vấn di truyền cho các gia đình về tiên lượng cũng như nguy cơ mắc tự kỷ

ở những trẻ sinh sau, đồng thời giúp ngăn ngừa về các vấn đề sức khỏe Nhi khoa cho
trẻ tự kỷ. Với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện đại, xét nghiệm về di truyền có thể
xác định được nguyên nhân cụ thể của tự kỷ, giúp ích cho việc lựa chọn các can thiệp
hiệu quả cho trẻ [107]. Gần đây, các nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Châu Âu ước tính các tác
động của di truyền liên quan đến tự kỷ lên tới 50-95% [124]. Nhiều bằng chứng cho
rằng yếu tố di truyền đóng vai trị chính là ngun nhân gây tự kỷ. Nghiên cứu đoàn hệ
đa quốc gia trên trẻ em ở Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Israel và Tây Úc của Bai D
và cs (2019) về các yếu tố di truyền, môi trường với tự kỷ nhận thấy tỉ lệ di truyền liên
quan đến tự kỷ trung bình (95% CI: 80,8% (73,2%-85,5%), các ước tính cụ thể theo
quốc gia là từ 50,9% (25,1%-75,6%) (Phần Lan) đến 86,8% (69,8%-100,0%)
(Israel). Đối với các quốc gia Bắc Âu, ước tính các tác động của di truyền liên quan đến
tự kỷ dao động từ 81,2 - 82,7% [48].
* Gen gây tự kỷ: có nhiều gen đóng góp vào nguyên nhân của tự kỷ [16], [158].


7
Nghiên cứu của Pinto D và các cs (2010) cho rằng có khoảng 5 hoặc 6 gen chính và
khoảng 30 gen phụ có liên quan đến phát triển rối loạn phổ tự kỷ [166]. Các phương pháp
giải trình tự thế hệ tiếp theo (Next Generation Sequencing - NGS) đã cách mạng hóa việc
phát hiện gen tự kỷ, đóng góp đáng kể vào dữ liệu di truyền chức năng, liên kết các đột
biến thường liên quan đến tự kỷ với các gen liên quan đến tự kỷ [79],[180].
* Bất thường về gen: Muhler R và cs (2004) nhận thấy: khoảng 10-15% các
trường hợp bị tự kỷ của các nghiên cứu trong hai mươi năm qua có liên quan đến
những bất thường về gen [155]. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Trang và cs
(2018) cho kết quả kiểu gen CT+TT của đa hình C677T và AC+CC của đa hình gen
A1298C có nguy cơ (OR) cao hơn kiểu gen bình thường với tỉ lệ tương ứng là 5,69 và
11,0 [29]. Hiện nay các nhà nghiên cứu nhận thấy khiếm khuyết di truyền ở hơn 100
locus gen, hàng trăm biến thể số bản sao (CNVs) và đa hình nucleotide (SNV) (SNPs)
liên quan đến khoảng 20% trường hợp tự kỷ [125],[213],[79]
* Khơng có đột biến gen cụ thể nào được xác định là duy nhất đối với tự kỷ, có sự

chồng chéo di truyền đáng kể giữa tự kỷ và các rối loạn phát triển thần kinh khác, bao
gồm khuyết tật trí tuệ, động kinh, tâm thần phân liệt [107]. Khoảng 10% trẻ tự kỷ được
xác định là có hội chứng Down, hội chứng nhiễm sắc thể X dễ gãy, xơ cứng củ hoặc các
rối loạn về di truyền và nhiễm sắc thể khác [183],[204]. Các nghiên cứu cho rằng nhiễm
sắc thể giới tính X, gen Neuroligin ở vị trí Xq13 liên quan đến tự kỷ. Có khoảng 10% trẻ
nam mắc tự kỷ liên quan đến nhiễm sắc thể X dễ gẫy (Fragile X) [73].
* Sinh đôi cùng trứng: Bằng chứng ấn tượng nhất chứng tỏ di truyền đóng một vai
trị quan trọng trong nhiều trường hợp mắc tự kỷ xuất phát từ những cặp sinh đơi cùng
trứng (những trẻ có gen giống nhau). Tick B và cs (2016) trong một nghiên cứu phân
tích tổng hợp các nghiên cứu sinh đơi trên 6413 cặp sinh đôi tự kỷ và không tự kỷ tại
Anh, nhận thấy 98% trường hợp đồng mắc tự kỷ cặp sinh đôi cùng trứng, trong khi ở trẻ
sinh đôi khác trứng, tỉ lệ này là 53-67%, ước tính di truyền từ 64-91%. Đây là bằng
chứng mạnh mẽ cho giả thuyết nguyên nhân di truyền gây ra tự kỷ [198].
* Anh/chị/em ruột: vai trò của di truyền trong tự kỷ được cung cấp thêm bằng
chứng qua kết quả của các nghiên cứu: cặp cha mẹ có 1 trẻ tự kỷ thì nguy cơ sinh ra trẻ
thứ hai bị tự kỷ cao hơn so với cặp cha mẹ có trẻ phát triển bình thường. Theo số liệu


8
của Trung tâm kiểm sốt và phịng bệnh (CDC) của Mỹ năm 2014 nếu cha mẹ có con
tự kỷ thì nguy cơ từ 2% đến 18% con thứ hai cũng bị ảnh hưởng, những trẻ này có thể
bị tự kỷ hoặc có vấn đề liên quan đến tự kỷ [167]. Điều này có nghĩa là những đứa trẻ
này có thể có một vài gen chứ khơng phải là tồn bộ gen liên quan đến tự kỷ ở
anh/chị/em ruột [9].
Việc xác định được nguyên nhân di truyền ở trẻ tự kỷ là rất quan trọng. Bác sĩ cần
tư vấn di truyền cho gia đình trẻ tự kỷ theo nguyên nhân cụ thể đã được xác định. Với
những trường hợp không được xét nghiệm hoặc đã xét nghiệm nhưng không xác định
được ngun nhân, thì việc tư vấn cho gia đình có trẻ tự kỷ về tỉ lệ mắc tự kỷ ở những
đứa trẻ sinh tiếp sau theo các nghiên cứu ước tính như sau: Đối với cặp vợ chồng có 1
con mắc tự kỷ khơng rõ ngun nhân, có thể ước tính tỉ lệ mắc tự kỷ ở trẻ tiếp theo là

