Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tài liệu thi đường lối, chính sách trung cấp lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.39 KB, 19 trang )

Câu 1: Vì sao đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực là điều kiện quan
trọng đề tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức? Liên
hệ trách nhiệm của địa phương, đơn vị và bản thân đồng chí trong việc thực
hiện nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực. ( Cơ Thúy hướng dẫn)
Cơng nghiệp hóa là q trình chuyển dịch từ kinh tế nơng nghiệp (hay tiền
công nghiệp) lên nền kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công
nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp. Tức là, cơng nghiệp
hóa khơng chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm cả các biến đổi
về xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên xã hội cơng nghiệp, tức là trình đơ văn
minh cao hơn.
Hiện đại hóa theo ý nghĩa về kinh tế - xã hội, là quá trình chuyển dịch căn
bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế và đời
sống xã hội mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay. Đối với một nước
đang phát triển, hiện đại hóa là q trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình phát triển để
đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó việc tạo ra, truyền bá và sử dụng tri
thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng, của quá trình tạo ra của cải và việc
làm trong tất cả các ngành kinh tế”
Dưới góc độ kinh tế chính trị, có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hồ thể lực
và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong
đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong
lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu
cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Đặc diểm nguồn nhân lực Việt Nam
Năm 2018, dân số nước ta ước tính khoảng 94 triệu người; trong đó lực lượng
lao động từ 15 tuổi trở lên là 54,61 triệu người, chiếm 59,5%. Nước ta vẫn đang
trong thời kỳ dân số vàng với nguồn cung lao động dồi dào và ổn định. Trong tổng
số 54,61 triệu người thuộc lực lượng lao động của cả nước, chỉ có 9,99 triệu người
được đào tạo, chiếm 18,29% tổng lực lượng lao động. Ngược lại, tính đến năm
2014 cả nước có khoảng 43,76 triệu người (chiếm 81,4% lực lượng lao động) chưa
được đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật. Như vậy, nguồn lực lao động của nước


ta trẻ và dồi dào nhưng trình độ tay nghề và chun mơn kỹ thuật cịn thấp. Lao
động có tay nghề cao thiếu hụt, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao
động và hội nhập quốc tế.
Do đó để tiến hành cơng nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức.
chúng ta cần tiến hành các giải pháp sau:
Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao:
Nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò quyết định tốc độ và chất lượng của
sự phát triển KTXH. Để đẩy mạnh CNH HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức


cần phải cham lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, phải
ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo, thực sự coi đó là quốc sach hàng đầu
Để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở VN cần chú ý các giải pháp cụ thể:
Cải cách tồn diện giáo dục và đào tạo, coi đó là nhiệm vụ cấp bách. Phải
chuyển trọng tâm của việc giáo dục từ trang bị tri thức sang bồi dưỡng, rèn luyện
phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, khả năng
tự đào tạo, thích nghi sự phát triển.
Xây dựng xã hội học tập dưới nhiều hình thức và biện pháp, tạo cơ hội và
khuyến khích mọi người dân tham gia học tập, nâng cao tính chủ động cho người
học trên cơ sở gắn kết những yêu cầu đẩy mạnh CNH HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức
Nâng cao chất lượng toàn diện cho người lao động, Trong thời gian tới phải
tạo ra đội ngũ nhân lực có lịng tự trọng, tự tơn dân tộc, có tinh thần trách nhiệm và
ý thực cộng đồng khi thực hiện các cơng việc được giao; phải có trình độ chun
mơn vững vàng, có phương pháp và kỹ năng thực hành đảm bảo năng suất, chất
lượng hiệu quả công việc được giao, có sự năng động, sáng tạo trong cơng việc, có
ý thưc tự giác học hỏi dám đương đầu với những thách thức và có sức khỏe tốt.
Văn kiện Đại hội XII xác định: “thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giaiỉ
pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu

phát triển KTXH. Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo theo hướng mở, hội
nhập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lới sống và ý
thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công daan.. Phát triển giáo dục đại học
theo hướng hình thành cơ sở giáo dục đại học theo định hướng ứng dụng và cơ sở
giáo dục đại học theo định hướng thực hành
Thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ:
Văn kiện Đại hội XII xác định: Khoa học và cơng nghệ có vai trị là động lực,
quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của tồn bộ q trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đảng ta xác định,
khoa học, công nghệ cùng với giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nến tảng của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ theo yêu cầu của công cuộc đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển nền kinh tế tri thức cần
phải:
Xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai dường lối, chủ
trương cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức đạt hiệu
quả cao với tốc độ nhanh
Đẩy mạnh viêc nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác nguồn tài nguyên
quốc gia, nắm bắt tri thức mới và các công nghệ cao cùng với những thành tựu mới
nhất về khoa học của thế giới; hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao động,


đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp
và của nền kinh tế thị trường
Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng
cơng trình sư, kỹ sư trưởng, kỷ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay
nghề cao. Khuyến khích du học sinh ra nước ngối học tập và có chính sách đãi
ngộ thích đáng để thu hút số du học sinh này về nước làm việc hay lập nghiệp.
Phát triển nhanh thị trường khoa học công nghệ để đảm bảo mọi tri thức công
nghệ được mua bán và trao đổi, chuyển giao thuận lợi trên thị trường, được nuôi

dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
Có cơ chề khuyến khích các doanh nghiệp đi thẳng vào các công nghệ tiên
tiến, công nghệ chất lượng cao. Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công
nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro
của hoạt động khoa học công nghệ.
Mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là một địi hỏi thiết yếu.
Thơng qua kinh tế đối ngoại mở rộng thị trường đồng thời tranh thủ vốn, kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến từ bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH gắn
với phát triển kinh tế tri thức
Tiếp tục hồn thiên các cơ chế chính sách đối ngoại, nhất là cơ chế, chính
sách hợp tác về khoa học và công nghệ, hợp tác đầu tư, hợp tác giáo dục và đào tạo
và phải đảm bảo các hình thức hợp tác vừa có hiệu quả kinh tế cao, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vừa giữ vững độc lập và chủ quyền quốc gia,
dân tộc.
 Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”,
một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, việc phát triển con người, phát
triển nguồn nhân lực hay còn gọi là phát triển nền kinh tế tri thức trở thành vấn đề
chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển, là đầu tư có tính chiến lược, là cơ
sở nền tảng cho quá trình CNH-HĐH đất nước.
Liên hệ trách nhiệm của địa phương, đơn vị và bản thân đồng chí trong
việc thực hiện nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực
Trí thức trẻ là nguồn nhân lực có chất lượng cao, là lực lượng nòng cốt trong
phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, việc phát triển đội ngũ trí thức tại
chỗ hoặc thu hút trí thức là một hướng đi đúng đắn góp phần củng cố hệ thống
chính trị cơ sở, phát triển kinh tế - xã hội của huyện Đam Rông.
Ngay sau khi Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng ban hành Chương trình
hành động số 66-CTr/TU ngày 24/10/2008 thực hiện Nghị quyết số 27- NQ/TW
của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) Về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố”. Các cấp ủy và chính quyền huyện

Đam Rơng xác định, đội ngũ trí thức là nguồn nhân lực chủ chốt cho sự phát triển
của huyện, nên trên cơ sở các chính sách của Nhà nước, huyện đã cụ thể hóa cơ
chế, chính sách hỗ trợ về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này.


Để tạo nguồn trí thức tại chỗ, trong 10 năm qua, Đam Rông đã cử 59 người
tham gia học cử tuyển tại các trường Đại học. Trong đó, tập trung vào các ngành
địa phương đang cần như: Kế toán, Luật, Lâm sinh, Khoa học cây trồng, Y tế...
Song song với đó, cấp ủy và chính quyền huyện Đam Rơng đã thực hiện tốt chính
sách huy động đội ngũ trí thức trẻ về công tác và tham gia một số dự án ở huyện;
điều động một số trí thức từ xã lên huyện, từ khối Đảng sang khối Chính quyền,
MTTQ và các đồn thể, có chính sách hỗ trợ đối với trí thức ở địa phương khác về
cơng tác trên địa bàn. Huyện cũng đã thành lập hội khuyến học cấp huyện và cấp
xã để tuyên truyền, vận động nhân dân đầu tư cho con em học tập, xây dựng các
quỹ học bổng cho học sinh nghèo vượt khó, cho sinh viên vay vốn trong thời gian
học. Đồng thời, thành lập Hội Cựu giáo chức của huyện nhằm tập hợp đội ngũ giáo
viên đã nghỉ hưu tham gia các hoạt động, góp phần phát triển giáo dục trên địa bàn.
Huyện phối hợp với Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng và các trường đại học
như Đại học Lâm nghiệp, Đại học Nông lâm TP. HCM, Đại học Luật… để mở các
lớp học trên địa bàn, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân
tham gia học tập. Công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức đã có những chuyển biến
căn bản. Theo thống kê của Ban Tổ chức Huyện ủy Đam Rơng, từ năm 2008 đến
nay, đã có 455 đồng chí được cử đi học các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị. 248
cán bộ, cơng chức, viên chức được đi đào tạo chuyên sâu để nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ. Đội ngũ trí thức của Đam Rơng hiện có 1.599 người.
Trong đó, trí thức là người đồng bào DTTS chiếm 213 người, đạt trên 13%. 65%
đội ngũ trí thức trên địa bàn huyện Đam Rơng tập trung trong ngành giáo dục.
Công tác đào tạo nghề cho bà con nhân dân được chú trọng. Trong 10 năm, Phòng
LĐTBXH huyện đã phối hợp với các cơ quan hữu quan mở 837 lớp đào tạo nghề
cho 7259 lượt học viên. Các ngành nghề được đào tạo chủ yếu tập trung vào các

lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nghề thủ công.
Tuy nhiên, việc thực hiện phát triển nguồn nhân lực tại địa phương vẫn còn
vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định
- Số lượng trí thức được đào tạo đông nhưng chưa mạnh. Cơ cấu đội ngũ trí
thức cịn những mặt bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính.
- Đội ngũ kế cận cịn yếu. Trình độ của đội ngũ trí thức cịn nhiều hạn chế về
năng lực sáng tạo, khả năng thực hành và ứng dụng, ngoại ngữ.
- Cịn một số trí thức xem việc công tác tại huyện là tạm thời để làm bàn đạp
chuyển đi các địa phương khác. Vẫn cịn khơng ít trí thức, nhất là trong vùng đồng
bào DTTS mang mặc cảm tự ti, khơng có tính phấn đấu vươn lên
- Học viên được đào tạo nghề nhiều nhưng không phát huy được kiến thức đã
học sau khi đã kết thúc đào tạo.
Do đó, những giải pháp quan trọng hàng đầu đặt ra đối với địa phương hiện
nay là
- Cần tiếp tục quan tâm đào tạo, tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao,
đáp ứng nhu cầu phát triển của địa phương. Trong đó, tập trung phát triển đội ngũ
trí thức trẻ; khuyến khích sự sáng tạo, mạnh dạn trong đề xuất, nghiên cứu; tạo môi


trường thuận lợi cho trí thức có cơ hội cống hiến.
- Thực hiện hiệu quả chính sách đãi ngộ, trọng dụng đối với trí thức, kịp thời
tơn vinh những trí thức có đóng góp lớn cho địa phương.
- Đẩy mạnh việc phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THCS. Chú trọng
hướng nghiệp trong học đường, hướng nghiệp phải dựa vào chương trình chính
khóa ở bậc THCS nhằm giúp cho học sinh định hướng tương lai phù hợp với khả
năng và điều kiện kinh tế gia đình.
- Nâng cao cơng tác đào tạo nghề tại địa phương. Thực hiện tín dụng ưu đãi
cho các người học nghề sau khi ra trường để họ có điều kiện tự phát triển kinh tế.
Câu 2: Tại sao phải tăng cường giáo dục quyền con người trong xã hội?
Liên hệ việc giáo dục quyền con người ở địa phương. ( CÔ Phụng Hướng dẫn)

Quyền con người: là quyền của tất cả mọi người, đó là những nhu cầu xuất
phát từ nhân phẩm vốn có của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Các
khái niệm nhân phẩm, bình đẳng, tự do, khơng phân biệt đối xử, nhận đạo, khoan
dung, tính trách nhiệm...là những khái niệm gắn liền với quyền con người, tạo
thành nền tảng thúc đẩy sự phát triển quyền con người.
Dưới sự bảo trợ của Liên hiệp quốc, cộng đồng quốc tế đã ghi nhận hơn 40
quyền cơ bản của con người và thiết lập được các cơ chế quốc tế, khu vực, quốc
gia trong việc bảo vệ quyền con người
Ngay sau khi ra đời, Nhà nước Việt Nam đã xác định rõ nhiệm vụ bảo đảm
quyền con người. Hiến pháp 2013 ghi nhận 36 điều về quyền con người và nêu rõ
“ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và Pháp luật”.
Quyền con người là giá trị chung của nhân loại:
Lịch sử đã chứng minh vai trò to lớn của nhân quyền đối với sự phát triển của
nền văn minh nhân loại. Quyền con người luôn gắn liền với các hình thái kinh tếxã hội, vừa là sản phẩm của văn minh nhân loại, vừa là sản phẩm của cuộc đấu
tranh chơng áp bức bóc lột. Sự phát triển của xã hội là nhằm phục vụ con người,
hiện thực hóa các quyền con người. Khi được tôn trọng và bảo vệ, nhân quyền góp
phần quan trọng trong sự phát triển của xã hội, bồi đắp những giá trị hiện có và tạo
lập ra những giá trị mới. Nhân quyền nhằm đảm bảo và hướng tới tự do, tự do làm
nảy sinh mọi sáng tạo và chính những sáng tạo này lại phục vụ cuộc sống con
người…
Ngày nay, các nguyên tắc và quy định chung của Luật nhân quyền quốc tế
được thừa nhân và được xác định là mục tiêu phấn đấu của các quốc gia. Mọi quốc
gia đều coi trọng việc nội luật hóa các chuẩn mực nhân quyền và thực hiện trên
thực tế. Là giá trị chung của tất cả các dân tộc, khơng phân biệt chế độ chính trị,


trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa – đều có quyền hưởng thụ và có nghĩa
vụ bảo vệ, phát triển giá trị xã hội cao quý này

Quyền con người là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa:
Nhân quyền là giá trị to lớn của nhân loại, là sản phẩm của cuộc đấu tranh
chống mọi áp bức dân tộc, giai cấp. Nhân quyền đã tạo được bước tiến lớn lao và
là động lực thúc đẩy mọi quá trình phát triển, tuy nhiên chỉ mới tạo lập được sự
bình đẳng về mặt xã hội, giúp tất cả mọi người được bình đẳng về cơ hội để đạt tới
tự do, chứ chưa khắc phục được bất bình đẳng về mặt sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và phân phối của cải xã hội. Điều này được thể hiện rõ nhất tại các nước tư
bản, với các văn kiện nhân quyền nổi tiếng như Luật về các quyền của Anh (1689),
Tuyên ngôn độc lập của Hoa kỳ(1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
Pháp(1789)…Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, nhân quyền chỉ phục vụ cho giai cấp
tư sản, các giai cấp khác bị tước bỏ nhân quyền, bị đối xử bất cơng, bị áp bức và
bóc lột.
Chế độ XHCN là xã hội luôn ý thức rõ việc nhận diện đầy đủ những biểu hiện
và nguồn gốc của bất cơng và tìm phương thức, biện pháp để xóa bỏ những bất
cơng ấy. Đó là cách thức để tạo ra môi trường, điều kiện cho việc thực hiện hóa
đầy đủ các quyền con người. Mục tiêu mà những người cộng sản theo đuổi là xóa
bỏ nguồn gốc sâu xa nhất của mọi vi phạm nhân quyền - đó là áp bức dân tộc, giai
cấp sinh ra bởi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đồng thời xác định rõ
việc đảm bảo tối đa quyền con người là thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa, là mục tiêu hường tới của nhà nước do những người cộng sản lãnh đạo.
Quyền con người gắn liền với nghĩa vụ công dân:
Điều 29, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người ghi nhận: “Mỗi người đều
có những nghĩa vụ với cộng đồng mà chính trong đó nhân cách của bản thân có thể
phát triển tự do và đầy đủ”. Các văn kiện nhân quyền khác cũng đều nhấn mạnh,
mỗi cá nhân trong khi được hưởng thụ các quyền cần tôn trọng tự do của người
khác và tơn trọng trật tự xã hội, lợi ích của công cộng.
Điều 15 và Điều 16, Hiến pháp năm 2013 của nước ta tiếp tục khẳng định và
làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân theo hướng: quyền công dân khơng tách rời nghĩa vụ cơng dân; mọi người có
vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân

không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng, chỉ ra được cách giải quyết những mối
quan hệ cơ bản nhất của nhân quyền, khắc phục được cách hiểu phiến diện và đòi
hỏi cực đoan về nhân quyền.
 Giáo dục nhân quyền nhằm nâng cao tri thức để người dân có thể tự bảo vệ
và thúc đẩy nhân quyền. Giáo dục nhân quyền cũng nhằm hướng tới xây dựng nền
văn hóa nhân quyền. Do đó, Đảng và Nhà nước ta ln chủ trương phổ cập giáo
dục nhân quyền rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân. Đặc biệt coi trọng giáo dục