khoảng 10% (khoảng 4-14%), nếu một cặp vợ chồng đã có ≥2 trẻ mắc tự kỷ khơng rõ
ngun nhân (vơ căn), khả năng trẻ tiếp theo mắc tự kỷ có thể lên tới 32% đến
36%. Tuy nhiên, ngoài nguy cơ mắc tự kỷ thì anh/chị/em của trẻ mắc tự kỷ cịn có thể
có nguy cơ rối loạn ngơn ngữ từ 20-25% và các rối loạn phát triển thần kinh và tâm
thần khác [107].
1.3.2. Tuổi của cha/mẹ
Có khá nhiều nghiên cứu xác định được tuổi của cha và mẹ liên quan đến tự kỷ ở
con [2],[55],[152]. Nhìn chung, những trẻ được sinh ra từ những bà mẹ lớn tuổi (trên
35 tuổi) có nguy cơ mắc tự kỷ và những bệnh lý thần kinh cũng chiếm tỉ lệ cao hơn,
nguy cơ tăng dần khoảng 5 năm, rõ rệt nhất ở tuổi 40-45 [74]. Năm 2019, Bolte S và
cs xem xét những yếu tố môi trường liên quan đến bệnh nguyên của tự kỷ, đã đưa ra
cảnh báo: Tuổi mẹ tăng lên 10 tuổi khi sinh con có liên quan đến nguy cơ mắc tự kỷ
cao hơn 18% và giảm 10 tuổi ở tuổi cha khi sinh con thì có liên quan đến việc giảm
26% nguy cơ mắc tự kỷ ở con [55]. Trong một nghiên cứu đoàn hệ dựa trên dân số từ
5 quốc gia (Đan Mạch, Israel, Na Uy, Thụy Điển và Tây Úc) trên 30.902 trẻ tự kỷ, các
nhà khoa học nhận thấy tuổi của mẹ cao và sự gia tăng tuổi của mẹ có liên quan đến
tăng nguy cơ của tự kỷ sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu: bà mẹ 40-49 tuổi có
nguy có sinh con mắc tự kỷ cao gấp 1,15 lần so với bà mẹ 20-29 tuổi; nguy cơ này đối
với người cha từ 50 tuổi trở lên là 1,66 lần cao hơn so với người cha 20-29 tuổi. Nguy


9
cơ mắc tự kỷ không chỉ giới hạn ở việc tuổi của cha và/hoặc tuổi mẹ cao, mà còn ở sự
chênh lệch nhiều (chênh lệch từ 10 tuổi trở lên) về tuổi đời giữa cha và mẹ [182].
Nguy cơ gắn với độ tuổi có thể do sự tiếp xúc lâu dài của cha mẹ với các yếu tố mơi
trường, hóa chất độc hại [39]. Tuổi mẹ cao đối với nguy cơ mắc tự kỷ không chỉ liên
quan đến biến đổi nhiễm sắc thể trong trứng tăng lên theo độ tuổi hoặc di truyền, mà
còn liên quan đến tỉ lệ mắc bệnh mạn tính cao hơn, nhiều biến chứng sản khoa hơn
[152]. Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa để giải thích thêm về mối liên
quan này [210].

1.3.3. Do tổn thương não
Tổn thương não xảy ra vào các giai đoạn trước, trong và sau sinh có thể gây tự kỷ
đã được chứng minh: Các tế bào của hệ thống mơ thần kinh ở trẻ tự kỷ khơng có sự kết
nối với các phần riêng biệt của não, do đó các vùng này sẽ hoạt động độc lập. Hoạt
động bất thường của tế bào thần kinh trong và xung quanh các vùng não riêng (vùng
viền, vùng cá ngựa và hạch nhân tiểu não) gây ảnh hưởng đến hành vi xã hội và cảm
xúc. Bất thường thể trai, thân não và thùy trán có liên quan đến tự kỷ. Tiểu não, vùng
viền, hồi hải mã và hạch nhân tiểu não của trẻ tự kỷ nhỏ hơn và có nhiều tế bào tập
trung dày đặc với đặc điểm khơng bình thường. Krishnan A và cs (2016) cho rằng hình
dạng não bộ của những người bị tự kỷ khác với những người không bị tình trạng này.
Đây là 1 phát hiện có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nguyên nhân gây ra một số khó
khăn về nhận thức có liên quan với rối loạn. Mặt khác, những người bị tự kỷ có ít sự
bất đối xứng trong não bộ hơn so với những người không mắc tự kỷ. Phát hiện này gợi
ý rằng hai bên não của trẻ tự kỷ không phân chia nhiệm vụ theo cùng một cách [123].
Lisiecka D.M và cs (2016) nhận thấy não bộ của trẻ tự kỷ có sự phát triển quá mức, do
đó thay đổi tính linh hoạt của tồn bộ hệ thống thần kinh [135]. Ecker C và cs (2014),
Lainhart J.E (2015) đã chứng minh có sự khác biệt trong cấu trúc và chức năng của
não trẻ tự kỷ [75],[127]. Sự khác biệt trong dẫn truyền thần kinh Serotonin cao hơn ở
một số người tự kỷ gây ảnh hưởng đến hệ thống não và thần kinh [2]. Những nghiên
cứu về các chất thần kinh có tác dụng dẫn truyền thơng tin vào não đã xác định được
các hormone như chất Oxypecin có ảnh hưởng từ rất sớm tới sự phát triển của não.
Trong nghiên cứu khác, Ameis S.H và cs (2015) nhận thấy liên kết giữa các kết nối


10
khơng điển hình và tổ chức vỏ não trong hệ thống thần kinh có liên quan đến khiếm
khuyết hành vi kết hợp với tự kỷ [39].
Gần đây, đã có các nghiên cứu chẩn đốn hình ảnh về cấu trúc não và chất trắng, với
hi vọng có thể giúp làm sáng tỏ các triệu chứng thần kinh liên quan đến hành vi của trẻ tự
kỷ, từ đó giúp cho vấn đề can thiệp, điều trị trẻ tự kỷ đạt hiệu quả tốt hơn [124].

1.3.3.1. Các yếu tố nguy cơ trước sinh
Khi mẹ mang thai bị các bệnh hoặc trong các tình trạng sau có thể là yếu tố nguy
cơ mắc tự kỷ ở con:
- Mẹ nhiễm virus (cúm, sởi, rubella, cytomegalovirus), sốt kéo dài và nhiễm
trùng trong thời kỳ mang thai, con sẽ có nguy cơ bị tự kỷ [3]. Một số nghiên cứu cho
thấy rằng khi vi khuẩn, virus xâm nhập vào cơ thể con người, bạch cầu và các loại tế
bào khác được kích hoạt và giải phóng ra các cytokin gây viêm, đáng chú ý nhất là các
Interleukin (IL-1, Il-6). Các cytokin được đưa đến hệ thống thần kinh trung ương, kích
thích tổng hợp prostaglandin dẫn đến sốt. Một số nghiên cứu khác cũng đã tìm thấy IL2, Il-6, Il-8 có thể di chuyển qua hàng rào rau thai để vào thai nhi. Cytokin kích thích sự
tăng sản xuất các chất dẫn truyền thần kinh như trong não và ảnh hưởng đến q trình
phát triển não bộ. Ngồi các giả thuyết về cytokin, giả thuyết về các kháng thể từ mẹ
có thể chống lại các mơ não của thai nhi cũng đã được đề xuất như là một cơ chế kích
hoạt miễn dịch của mẹ có thể dẫn đến những bất thường phát triển thần kinh
[32],[157],[158].
- Mẹ có các tình trạng sau: mắc đái tháo đường, tiền sản giật, suy giáp trạng, béo
phì, bị stress, nghiện thuốc phiện, nghiện rượu, nghiện thuốc lá nặng, tiếp xúc nhiều với
thuốc trừ sâu, các loại hóa chất gây độc thần kinh khác, dùng thuốc chống động kinh,
thalidomide được cho là có liên quan đến tự kỷ ở con, tuy nhiên cơ chế về vấn đề đó vẫn
chưa thực sự sáng tỏ [2],[16],[43],[55],[158].
- Mẹ bị rối loạn tâm thần: Jokiranta E và cs (2013) nghiên cứu rối loạn tâm thần
của cha mẹ và tự kỷ nhận thấy rối loạn tâm thần của người mẹ và cha đều liên quan
đến tất cả các mức độ tự kỷ. Mối liên quan rõ nhất được tìm thấy giữa cha mẹ rối loạn
tâm thần phân liệt của và tự kỷ ở con [112].