nhân quyền cho học sinh, sinh viên, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào trong các
tôn giáo. Nhà nước cũng chú trọng giáo dục nhân quyền cho cán bộ, công chức,
viên chức các cấp nhằm hạn chế những vi phạm, nâng cáo trách nhiệm của những
người đại diện nhà nước trong việc đảm bảo nhân quyền
Liên hệ việc giáo dục quyền con người tại đơn vị.
Đam Rông là huyện nghèo, vùng sâu, vùng xa với trên 70% dân số là đồng
bào dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế của nhân dân cịn gặp rất nhiều khó khăn.
Địa hình đồi núi hiểm trở, trình độ dân trí của nhân dân cịn thấp nên ảnh hưởng
nhiều đến cơng tác quản lý, giáo dục. Trong những năm qua, công tác giáo dục
quyền con người đã dc các cấp bộ đoàn toàn huyện quan tâm, chú trọng.
Ban thường vụ Huyện đoàn chỉ đạo các Đoàn cơ sở và Đoàn trực thuộc phối
hợp các ban, ngành, đoàn thể địa phương tập trung tuyên truyền những chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; các nội dung về quyền
con người được quy định trong các bộ luật: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình
đẳng giới, Luật Phịng, chống bạo lực gia đình, Luật Nghĩa vụ qn sự… Ngồi ra,
phổ biến các văn bản pháp luật có liên quan đến đời sống thiết thực của nhân dân ở
địa phương như: Chứng thực, đăng ký và quản lý hộ tịch, hộ khẩu, giấy khai sinh,
giấy chứng tử; các quy trình về đăng ký kinh doanh, đất đai, đăng ký quyền sở hữu

nhà ở, quy định về mức thu lệ phí. Phối hợp với Công an huyện tổ chức tuyên
truyền Luật trẻ em, Luật an tồn giao thơng tại các trường học thông qua buổi chào
cờ hàng tuần. Xây dựng các mô hình giúp bà con nhân dân và đồn viên thanh niên
tiếp cận sâu và rộng hơn với quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người thông qua
Câu lạc bộ “Tuổi trẻ với Pháp luật”, mơ hình “Tủ sách pháp luật”…
Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được các cấp bộ Đồn
thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng như tuyên truyền miệng, trực quan, phát tờ rơi,
qua mạng xã hội. Ban Thường vụ Huyện đoàn thường xuyên đăng tải các quy định
mới liên quan tới thanh thiếu nhi, các nội dung chính sách giáo dục ý thức và lợi ích
của việc tơn trọng, tn thủ quyền con người; xây dựng, bồi dưỡng, nhân rộng
gương người tốt việc tốt trong xây dựng, thi hành và bảo vệ quyền con người; phê
phán, đấu tranh với hành vi vi phạm nhân quyền. Xây dựng lực lượng thanh niên
cốt cán, tích cực tham gia tuyên truyền bài trừ các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, từ
bỏ các phong tục tập quán lạc hậu, thực hiện toàn dân xây dựng đời sống mới.
Tuy nhiên, cùng với những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện giáo dục
quyền con người cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Đó là :
- Việc giáo dục quyền con người ở một số bản làng vùng sâu vùng xa chưa
được coi trọng, nên vẫn còn xuất hiện hành vi vi phạm quyền con người thông qua
việc thực hiện các hủ tục lạc hậu trong ma chay, cưới hỏi, giải quyết tranh chấp
cộng đồng.
- Một số cơ sở đoàn chưa nhận thức hết được tầm quan trọng, ý nghĩa sâu sắc,
tính cấp bách và lâu dài dẫn đến lơ là, thiếu thường xuyên, thiếu chủ động trong
vấn đề giáo dục quyền con người trong cộng đồng.
- Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho các báo cáo viên, lực lượng cốt cán tại cơ sở


chưa thường xuyên, cập nhật kiến thức mới còn chậm. Việc bất đồng ngôn ngữ
cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến giáo dục quyền con người
Để thực hiện tốt công tác giáo dục quyền con người ở cơ sở, cần tập trung giải
quyết một số vấn đề sau:

- Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa sâu sắc, tính cấp bách
và lâu dài của giáo dục quyền con người trong cộng đồng dân cư cho các cấp bộ
đồn.
- Hai là, đẩy mạnh cơng tác tun truyền, giáo dục ý thức về quyền con người
cho người dân. Đổi mới phương giáp giáo dục, biên soạn, chỉnh sửa lại các tài liệu
về giáo dục quyền con người cho phù hợp với từng nhóm đối tượng khác nhau.
Thay đổi cách thức tuyên truyền bằng nhiều hình thức đa dạng, trực quan, phong
phú.
- Ba là, thường xuyên nâng cao kiến thức, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ
báo cáo viên và lực lượng cốt cán tại địa phương. Chú trọng đào tạo và bồi dưỡng
nguồn cốt cán là người đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh việc tiếp cận đồng
bào dân tộc thiểu số lại vùng sâu, vùng xa, hạn chế tình trạng bất đồng ngơn ngữ
trong giáo dục quyền con người
- Bốn là, đẩy mạnh tuyên truyền, bài trừ các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, từ
bỏ các phong tục tập quán lạc hậu, thực hiện toàn dân xây dựng đời sống mới.
Đảm bảo tốt các chế tài, xử lý nghiêm minh theo pháp luật tất cả những hành vi vi
phạm quyền con người, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
Câu 3: Vì sao nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
nhà nước là yếu tố quan trọng, then chốt để thực hiện có hiệu quả chiến lược
bảo vệ tổ quốc? Liên hệ vai trò, trách nhiệm của đơn vị địa phương cơ sở
trong việc thực hiện chiến lược bảo vệ tổ quốc? ( Thầy Tuyến hướng dẫn)
Chiến lược bảo vệ tổ quốc là kế sách của Đảng, Nhà nước trong xác định
mục tiêu, quy tụ lực lượng, lựa chọn giải pháp để tạo nên sức mạnh tổng hợp
nhằm: kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển,
đảo, vùng trời của tổ quốc; bảo vệ đảng, nhà nước, nhân dân, và chế độ XHCN;
bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH, bảo vệ lợi ích quốc gia- dân tộc;
bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Quan điểm về chiến lược bảo vệ tổ quốc của Đảng trong giai đoạn hiện