11
- Tự kháng thể ở mẹ: Fox-Edmiston E và cs (2015) đã tìm ra mối tương quan giữa sự
hiện diện của các tự kháng thể của mẹ và rối loạn chức năng thần kinh ở trẻ sơ sinh. Mặc
dù quá trình đặc hiệu của các tự kháng thể chống lại não không rõ ràng và các cơ chế gây
bệnh chi tiết hiện vẫn chưa được xác định, nhưng nghiên cứu này sẽ là gợi ý các phương

pháp can thiệp y khoa cho trẻ tự kỷ trong tương lai [84].
- Sử dụng công nghệ sinh sản và/hoặc kĩ thuật hỗ trợ sinh sản (ART:Assisted
Reproductive Technology): Một số kĩ thuật được sử dụng trong quy trình ART như:
kích thích nội tiết tố, lấy trứng, thụ tinh trong ống nghiệm (IVF: In Vitro Fertilization),
tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI: Intracytoplasmic Sperm Injection ) có thể
liên quan đến tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh và nhẹ cân. Liu L và cs (2017) trong nghiên
cứu phân tích tổng số 11 nghiên cứu (3 nghiên cứu đồn hệ và 8 nghiên cứu có đối
chứng) cho thấy việc sử dụng ART có liên quan đến nguy cơ mắc tự kỷ cao hơn (RR =
1,35, 95%CI: 1,09-1,68, p = 0,007) [137].
1.3.3.2. Yếu tố nguy cơ trong sinh
Nhiều nghiên cứu ghi nhận nguy cơ của tự kỷ trong khi sinh như: đẻ non, can thiệp
sản khoa (mổ đẻ, foorcep, giác hút) ngạt, chấn thương sọ não, cân nặng thấp <2500gr, trẻ
là con thứ nhất trong gia đình [55],[151].
Trong nghiên cứu tổng hợp từ 40 nghiên cứu khác đã kiểm tra 60 yếu tố chu sinh
và sơ sinh, Gardener H (2011) cho thấy các yếu tố liên quan đến nguy cơ tự kỷ là các
bất thường khi sinh con của mẹ (chấn thương, sinh nhiều-đa thai, xuất huyết) và các
bất thường khi sinh của con (suy hô hấp do hít phân xu, nhẹ cân, đẻ non, dị tật bẩm
sinh, Apgar dưới 5 điểm, ăn kém, thiếu máu sơ sinh) [95]. Michelle và cs (2017) cho
rằng những trẻ đẻ non, nhẹ cân là yếu tố nguy cơ của chứng tự kỷ [151].
1.3.3.3. Yếu tố nguy cơ sau sinh
Đa số các nghiên cứu nhận thấy các yếu tố nguy cơ sau sinh với tự kỷ là: vàng da
sơ sinh bệnh lý (do bất đồng nhóm máu ABO hoặc Rh), thiếu oxy não, thiếu máu sơ
sinh, chấn thương, mắc các bệnh nặng (bỏng, viêm não, xuất huyết não, co giật ở trẻ
[2],[95],[151]. Một số nghiên cứu cho rằng 8-14% trẻ tự kỷ có liên quan đến co giật, có
khoảng 32% trẻ tự kỷ có biểu hiện bất thường về điện não đồ và điều này bổ sung thêm
minh chứng về bất thường chức năng của não bộ [2],[9]. Nghiên cứu của Pacheva I và


12
cs (2019) về động kinh ở trẻ em bị rối loạn phổ tự kỷ, nhận thấy 26/59 trẻ bị động kinh

(chiếm 44,4%) và có mối tương quan giữa tần suất động kinh và mức độ khuyết tật trí
tuệ (co giật thường xuyên hơn tương quan với khuyết tật trí tuệ nặng hơn) [160].
1.3.4. Yếu tố môi trường
1.3.4.1. Vi chất dinh dưỡng
Chế độ ăn uống trước khi sinh của người mẹ được biết có ảnh hưởng đến phát
triển thần kinh của thai nhi. Gần đây, các yếu tố dinh dưỡng của người mẹ trong thai
kỳ được xem xét có liên quan đến nguy cơ mắc tự kỷ của con. Schmidt RJ và cs
(2019) trong nghiên cứu thuần tập tương lai đã phân tích dữ liệu từ 332 trẻ em và
305 người mẹ của chúng, nhận thấy trẻ có mẹ được bổ sung vitamin trước khi sinh
trong tháng đầu tiên của thai kỳ ít có khả năng bị tự kỷ (RR = 0,50; (95%CI: 0,300,81) so với trẻ có mẹ báo cáo khơng dùng vitamin trước khi sinh. Trẻ em trong
nhóm có mẹ được bổ sung vitamin trước sinh có mức độ nặng của triệu chứng tự kỷ thấp
hơn đáng kể (chênh lệch ước tính điều chỉnh: -0,60; (95%CI: -0,97-0,23) và điểm số nhận
thức cao hơn (chênh lệch ước tính điều chỉnh: 7,1; (95% CI: 1,2-13,1) [185].
Vitamin D: Vitamin D có tác động trực tiếp vào sự phát triển não bộ và ảnh
hưởng đến các protein tham gia trực tiếp trong học tập, trí nhớ, điều khiển các động cơ
và hành vi xã hội. Khá nhiều nghiên cứu cho rằng tình trạng thiếu hụt một số vi chất
dinh dưỡng có thể là căn nguyên dẫn tới tự kỷ, đặc biệt là tình trạng thiếu hụt vitamin
D [54],[57],[121],[146]. Theo các tác giả thì thiếu vitamin D được xem như một giả
thuyết về căn nguyên của bệnh, thiếu hụt vitamin D của mẹ có liên quan đến việc tăng
nguy cơ phát triển tự kỷ ở trẻ sơ sinh, tỉ lệ mắc tự kỷ tăng cao ở trẻ em sinh ra từ các
bà mẹ bị giảm nồng độ vitamin D khi mang thai đã được coi là bằng chứng kinh điển
cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa nồng độ vitamin D và tự kỷ [168]. Cannell JJ và
một số các tác giả khác cho rằng trong điều kiện môi trường thiếu hụt vitamin D, có
thể dẫn đến đột biến ADN và gia tăng nguy cơ mắc tự kỷ, mối liên hệ giữa tự kỷ với
các vùng thiếu ánh sáng mặt trời, tỉ lệ tự kỷ tăng ở các vùng và mùa thiếu ánh sáng
mặt trời [57]. Nồng độ vitamin D dưới 75 nmol/L (ở bà mẹ khi mang thai và ở trẻ) có
thể là yếu tố nguy cơ mắc tự kỷ [146]. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu gần đây của