nay
- Bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ “ trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, nhà nước
và nhân dân ta. ĐHĐBTQ lần thứ 12 xác định “ củng cố quốc phòng giữ vững an
ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của Đảng, nhà nước, của cà hệ thống chính trị và tồn dân trong đó


quân đội nhân dân và công an nhân dân là nòng cốt”. Đây là quan điểm nhất quán
của Đảng ta, tạo cơ sở quan trọng cho Đảng, nhà nước, cả hệ thống chính trị, tồn
dân và tồn qn ta xác định và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc
phòng, an ninh theo chức năng nhiệm vụ của mình nhằm bảo vệ vững chắc Tổ
quốc VN XHCN
- Giữ vững tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng,
sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước đối với quân đội nhân dân, công an
nhân dân và sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; lấy việc giữ vững
mơi trường hịa bình, ổn định để phất triển KT-XH là lợi ích cao nhất của Tổ quốc
Kết hợp chặt chẽ giữa 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công CNXH
với bảo vệ vững chắc TQ VN XHCN. Sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định,
nắm chác nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm xây dựng Đảng là then chốt, kết
hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, qc phịng, an ninh, đối ngoại
Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phịng an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của cả khối đại đồn kết tồn
dân, của cà hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của
nhà nước, lức lượng vũ trang làm nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc phịng, an
ninh, khơng ngừng xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với xây dựng thế
trận an ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới
Ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi
bên ngoài. Quán triệt đường lối độc lập tự chủ, kiên trì chính sách đối ngoại rộng
mở, đa dạng hóa đa phương hóa theo phương châm thêm bạn bớt thù, vừa hợp tác

vừa đấu tranh, cố gắng tham gia hợp tác, tránh xung đột, tránh đối đầu, tránh cô lập
lệ thuộc
Quán triệt tinh thần cách mạng tiến cơng, chủ động phịng ngừa sớm phát hiện
và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến đột biến bất lợi
Giải pháp phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước
Để tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
Nhà nước đối với quá trình tổ chức thực hiện Chiến lược, cần phải: Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng Nhà nước thực sự của nhân
dân, do nhân dân và vì dân; gắn xây dựng với bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước,
bảo vệ vững chắc an ninh nội bộ, kiên trì và giữ vững dường lối đổi mới và định
hướng XHCN do Đảng đề ra.
Muốn thực hiện được điều đó cần phải:
- Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng đi vào chiều sâu theo Nghị quyết lần thứ IV
BCH TW Đảng khóa XI, NQTW 4 khóa XII.
- Xây dựng Đảng gắn với xây dựng nhà nước theo những chuẩn mực nhà
nước pháp quyền XHCN thực sự của dân do dân và vì dân.


- Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng HCM. Kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu. Đưa tự phê bình và phê bình thành
nề nếp trong sinh hoạt Đảng.
- Nâng cao năng lực của tổ chức Đảng các cấp trong việc lãnh đạo và tổ chức
thắng lợi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nói
chung cũng như trên lĩnh vực Quốc phòng-an ninh bảo vệ Tổ quốc nói riêng.
- Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối và chiến lược bảo vệ Tổ
quốc của các cấp bộ Đảng phải được thể hiện ở việc nắm vững và thực hiện tốt
nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với các lực lượng vũ
trang nhân dân và đối với sự nghiệp quốc phịng và an ninh trong thời kì mới.
=> Sự lãnh đạo đó đã được Đảng thể chế hóa thành cơ chế hoạt động lãnh đạo

và điều hành đất nước là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ và
cơ chế thực hiện nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, quân sự: Đảng lãnh đạo, chính
quyền quản lý, điều hành, cơ quan quân sự, công an và các cơ quan ban ngành làm
tham mưu; người chỉ huy quân sự chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang thuộc
quyền.
* Liên hệ vai trò, trách nhiệm của đơn vị, địa phương cơ sở trong việc
thực hiện chiến lược bảo vệ tổ quốc:
Huấn luyện sẵn sàng chiến đấu là nhiệm vụ chính trị có vị trí rất quan trọng,
thường xun của qn đội trong đường lối chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc của Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua, cơng tác huấn luyện qn sự,
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phịng tại huyện Đam Rơng ln được thực hiện
tốt, xây dựng được thế trận Quốc phòng toàn dân vững chắc.
Từ năm 2016 đến nay, Ban Chỉ huy Quân sự huyện Đam Rông đã tổ chức 6 đợt
tập huấn, huấn luyện quân sự cho các đối tượng, gồm: tập huấn cán bộ phân đội Dân
quân tự vệ năm; Huấn luyện Dân quân binh chủng năm;Dân quân cơ động năm thứ
I; Tập huấn cán bộ và huấn luyện cán bộ B3 và Dự bị động viên. 8/8 Ban Chỉ huy
quân sự xã, với 8/8 đơn vị tự vệ cũng đã tổ chức huấn luyện dân quân cơ động
năm thứ II, dân quân tại chỗ và Tự vệ
Cùng với đó, Ban chỉ huy Quân sự huyện đã xây dựng các kế hoạch, tiến trình
biểu huấn luyện tại chức cho cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị vào thứ 5 hàng tuần với
các nội dung, như: quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của các cấp, luyện tập các
phương án chiến đấu bảo vệ cơ quan, luyện tập điều lệnh đội ngũ tay không, bảo
quản, bảo dưỡng, tháo lắp thông thường vũ khí trang bị trong biên chế, tổ chức
luyện tập khẩu đội súng máy phịng khơng 12,7mm… qn số tham gia huấn luyện
đảm bảo 100% quân số. Các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện cũng đã
tổ chức dạy và học mơn giáo dục quốc phịng an ninh cho gần 1.500 học sinh.
Thông qua huấn luyện quân sự cũng đã giúp các đối tượng được huấn luyện nắm
chắc vị trí, chức năng, nhiệm vụ; từng bước nắm vững những vấn đề cơ bản về
đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về
quốc phịng, an ninh, đối ngoại, dân tộc, tơn giáo, phịng thủ dân sự có liên quan;

hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù


địch đối với cách mạng Việt Nam trong tình hình mới. Từng bước sử dụng thành
thạo các loại vũ khí, khí tài được trang bị; vũ khí tự tạo; vận dụng sáng
tạo trong xử trí tình huống, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Có khả năng độc lập
chiến đấu, phối hợp chiến đấu, phục vụ chiến đấu và xử trí các tình huống, bảo vệ
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và hoạt động khác ở địa phương, cơ sở.
Tuy kết quả huấn luyện có những bước chuyển biến tích cực, nhưng vẫn cịn
những vấn đề bất cập, hạn chế:
- Công tác lãnh đạo, quản lý điều hành huấn luyện ở cấp cơ sở từng lúc, từng
thời điểm chưa chặt chẽ. Xây dựng kế hoạch huấn luyện cho các đối tượng và quản
lý kế hoạch chưa được quan tâm đúng mức, thiếu tính khoa học. Kết quả huấn
luyện đạt chỉ tiêu nhưng chất lượng huấn luyện chưa cao, chưa bảo đảm tính thiết
thực, hiệu quả và vững chắc. Đội ngũ cán bộ huấn luyện ở cơ sở trình độ năng lực,
phương pháp huấn luyện cịn hạn chế;, mơ hình, thao trường huấn luyện chưa bảo
đảm. Kỹ thuật, chiến thuật cịn thiếu và chưa tích cực trong cải tiến...
- Lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên chất lượng không đồng đều,
Công tác huấn luyện của một số đơn vị, địa phương tuy đạt chỉ tiêu nhưng về nội
dung, hình thức, phương pháp cịn hạn chế, chưa vận dụng sáng tạo, phù hợp với
tình hình thực tế. Việc tổ chức hội thao, hội thi chưa cuốn hút được phong trào hoạt
động, tổ chức điều hành thiếu khoa học, chất lượng chưa cao.
Xuất phát từ những vấn đề bất cập, hạn chế nêu trên, cần tập trung thực hiện
tốt một số giải pháp trọng tâm.
- Đổi mới tư duy huấn luyện; đổi mới về công tác chỉ đạo, chỉ huy, quản lý,
điều hành và nội dung huấn luyện; đổi mới công tác bảo đảm huấn luyện; tiếp tục
thực hiện có hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, pháp luật và tăng cường các biện
pháp nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, rèn luyện chấp hành kỷ luật quân
đội, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện;
đổi mới về công tác kiểm tra, phúc tra.

- Tiếp tục quán triệt sâu sắc mệnh lệnh huấn luyện, thực hiện đúng phương
châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, bám sát các quan điểm, nguyên tắc, mối kết
hợp, thực hiện yêu cầu hành động “nhanh, mạnh, chính xác”, huấn luyện sát với
thực tế, nhiệm vụ, địa bàn của tỉnh cho tất cả các đối tượng. Thống nhất nội dung,
phương pháp huấn luyện cho các đối tượng, lấy chất lượng làm chính.
- Phát huy hiệu quả việc huấn luyện dân quân tập trung theo từng cụm xã,
từng địa phương theo vụ mùa sản xuất. Duy trì chặt chẽ chế độ, nền nếp huấn
luyện; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ các cấp về những nội dung mới,
thống nhất phương pháp biên soạn và thông qua giáo án; chú trọng nâng cao chất
lượng huấn luyện cán bộ là khâu quan trọng, then chốt, bảo đảm tạo sự chuyển
biến nhất định về chất đối với cán bộ huấn luyện, đảm đương được vị trí, vai trị
huấn luyện theo chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Tổ chức huấn luyện, hội thao, hội thi chặt chẽ, định kỳ hàng năm nên có
chương trình hội thi cán bộ huấn luyện giỏi và tọa đàm thảo luận theo các chủ đề
thiết thực về công tác huấn luyện; xây dựng mơ hình huấn luyện điểm cho lực


lượng dân quân ở một số địa phương, làm cơ sở để thống nhất thực hiện ở các nơi
khác.
CÂU 4. Tại sao nói xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế là nhân
tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh? Liên hệ
vai trò trách nhiệm của cơ quan, đơn vị và bản thân trong việc thực hiện xây
dựng văn hóa trong cơng sở nhằm (phịng chống suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII? (Cơ Thúy Hướng dẫn)
Khái niệm văn hóa
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biễu hiện của
nó mà lồi người sản sinh ra nhằm thích ứng với yêu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn.
Vai trị của văn hóa

Văn hóa có vai trị thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển kinh tế, chính trị đất
nước.
Vai trị của văn hóa thực chất là nhằm nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng và tố
chất văn hóa khoa học của tồn dân tộc, tạo ra động lực tinh thần, trí tuệ và tư
tưởng cho phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Giá trị này của văn hóa ngày càng nổi
bật trong xây dựng hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do lao động của con
người sáng tạo ra, được cộng đồng khẳng định tích lũy lại, tạo ra bản sắc riêng của
từng tộc người, từng xã hội.
Các mối quan hệ giữa văn hóa – chính trị, văn hóa – kinh tế:
Với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức con người, nên sự phát
triển của văn hoá bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, chính trị của
một xã hội nhất định. Vấn đề này có quan hệ với nhau rất mật thiết: Văn hóa khơng
thể đứng ngồi “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị
cũng nằm trong văn hóa.
Mối quan hệ giữa văn hóa – kinh tế.
Kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Từ
đó, phải chú trọng xây dựng kinh tế để có điều kiện xây dựng và phát triển văn
hố. Có kinh tế mới đảm bảo cho nền văn hóa phát triển, khơng thể xây dựng một
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa khi kinh tế chưa đảm bảo. Trong mối quan hệ với
văn hóa, kinh tế phải đi trước một bước. Để tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có cả vật
chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để đưa đất nước đi lên, không thể
không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là
con người và thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa.


Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có tích cực, chủ động, đóng vai trị to lớn như
một động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Trình độ văn hóa nâng
cao sẽ đẩy mạnh cơng cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Tăng trưởng kinh
tế phải đi đơi với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi

tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những mơi trường văn hóa – xã
hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được. Phát triển kinh tế để bảo
đảm đời sống vật chất và phải phục vụ cho mục đích phát triển văn hố. Để thực
hiện các mục tiêu của XHCN, văn hố ln có ý nghĩa trọng yếu, quyết định.
Mối quan hệ giữa văn hóa – chính trị
Văn hố phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và ở trong chính trị. Ở Việt Nam,
tiến hành cách mạng chính trị thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải
phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển.
Chịu sự lãnh đạo của chính trị, văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị,
tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cách mạng trên
lĩnh vực văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Người khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận”, “Văn hố,
nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong
kinh tế và chính trị”. Tính chất mặt trận của văn nghệ khơng phải chỉ chống giặc
ngoại xâm, mà còn phải chống giặc nội xâm. Mà chống giặc nội xâm khó khăn,
phức tạp hơn rất nhiều. Như vậy, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ
giữa chính trị và văn hóa càng thể hiện sâu sắc hơn, là hai lĩnh vực phải tiến hành
đồng thời song song với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước,
cùng với sự đổi mới tư duy kinh tế và chính trị, Đảng ta đã có những đổi mới quan
trọng trong tư duy về vai trị của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội X (2006), Đảng ta
nhấn mạnh: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”. Đảng ta
xác định vị trí của văn hóa là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền
vững và toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với nhận thức đó,
Đảng ta đã xác định phát triển văn hóa khơng chỉ là mục tiêu, là động lực của phát
triển kinh tế - xã hội, cũng không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà còn là

thước đo của phát triển bền vững.
Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội XI khẳng định: "Xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm
cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào tồn bộ đời sống xã hội, trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển". Nghị
quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI “về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước” cũng đã chỉ rõ về mục tiêu chung “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt


Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Đảng ta chỉ rõ những nhiệm vụ cần phải đạt được: “Chú
trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các
đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh. Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng
văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tơn trọng, chấp hành pháp
luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Từ những quan điểm của Đảng và để khắc phục những hạn chế, để “văn hóa
phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị”, chúng ta cần tiến hành nhất quán
và đồng bộ các giải pháp sau:
- Một là, phải thường xuyên nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân, trước hết là cho chính quyền các cấp, các cơ quan lãnh đạo và quản lý,
cơ quan hoạch định chính sách chính trị, kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp về sự
cần thiết của việc gắn kết tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; các văn nghệ
sĩ cần gắn văn hóa với tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước;

kiên quyết đấu tranh chống lại tách rời mục tiêu kinh tế với mục tiêu văn hóa và xã
hội, thực hiện cho được những chỉ tiêu phát triển con người; đấu tranh chống hoạt
động lợi dụng văn hóa nhằm mục đích chính trị, chống phá sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Hai là, cần kết hợp chặt chẽ các hoạt động văn hóa với chính trị và các hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị
văn minh, với giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ, quốc phịng và an ninh,
bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, cần phải khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng ta về sự gắn kết
chặt chẽ hơn nữa giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt với khơng ngừng phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Cùng với đổi mới về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, đối mới kinh tế,
cần phải tập trung đúng mức vào phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội.
- Bốn là, việc thể chế hóa quan điểm của Đảng thành pháp luật và chính sách
cụ thể, xác định rõ địa chỉ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc thực hiện mối
quan hệ này cần phải được xác định là vấn đề có ý nghĩa quyết định để biến đường
lối, chính sách của Đảng thành hiện thực. Cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ và giám sát của
nhân dân trong quá trình thực hiện ổn định về chính trị, tăng trưởng kinh tế, phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Các cấp lãnh đạo và quản lý
phải thường xuyên kiểm tra, giám sát và rút kinh nghiệm để kịp thời xử lý những
vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ra trong việc giải quyết mối quan hệ này./.


Liên hệ vai trò trách nhiệm của cơ quan, đơn vị và bản thân trong việc
thực hiện xây dựng văn hóa trong cơng sở nhằm (phịng chống suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII?

Văn hố cơng sở là một hệ thống các giá trị, chuẩn mực, mục tiêu và
hoạt động sáng tạo được hình thành trong q trình hoạt động của cơng sở, không
những thể hiện đạo đức, phẩm chất của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi
nhiệm vụ mà cịn thể hiện tính trang nghiêm và hiệu quả hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước, gắn liền với trình độ học vấn và trình độ văn minh
trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.Trong những năm qua, việc
xây dựng văn hóa cơng sở trong tổ chức đoàn đã được Ban Thường vụ Huyện đoàn
Đam Rông triển khai sâu rộng và đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
Thực hiện Chỉ thị số 01 CT/TWĐTN ngày 17/5/2013 của Ban Thường vụ
Trung ương Đoàn về việc “Tăng cường rèn luyện tác phong, thực hiện lề lối cơng
tác của cán bộ Đồn”, Hướng dẫn số 82-HD/TWĐTN ngày 18/5/2012 của Ban Bí
thư Trung ương Đồn về việc “Xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức cán bộ,
đoàn viên, thanh thiếu nhi theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”; Ban Thường vụ Huyện đồn đã tổ chức hội nghị chuyên đề quán triệt việc
“Rèn luyện tác phong, lề lối làm việc của cán bộ Đồn”. Trong đó chú trọng xây
dựng hình ảnh người cán bộ Đoàn thân thiện, trung thực, gương mẫu, sáng tạo,
xung kích trong các hoạt động, tích cực rèn luyện trong học tập và tra u dồi kỹ
năng chuyên môn, nghiệp vụ; đồng thời lồng ghép khắc phục sửa chữa những hạn
chế, khuyết điểm sau kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, gắn với việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả
Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đến nay 100% các cơ sở Đoàn tổ chức học
tập, quán triệt và xây dựng kế hoạch thực hiện Chỉ thị. Trong đó nội dung “8 điều
nên làm và 8 điều không nên làm”được quan tâm triển khai sâu rộng tại các cơ sở
đoàn, gắn với 5 tiêu chí rèn luyện, 10 tiêu chí hành động của Chương trình “Rèn
luyện đồn viên trong thời kỳ mới”.100% cán bộ Đoàn các cấp; 100% đoàn viên
đăng ký chương trình rèn luyện đồn viên, 100% đội viên đăng ký chương trình
rèn luyện đội viên gắn với việc xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức “Thanh
niên Đam Rông học tập và làm theo tấm gương, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” và cuộc vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam trong