13

Principi, N và cs (2019) lại cho rằng các dữ liệu hiện có khơng hỗ trợ đầy đủ cho giả
thuyết rằng vitamin D có thể là một yếu tố góp phần vào nguyên nhân của tự kỷ [168].
Ngoài vitamin D, sự thiếu hụt canxi cũng được một số nghiên cứu đề cập tới.
Nghiên cứu Nguyễn Thị Hương Giang nghiên cứu trên 251 trẻ tự kỷ từ 18 tháng đến
36 tháng thấy tỉ lệ trẻ có canxi máu thấp có 71/125 trẻ (chiếm 56,8%) [2].
Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng vitamin A đóng một vai trị trong cơ
chế phát triển tự kỷ. Nghiên cứu của Liu X và các cs (2016) cho thấy thiếu vitamin A là
chứng thiếu vi chất dinh dưỡng phổ biến ở trẻ tự kỷ [138].
Nghiên cứu của Bjørklund G (2013), Sayehmiri F (2015) lại cho thấy có sự tương
quan đáng kể giữa nồng độ Zn/Cu và sự phát triển tự kỷ. Nồng độ Zn/Cu có thể được
đề cập như là một nguyên nhân gây bệnh rối loạn phổ tự kỷ [54],[184].
Theo Sabri H và cs (2012), thiếu sắt là phổ biến ở trẻ em mắc chứng tự kỷ, có bằng
chứng đáng kể về vai trò quan trọng của sắt trên nhận thức, hành vi và phát triển [178].
Trong nghiên cứu thuần tập ca bệnh có đối chứng của Levine S.Z và cs (2018)
trên 45.300 trẻ, nhận thấy các mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa việc bổ sung
vitamin của mẹ trước và/hoặc trong khi mang thai và giảm nguy cơ rối loạn phổ tự kỷ
ở trẻ được quan sát [132]. Nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Na Uy cho thấy giảm nồng độ axit
folic ở mẹ trong giai đoạn trước khi sinh có thể là yếu tố nguy cơ mắc tự kỷ của con
sau này, khi mẹ được bổ sung axit folic có thể giảm 40% chứng tự kỷ ở con [124].
Theo nghiên cứu của Gong Zi-Li và cs (2014), thiếu magie có liên quan đến chứng
tự kỷ ở trẻ em [99]. Khi tổng hợp 22 nghiên cứu, trong đó có 13 nghiên cứu mù đơi và
kiểm sốt giả dược cho thấy khi kết hợp magie và vitamin B6 mang lại lợi ích điều trị
cho gần 50% số trẻ em bị rối loạn phổ tự kỷ [99].
1.3.4.2. Hóa chất và ơ nhiễm môi trường
Theo các nhà nghiên cứu, người mẹ tiếp xúc với mơi trường bị ơ nhiễm trước
khi sinh có thể là yếu tố nguy cơ đối với tự kỷ ở con. Các yếu tố gây ô nhiễm môi
trường được cho là có liên quan đến tự kỷ bao gồm: thủy ngân, chì, asen, NO2,
methylene clorua. Rossignol và cs (2014) trong nghiên cứu đánh giá một cách có hệ
thống cho kết quả gần một nửa (19/40) nghiên cứu tìm thấy ở trẻ tự kỷ có ít nhất một
kim loại có nồng độ cao hơn so với nhóm chứng. Khoảng 40% các nghiên cứu về



14
thủy ngân và chì đã báo cáo các kim loại này có sự liên quan với tự kỷ, trong khi đó
dưới 1/3 các nghiên cứu cho thấy cadmium và nhơm có liên quan với tự kỷ
[176]. Trong thập kỷ vừa qua, ở Hoa Kỳ đã có hơn 11 nghiên cứu báo cáo được xuất
bản đều cho thấy việc tiếp xúc với khơng khí ơ nhiễm trước khi sinh của mẹ là một
yếu tố nguy cơ gây tự kỷ ở con; các nghiên cứu này tập trung vào chất độc không khí
cịn được gọi là chất nguy hiểm gây ơ nhiễm khơng khí như NO 2, PM10 và một số
kim loại (cadmium, chì, thủy ngân) cùng các dung mơi khác như clo, các hạt bụi dầu
diesel. Tuy nhiên, để khẳng định chắc chắn về các yếu tố nguy cơ này, các nghiên
cứu đều cho rằng cần phải có thêm những thiết kế nghiên cứu khác với nguồn dữ liệu
đáng tin cậy hơn nữa [124]. Theo Kristen L và cs (2016), một số hóa chất có thể vượt
qua hàng rào rau thai và hàng rào máu não, tích tụ trong não đang phát triển do đó sẽ
tác động làm gián đoạn sự phát triển bình thường của hệ thần kinh của trẻ, gây nên
các triệu chứng bệnh lý thần kinh, trong đó có tự kỷ [124]. Nghiên cứu của
Kalkbrenner A.E và cs (2014) nhận thấy rằng việc tiếp xúc nhiều với hóa chất trong
quá trình mang thai và sau khi sinh của mẹ có thể là yếu tố nguy cơ của chứng tự kỷ
ở con [116]. Pelch K.E và cs (2019) trong nghiên cứu tổng hợp từ 54 nghiên cứu
dịch tễ học về hóa chất mơi trường và tự kỷ nhận thấy các yếu tố liên quan đến tự kỷ
bao gồm các vật chất hạt, thủy ngân, hóa chất, thuốc trừ sâu, ô nhiễm không khí
không đặc hiệu là các yếu tố liên quan đến tự kỷ [163].
Như vậy, có nhiều bằng chứng cho thấy yếu tố môi trường là một trong các
nguyên nhân của tự kỷ. Sự liên quan giữa yếu tố mơi trường đã được phát hiện và tự
kỷ có thể đóng góp trong vấn đề can thiệp bằng cách giảm các phơi nhiễm với các yếu
tố môi trường [163].
1.3.4.3. Rượu và thuốc lá
Từ lâu, người ta đã nhận ra rằng lối sống và thói quen sử dụng chất gây nghiện của
mẹ và gia đình ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi và trẻ sơ sinh, có nghiên cứu chỉ
ra rằng cả hút thuốc và sử dụng rượu trong thai kỳ đều có liên quan đến các rối loạn thần

kinh, tâm thần và phát triển thần kinh, tự kỷ, tăng động giảm chú ý. Tuy nhiên, Bolte S
và cs (2019) trong nghiên cứu tổng hợp từ các nghiên cứu theo dõi thuần tập ca bệnh có


15
đối chứng về nguy cơ tự kỷ thông qua tiêu thụ rượu trực tiếp, nhận thấy lượng tiêu thụ
rượu ở mức độ nhẹ đến trung bình của mẹ khơng là nguy cơ mắc tự kỷ cho con [55].
1.3.4.4. Cách chăm sóc và giáo dục trẻ
Trước đây, yếu tố mơi trường gia đình được đề cập đến khá nhiều trong giả thuyết
về ngun nhân tự kỷ, đó là tình trạng thiếu giao tiếp giữa cha/mẹ với con cái và thiếu
giao tiếp xã hội. Thậm chí, ở những thập kỷ 60, “bà mẹ tủ lạnh” còn được cho là nguyên
nhân gây ra tự kỷ. Tuy nhiên, trẻ có thể đã mắc tự kỷ nhưng chưa được chẩn đốn sớm,
gia đình lại ít quan tâm dẫn đến sự phát triển của trẻ nên trẻ sẽ chậm hơn nhiều hơn so với
một trẻ tự kỷ được quan tâm và can thiệp sớm. Tuy nhiên, với các bằng chứng khoa học
về yếu tố di truyền, tổn thương não đã được chứng minh, thì yếu tố mơi trường gia đình
khơng phải là ngun nhân gây tự kỷ [2].
1.3.5. Sự tác động qua lại của các yếu tố
Mặc dù di truyền là yếu tố quan trọng, tuy nhiên điều này khơng giải thích được
vì sao tỉ lệ tự kỷ lại gia tăng đáng kể như hiện nay [104]. Thêm vào đó, nếu cho rằng
tự kỷ chỉ do di truyền thì tất cả các trường hợp sinh đơi cùng trứng cũng đều bị ảnh
hưởng, tuy nhiên thực tế người ta không thấy điều này xảy ra. Như vậy, sự tương tác
giữa các gen hoặc giữa gen và môi trường có thể là yếu tố liên quan đến tự kỷ,
[2],[9],[129]. Các nghiên cứu đã xác định có hơn 10 gen nằm trên các nhiễm sắc thể
1, 2, 3, 5p, 5q, 6, 7, 13q, 15, 16, 17, 19q, X cùng phối hợp cùng với sự tác động của
môi trường gây nên tự kỷ [92]. Ngày nay, vấn đề tương tác giữa gen và môi trường
đang được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm và các nhà nghiên cứu
nhận thấy rằng dịch tễ học di truyền của tự kỷ rất phức tạp [124],[167]. Các nghiên
cứu cho thấy cả gen và mơi trường có liên quan đến sự phát triển của tự kỷ, điều này
có thể do gen tự kỷ cùng với các tác nhân môi trường như: phơi nhiễm bởi môi
trường độc hại, virus, nhiễm độc trong khi mẹ mang thai dễ dẫn đến nguy cơ tự kỷ ở

con. Có thể trẻ mắc tự kỷ thứ phát đã có tố chất gen tự kỷ nhưng chưa bộc lộ ra thành
tự kỷ cho đến khi có tác động của môi trường [43]. Nghiên cứu của Frazier T.W và
cs (2014) trên 568 cặp song sinh tự kỷ nhận thấy, các yếu tố môi trường và tương tác
giữa gen và môi trường đóng góp vào nguyên nhân của tự kỷ [86]. Một số gen liên
quan đến tự kỷ có thể tương tác bởi các chất gây ô nhiễm môi trường, bao gồm thuốc


16
trừ sâu, kim loại nặng và nhiều hóa chất khác trong thực phẩm, mỹ phẩm hoặc sản
phẩm gia dụng. Tương tác giữa gen/môi trường trong tự kỷ đã được phân tích bằng
206 gen nhạy cảm với tự kỷ [61].
Nhìn chung, hiện nay nguyên nhân của tự kỷ vẫn chưa được xác định rõ ràng,
cơ chế bệnh sinh phức tạp. Tự kỷ liên quan đến nhiều yếu tố nguy cơ, trong đó có
những yếu tố chính như: di truyền, cha mẹ lớn tuổi, tổn thương não ở giai đoạn chu
sinh, yếu tố môi trường và sự tác động qua lại giữa các yếu tố.
1.4. Đặc điểm lâm sàng tự kỷ
1.4.1. Đặc điểm hình thể ngồi
Trẻ tự kỷ có bề ngồi như trẻ bình thường. Thậm chí có tác giả cịn nhận thấy
rằng đa số trẻ tự kỷ có vẻ ngồi khơi ngơ hơn trẻ bình thường, khơng có sự bất thường
về giải phẫu các bộ phận bên trong cơ thể [118]. Tuy nhiên, có nghiên cứu lại cho rằng
những trẻ tự kỷ điển hình có phần trán rộng hơn, mắt to hơn, má và mũi ngắn hơn,
miệng và nhân trung rộng hơn [36].
1.4.2. Dấu hiệu nhận biết sớm tự kỷ ở trẻ em
Theo nhiều nhà nghiên cứu, phát hiện sớm là khi trẻ tự kỷ được phát hiện ở độ tuổi
trước 3 tuổi. Sớm nhất có thể phát hiện khi trẻ 6 tháng tuổi. Những trẻ được khẳng định
chẩn đoán là tự kỷ trước 18 tháng tuổi thường là những trường hợp tự kỷ điển hình. Theo
Ozonoff S (2015), độ nhạy của chẩn đoán lâm sàng tự kỷ tương đối thấp ở trẻ 18-24
tháng, với gần một nửa mẫu không được chẩn đoán cho đến khi trẻ được 36 tháng tuổi
[159]. Như vậy, các biểu hiện lâm sàng đặc trưng tự kỷ ở 18-24 tháng tuổi tiếp tục duy trì
đến sau 3 tuổi, do đó các nhà lâm sàng nên phát hiện ra và chẩn đoán sớm ở 24-36 tháng

tuổi. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã tiến hành áp dụng phát hiện sớm và can thiệp cho
trẻ dưới 3 tuổi mắc tự kỷ và ghi nhận hiệu quả rõ rệt [32],[138]. Các nghiên cứu tại Việt
Nam cũng bước đầu xác định rõ việc phát hiện sớm tự kỷ đóng vai trò rất quan trọng với
các mục tiêu: giúp thiết lập một chương trình can thiệp sớm nhất cho trẻ; quyết định sự
thành công của can thiệp sớm nhất cho trẻ; giúp gia đình trẻ định hướng và có cơ hội tốt
nhất trong việc lựa chọn các dịch vụ can thiệp sớm nhất sẵn có tại Việt Nam phù hợp với
hồn cảnh kinh tế, địa lý [2],[25],[32].


17
Những dấu hiệu nhận biết sớm tự kỷ ở trẻ em là:
(1) Trẻ từ 0-6 tháng tuổi:
- Thờ ơ với âm thanh (cảm giác như bị điếc)
- Hành vi bất thường: tăng động (kích động, khó ngủ, khóc nhiều, khó dỗ dành,
hay bị cơn đau quặn bụng do đầy hơi, khó chịu khơng lý do) hoặc trẻ thờ ơ, n lặng,
dường như thích ở một mình, ít địi hỏi cha mẹ chăm sóc.
- Khả năng tập trung kém: khơng chú ý hoặc tập trung như các trẻ cùng tuổi
khác. Ít hoặc khơng nhìn vào mặt người đang nói chuyện
- Bất thường về vận động và trương lực: Tăng trương lực, giảm hoạt động, tư thế
bất thường khơng thích hợp khi được bế [2],[32].
(2) Trẻ từ 6-12 tháng
- Phát triển các hành vi bất thường: chơi một mình, chơi với các ngón tay và bàn tay
ở trước mặt, sử dụng đồ vật một cách bất thường như gãi, cào hay cọ xát
- Không chú ý đến người khác
- Không phát âm hoặc rất ít
- Bất thường về vận động: cơn giảm hoặc tăng trương lực, giảm hoạt động hoặc
hoạt động quá mức
- Ít hoặc khơng sử dụng kỹ năng giao tiếp không lời (vẫy tay chào/tạm biệt, chỉ
tay) [2],[32].
(3) Trẻ trên 12 tháng

- Khiếm khuyết về các kỹ năng giao tiếp và xã hội
- Đáp ứng với âm thanh: mất hoặc không đáp ứng với âm thanh
- Giao tiếp không lời: khơng có hoặc giảm kỹ năng giao tiếp khơng lời (giao tiếp
bằng mắt, cử chỉ tay chân, biểu lộ nét mặt khi vui buồn, gật lắc đầu). Giao tiếp bằng
mắt bất thường (có thể quay đi, tránh khơng nhìn chăm chú, ánh mắt đờ đẫn trống
vắng hoặc tránh khơng nhìn khi giao tiếp)
- Giao tiếp bằng lời nói: Trẻ khơng hoặc ít phát ra âm thanh, khơng cười thành
tiếng, khơng nói, chậm nói hoặc nói kém. Có trường hợp nói được nhưng ít chủ động
nói, gặp người lạ khơng nói.
- Hoạt động xã hội và chơi: Hoạt động theo nhóm giảm; khó tham gia các trị


18
chơi. Kỹ năng chơi nghèo nàn, rập khuôn, thờ ơ. Trẻ say mê một số đồ chơi, một số
hoạt động khác thường (ánh sáng đèn quảng cáo, âm thanh của chương trình quảng
cáo trên vơ tuyến và âm nhạc).
- Hành vi bất thường: Tự đánh mình, đánh người khác, cử động khác thường tay
chân (vẫy tay, vê xoắn tay, đi kiễng chân), tự kích thích mình (hét lên, vẩy tay, chạy
vòng tròn, sờ bộ phận sinh dục) [2],
(4) Năm dấu hiệu cờ đỏ phát hiện sớm tự kỷ của Mỹ
Viện Hàn lâm Thần kinh học của Mỹ và Hướng dẫn thực hành của Hiệp hội
Thần kinh trẻ em về sàng lọc và chẩn đoán tự kỷ (Filipek PA, 2000) đã khuyến cáo và
đưa ra các dấu hiệu cờ đỏ báo động tự kỷ như sau [82].
- Không bập bẹ khi 12 tháng, không biết dùng chỉ tay ra hiệu bằng ngón trỏ vào
khoảng 12 tháng
- Khơng biết nói từ đơn khi 16 tháng
- Không biết đáp lại khi được gọi tên
- Khơng nói được câu có hai từ khi 24 tháng
- Mất kỹ năng ngôn ngữ hoặc xã hội ở bất kỳ độ tuổi nào
1.4.3. Thiếu hụt về kỹ năng tương tác xã hội

Thiếu hụt về kỹ năng tương tác xã hội là vấn đề cơ bản của tự kỷ. Đối với trẻ tự
kỷ thì khả năng giao tiếp khơng lời được ghi nhận là suy giảm hoặc hạn chế một cách
rõ rệt. Giao tiếp không lời (Giao tiếp phi ngôn ngữ) là cách gửi và nhận thông điệp từ
những gì mà trẻ thể hiện ra bên ngồi trong q trình giao tiếp. Trẻ tự kỷ ít hoặc khơng
có giao tiếp bằng mắt, thường không chủ động trong giao tiếp mắt-mắt với người đối
diện, không chú ý đến sự thu hút của cha mẹ, hoặc nếu có thì trẻ chỉ nhìn vào đối tượng
trong thời gian rất ngắn với biểu hiện ít thích thú (trong khi đó ở trẻ bình thường ngay từ
khi được 2 tháng tuổi đã có thể quan sát được kỹ năng này, trẻ sẽ nhìn theo ánh mắt cha
mẹ, nếu cha mẹ rời mắt khỏi trẻ và nhìn vào vật khác). Đây là những biểu hiện sớm của
khiếm khuyết này ở trẻ tự kỷ [110].
Bên cạnh đó, trẻ tự kỷ thường khơng có những cử chỉ điệu bộ giao tiếp như
khơng biết chìa tay xin mà hay kéo tay người khác, không biết gật lắc đầu, khơng biết
chỉ tay (dùng ngón trỏ để chỉ vào đối tượng mong muốn); về chức năng giao tiếp, chỉ


19
tay là để u cầu cái gì đó ngồi tầm với của trẻ; về chức năng xã hội, chỉ tay là để
bình luận hay hướng sự chú ý hoặc để chia sẻ. Ở trẻ bình thường, hành động chỉ tay
yêu cầu thường xuất hiện khi trẻ được 12-14 tháng tuổi, trong khi chỉ tay trẻ nhìn qua
lại giữa đối tượng và cha mẹ để chắc chắn cha mẹ hiểu được mong muốn của trẻ. Hầu
hết trẻ tự kỷ khơng có được kỹ năng chỉ tay ở lứa tuổi này. Không có hành động chỉ
tay ở trẻ 18-24 tháng là một dấu hiệu chỉ điểm mạnh của tự kỷ [64].
Ngoài ra, trẻ tự kỷ cịn ít đáp ứng với gọi tên. Ở trẻ bình thường khi được 8-10
tháng, hầu hết trẻ sẽ quay đầu lại một cách phù hợp về phía người gọi tên mình. Trẻ tự
kỷ thường khơng như vậy, khiến cha mẹ phải gọi to, vỗ tay hoặc vỗ nhẹ vào vai của
trẻ. Cha mẹ có thể lo lắng con mình bị điếc, tuy nhiên nếu để ý kỹ hơn sẽ thấy trẻ như
điếc khi được gọi tên nhưng lại rất thính tai với những âm thanh quảng cáo. Cũng vì
điều này, hiện nay để đánh giá một cách toàn diện trẻ tự kỷ cần phải phối hợp chặt chẽ
với các nhà lâm sàng Nhi khoa và Tai Mũi Họng để loại trừ các bệnh lý thực thể của
Tai Mũi Họng ảnh hưởng đến chức năng nghe và nói [32],[134].

Bên cạnh đó, trẻ tự kỷ thường khơng làm theo hướng dẫn, không chơi tương tác
với trẻ cùng tuổi, không mỉm cười đáp lại, không để ý đến thái độ và khơng đáp ứng trao
đổi chia sẻ tình cảm với người khác [16],[32].
Các nhà nghiên cứu đều nhận thấy rằng thiếu hụt kỹ năng tương tác xã hội là rất
phổ biến ở trẻ tự kỷ, khó khăn phát triển mối quan hệ bạn bè (trẻ không biết khởi
xướng hoạt động chơi, không biết làm quen và thể hiện cảm xúc chia sẻ với bạn,
không biết chơi lần lượt).
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Mai (2013), cho kết quả 100% trẻ tự kỷ rất ít
hoặc khơng đáp ứng với gọi tên và khơng biết dùng ngón trỏ để chỉ, khơng quan tâm
và chơi với trẻ cùng lứa tuổi; 98,6% trẻ tự kỷ rất ít hoặc khơng nhìn vào mắt cha mẹ
khi chơi, tiếp xúc, cảm xúc thờ ơ, khơng có cử chỉ điệu bộ và không biết khoe với
người khác [15]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hương Giang (2012), Thành Ngọc Minh
và cs (2013) cũng cho kết quả tương tự [2],[18].
Sự khác nhau giữa phát triển kỹ năng xã hội và phát triển chung là một trong
những tiêu chuẩn rất quan trọng. Sự khác nhau khó nhận ra trong năm đầu, nhưng chúng
trở nên rõ hơn khi trẻ khoảng 18 đến 24 tháng tuổi. Thiếu hụt tương tác xã hội sẽ làm


20
giảm rất nhiều khả năng giao tiếp ở trẻ tự kỷ, làm trẻ tự kỷ khó hịa nhập với các bạn khi
đến trường. Trẻ luôn muốn mọi nhu cầu của mình phải được đáp ứng ngay lập tức. Nếu
khơng được trẻ sẽ chống đối một cách quyết liệt. Vì vậy mà sự tương tác của trẻ chỉ
dừng lại ở mức yêu cầu chứ không phải để bày tỏ cảm xúc hay chia sẻ kinh nghiệm [23,
88]. Vì vậy, cha mẹ và người chăm sóc trẻ cần đặc biệt lưu ý những vấn đề này để kịp
thời phát hiện những bất thường trong quá trình phát triển của con em mình.
1.4.4. Những biểu hiện bất thường về ngôn ngữ giao tiếp
Không nói hoặc chậm nói: Chậm nói là khả năng ngơn ngữ của trẻ chậm và kém
hơn so với các mốc phát triển ngơn ngữ của lứa tuổi đó ở trẻ phát triển bình thường, là
dấu hiệu phổ biến nhất ở trẻ tự kỷ. Nhiều nghiên cứu cho thấy hầu hết trẻ tự kỷ đều
chậm phát triển ngôn ngữ so với tuổi [2],[16],[23]. Trong một số các nghiên cứu, có đến

trên 90% cha mẹ nhận thấy con họ khơng nói được như những đứa trẻ khác hoặc đã nói
được nhưng sau một thời gian lại dừng phát triển, mất dần ngôn ngữ đã nói và tiến triển
thành khơng nói nữa. Đa phần cha mẹ và người chăm sóc trẻ nhận thấy sự bất thường
khi trẻ ở độ tuổi 18 đến 24 tháng hoặc sớm hơn. Một số trẻ đã nói được nhưng tới 18
đến 24 tháng lại khơng nói hoặc nói ít, phát âm vơ nghĩa [120]. Khơng nói hoặc chậm
nói là dấu hiệu mà cha mẹ hay đưa trẻ đến khám nhất vì dấu hiệu này dễ nhận thấy, dễ
đo lường khi so sánh với trẻ cùng tuổi. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hương Giang và cs
(2012) cho thấy 100% trẻ tự kỷ có dấu hiệu chậm nói [2].
Giai đoạn hình thành và phát triển ngơn ngữ của trẻ tự kỷ trước 18 tháng có thể có
bất thường như: im lặng một cách khơng bình thường hoặc ít phát âm. Ngược lại một số
trẻ lại tạo ra sự phát âm khơng bình thường, thay vì tiếng gừ gừ trong họng và bập bẹ
khi hóng chuyện và giao tiếp, trẻ có thể phát ra hàng loạt âm thanh lạ trong thời gian dài,
lặp lại nhiều lần như tiếng rít, la hét một cách bất thường hay cười vô cớ. Bập bẹ bình
thường hay bắt đầu từ 6 tháng tuổi, trẻ bình thường bập bẹ phù hợp với lời nói của cha
mẹ hoặc người chăm sóc như tạo được cuộc hội thoại, ví dụ như khi được cha mẹ gọi
tên hoặc chào hỏi thì trẻ mỉm cười, ngừng bập bẹ, khi cha mẹ khơng hội thoại nữa thì trẻ
tiếp tục bặp bẹ. Cịn trẻ tự kỷ liên tục phát âm và khơng hiểu lời nói của cha mẹ, nên hội
thoại chồng chéo nhau. Ở trẻ lớn tuổi hơn sẽ cố gắng chủ động hội thoại, cịn trẻ tự kỷ
khơng làm được điều này. Các bất thường về tiền ngôn ngữ được Nguyễn Thị Thanh


21
Mai và cs (2013) ghi nhận trong nghiên cứu của mình, có 96-98,6% cha mẹ nhận thấy
trẻ khơng hiểu lời và trẻ tự phát những âm thanh vô nghĩa, kỳ quặc [15].
Sử dụng ngôn ngữ bất thường: đối với trẻ tự kỷ có khả năng nói được, thường thấy
ngơn ngữ bất thường như nói nhại lời, nghi thức, khơng đúng chức năng giao tiếp. Trẻ
có thể lặp lại âm thanh ngay sau khi được nghe chúng hoặc có khi sau một khoảng thời
gian như vài giờ, vài ngày, hoặc lâu hơn nữa. Nhại lời ngay lập tức là kiểu nhại lời đầu
tiên thường xuất hiện ở trẻ, trẻ lặp lại một số lời nói mà trẻ nghe được. Điều này cho
thấy trẻ có khả năng nghe và giữ lời nói đó trong bộ nhớ ngắn hạn. Nhại lời có trì hoãn:

xuất hiện khi trẻ lặp lại một số đoạn đối thoại đã nghe trong quá khứ (trẻ có thể lặp lại âm
thanh đã được nghe sau một khoảng thời gian như vài giờ, vài ngày, thậm chí vài tuần sau
đó). Một số trẻ lặp lại một cách máy móc đến từng chi tiết một vài câu nói trong chương
trình quảng cáo hay có trẻ có thể thuộc trơi chảy các câu chuyện, bài hát, đoạn văn, bài
báo hay nhưng không hiểu ý nghĩa của nó [16],[23]. Một số trẻ thường chỉ nói theo quảng
cáo, hát thuộc lịng, đếm số, đọc chữ cái, hát nối từ cuối câu, đọc thuộc lòng bài thơ, hoặc
chỉ nói khi có nhu cầu cần thiết như địi ăn, địi đi chơi. Ngơn ngữ thường thụ động, chỉ
biết trả lời mà không biết hỏi, không biết kể chuyện, không biết khởi đầu hội thoại (bắt
đầu một hội thoại thông qua chức năng khởi xướng các yêu cầu đối với người tham gia
hội thoại) và duy trì hội thoại (giữ cho cuộc trò chuyện được tiếp diễn), khơng biết bình
phẩm. Giọng nói khác thường như cao giọng, thiếu diễn cảm, nói nhanh, ríu lời, khơng rõ
ràng [16],[110].
Thiếu hụt kỹ năng chơi đa dạng, bắt chước mang tính xã hội phù hợp với tuổi.
Chơi giả vờ là bắt chước hành động và âm thanh từ sinh hoạt hàng ngày và tưởng
tượng tình huống liên quan đến những hoạt động hàng ngày này. Chơi giả vờ cho phép
trẻ em sử dụng tính sáng tạo và trí tưởng tượng của trẻ theo những cách mới. Trẻ tự kỷ
thường không biết chơi giả vờ mang tính xã hội hoặc trị chơi có luật như trẻ cùng tuổi,
một số nghiên cứu cho rằng thiếu hoặc chậm phát triển kỹ năng chơi giả vờ là một yếu
tố đáng tin cậy để phát hiện tự kỷ [2],[88]. Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy trẻ tự
kỷ không biết chơi giả vờ chiếm tỉ lệ cao [2],[15].
1.4.5. Những biểu hiện bất thường về hành vi định hình, rập khn, ý thích thu hẹp
Hành vi định hình: là những hành vi lặp đi lặp lại, khơng điển hình, khơng chức


22
năng. Biểu hiện bất thường về hành vi định hình như: đi nhón gót, quay trịn người,
ngắm nhìn tay, nhìn nghiêng, lắc lư người, cho tay vào miệng, nhảy chân sáo, chạy đi
chạy lại, nhảy lên nhảy xuống [88]. Theo Kaner, hành vi định hình là biểu hiện điển
hình của trẻ tự kỷ, trẻ có những hành vi rập khn, lặp đi lặp lại như: thích đi lại trong
phịng, vặn xoắn các ngón tay và bàn tay. Nói đi, nói lại một vài từ khơng đúng ngữ

cảnh. Thích đến những nơi quen thuộc, thích chạy lăng xăng và quay trịn. Những trẻ
khác nhau, sở thích về các hành vi rập khn, định hình khác nhau [23],[118]. Nghiên cứu
của Trần Thị Ngọc Hồi (2014), ghi nhận về đặc điểm rối loạn hành vi định hình nhận thấy
hầu hết trẻ tự kỷ có hành vi rập khn, động tác định hình (91,1%); 86,1% trẻ có những
cử động cơ thể vơ nghĩa; 78% được ghi nhận có các hành vi kỳ quặc khó hiểu [8].
Những thói quen rập khn: Những thói quen rập khn thường gặp như: Thích
xoay trịn đồ vật như là quay bánh xe, quay đồ chơi, thích chơi các đồ chơi phát ra tiếng
động, thích gõ đập đồ chơi, nhìn các thứ chuyển động, đi về theo đúng một đường, ngồi
đúng một chỗ, nằm đúng một vị trí, đóng mở cửa nhiều lần, giở sách xem lâu, ln bóc
nhãn mác, thích bật tắt các nút điện hay điện tử, bật tắt các cơng tắc liên tục, hay bấm vi
tính, bấm điện thoại, thường xuyên chuyển đồ chơi từ tay này sang tay khác, tháo rời đồ
vật tỉ mỉ hoặc xếp thành hình khối [8],[88]. Nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Hồi (2014),
nhận thấy hầu hết trẻ tự kỷ có hành vi rập khn (91,1%) [8].
Những ý thích thu hẹp: ý thích thu hẹp liên quan đến cảm giác, đặc biệt là cảm giác
da. Trẻ tự kỷ thường có những ý thích thu hẹp như: cuốn hút nhiều giờ xem ti vi quảng
cáo hoặc chỉ xem duy nhất một chương trình u thích, ln cầm nắm một thứ trong tay
như bút, que tăm, giấy, chai lọ, đồ chơi có màu ưa thích hoặc có độ cứng mềm khác nhau.
Một số trẻ khác lại có sở thích chơi đặc biệt với thú bơng hoặc chăn gối nhồi bơng hoặc
thích các vật cứng như bút bi, đèn pin [16],[110]. Thành Ngọc Minh và cs (2013), nhận
thấy 58,3% trẻ tự kỷ cuốn hút quá mức vào đồ vật [18].
Nhiều trẻ tự kỷ khơng có phản ứng phòng vệ với nguy hiểm. Ngược lại một số
trẻ lại sợ hãi lo lắng quá mức trong những tình huống bình thường. Trẻ tìm kiếm sự
an tồn trong mơi trường ít biến đổi và thường chống đối lại với sự thay đổi bằng
cách ăn vạ, ném phá các thứ, cáu gắt, la hét, kêu khóc, khó dỗ dành, tự cắn, đập đầu,
đánh vào đầu làm đau mình hoặc đánh người khác [64]. Nhiều nghiên cứu cũng cho


23
thấy phản ứng quá mức với sự thay đổi và hành vi tự gây thương tích thường gặp
những trẻ tự kỷ mức độ nặng [8]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hương Giang (2012)

cho thấy 70,5% trẻ kém thích nghi với sự thay đổi [2].
Một số trẻ có khả năng đặc biệt như có trí nhớ thị giác khơng gian và trí nhớ máy
móc rất tốt gắn liền với sự quan tâm thích thú quá mức như nhớ và quan tâm đặc biệt đến
các con số, số điện thoại, nhớ các chủng loại xe ơ tơ, nhớ vị trí nơi chốn đã từng qua, học
thuộc lòng nhiều bài hát, đọc số chữ rất sớm, làm toán cộng rất nhanh, bắt chước thao tác
với đồ vật rất tốt... nên dễ nhầm tưởng là trẻ q thơng minh [6],[16],[32].
1.4.6. Thối lùi
Hầu hết trẻ tự kỷ biểu hiện các bất thường từ trước 12 tháng, nhưng cũng có một
số trẻ phát triển bình thường đến sau 12 tháng, trẻ đạt được các mốc kỹ năng và xã hội
thích hợp, nhưng sau đó dần mất đi các kỹ năng này, đầu tiên là thoái lùi về ngơn ngữ
sau đó là các kỹ năng tương tác xã hội. Thoái lùi xảy ra ở 20-49% các trường hợp tự
kỷ, trẻ ít nói dần sau đó ngừng nói, giảm giao tiếp mắt, giảm các cử chỉ như chỉ tay,
vẫy tay. Thoái lùi thường xảy ra ở trẻ 15-24 tháng, đặc biệt là 18-21 tháng. Theo một
số nghiên cứu trẻ phát triển bình thường cho đến khi thối lùi, nhưng nghiên cứu dọc
trong thời gian gần đây nhận thấy trẻ có suy giảm nhẹ về ngơn ngữ và xã hội trước khi
biểu hiện thoái lùi. Tuy nhiên mất khả năng ngôn ngữ không phải đặc trưng của tự kỷ,
bởi biểu hiện này có thể xảy ra ở hội chứng Rett và các rối loạn thần kinh khác. Mất
khả năng nói kết hợp với động kinh là đặc trưng của hội chứng Landau-Kleffer, nhưng
ở hội chứng này sự thoái lùi muộn hơn (thường bắt đầu từ 3-7 tuổi) và không kết hợp
với mất giao tiếp mắt hay kỹ năng xã hội. Điện não đồ khi ngủ là chìa khóa để chẩn
đốn hội chứng này (điện não đồ có thể bình thường khi trẻ đang thức, nhưng khi ngủ
thì thường xuất hiện các cơn động kinh, có một số trường hợp cơn động kinh chỉ xuất
hiện khi ngủ) [59],[88].
1.4.7. Các biểu hiện kèm theo
Bên cạnh những triệu chứng trên, trẻ tự kỷ đồng thời thường có những rối loạn khác
kèm theo như tăng động, hung tính, xung động, tự làm đau, tự kích thích, rối loạn ăn uống, rối
loạn ngủ [8],[145]. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng những rối loạn này là tăng biểu hiện
stress ở cha mẹ và người chăm sóc trẻ và làm giảm hiệu quả can thiệp trẻ tự kỷ [8],[108].



×