thời kỳ mới”, đề án “Tăng cường giáo dục đạo đức lối sống, bồi dưỡng lý tưởng
cách mạng cho thanh, thiếu niên giai đoạn 2013 - 2020”. Kết quả đánh giá chương
trình rèn luyện hàng năm và kết quả kiểm điểm đánh giá cuối năm 2017 cho thấy:
- Đoàn viên xuất sắc: 2898/4139 chiếm 70%. Đoàn viên khá: 1035/4139
chiếm 25%. Đoàn viên TB: 206/4139 chiếm 4.97%. Khơng có đồn viên yếu kém
- Đoàn cơ sở vững mạnh: 24/33 chiếm 72.73%. Đoàn cơ sở khá 9/33 chiếm
27.27%. Khơng có đồn cơ sở xếp loại TB và yếu.
- Liên đội mạnh cấp tỉnh: 14/25 chiếm 56%. Liên đội mạnh cấp huyện 24/25
chiếm 96%. Liên đội khá 01/25 chiếm 4%. Khơng có liên đội xếp loại TB và yếu.


Việc xây dựng văn hóa cơng sở trong các tổ chức cơ sở đồn trên địa bàn
huyện Đam Rơng tuy đã đạt được nhiều kết quả khả quan nhưng vẫn còn tồn lại
một số hạn chế sau:
- Việc cụ thể hóa nội dung Chỉ thị số 01 và Hướng dẫn số 82 vẫn chưa được
thực hiện đồng bộ. Một số cơ sở Đoàn vẫn chưa chủ động trong việc nghiên cứu,
áp dụng mơ hình phù hợp với cơ quan, đơn vị.
- Khả năng cụ thể hoá các nội dung trong Chỉ thị số 01 và Hướng dẫn số 82
của một bộ phận cán bộ cơ sở Đồn cịn hạn chế, chưa xây dựng được các tiêu chí
cụ thể cho Đồn viên thanh niên đăng ký rèn luyện, vẫn đánh giá dựa trên các
tiêu chí chung. Trong giáo dục chưa xác định trọng tâm, thiếu định hướng nâng
cao nhận thức trong từng đối tượng, việc bổ sung hoàn thiện các giải pháp thực
hiện chưa được quan tâm đúng mức.
- Công tác tuyên truyền ở cơ sở còn thiếu chiều sâu, một số cơ sở triển khai
cịn hình thức, chưa có sự đổi mới sáng tạo.
- Về công tác kiểm tra, giám sát thực hiện Chỉ thị số 01 và Hướng dẫn số 82
chưa được thường xuyên và chưa có chuyên đề kiểm tra riêng, nhưng trong q
trình thực hiện đơi lúc chưa thật sự sâu sát, nội dung chưa được cụ thể rõ ràng.
- Công tác phát hiện, biểu dương khen thưởng những tập thể, cá nhân thực
hiện tốt Chỉ thị số 01 và Hướng dẫn số 82 mới chỉ được triển khai ở một số đơn vị.

Qua những hạn chế trên, có thể rút ra một số giải pháp khắc phục như sau:
- Tập trung giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thông tin, tuyên truyền về Chỉ thị
trên các phương tiện truyền thơng, trong đó tập trung vào việc tìm kiếm, giới thiệu
các phương thức cách làm hiệu quả tại cơ sở, việc phát hiện, tuyên dương các điển
hình cán bộ Đoàn tiêu biểu.
- Cần đầu tư các giải pháp nhằm đánh giá mức độ chuyển biến về nhận thức
và hành động của đội ngũ cán bộ Đoàn trong quá trình tham gia thực hiện Chỉ thị,
trong đó cần quan tâm thông tin rộng rãi các nội dung rèn luyện của cán bộ Đồn
tại đơn vị qua đó phát huy vai trị của đồn viên trong kiểm tra, giám sát kết quả
thực hiện.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giới thiệu các tập thể, cá nhân thực hiện
tốt Chỉ thị gắn với việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.
- Định kỳ tiến hành tổng kết, đánh giá, khen thưởng kịp thời những cán bộ có
thành tích tốt trong thực hiện các nội dung của Chỉ thị số 01 và Hướng dẫn số 82.
Câu 5: Vì sao trong hoạt động đối ngoại, Đảng và Nhà nước Việt Nam
luôn dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, đồng thời quan tâm đúng mức
đến nghĩa vụ quốc tế của Đảng với tư cách một đảng cộng sản cầm quyền. (Cô
phụng hướng dẫn)


Việc xác định lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại được xem là một
hoạt động chính trị thường xuyên của các quốc gia độc lập trên thế giới. Trong hoạt
động đối ngoại hiện nay, lơi ich quốc gia dân tộc ngày càng được công nhận là
nguyên tắc tối thượng trong chính sách đối ngoại của các nước và của Việt Nam.
Trong hoạt động đối ngoại, Đảng và Nhà nước Việt Nam ln dựa trên cơ
sở lợi ích quốc gia dân tộc:
- Lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu mà các quốc gia theo đuổi để bảo đảm
sự tồn tại và phát triển của mình.
“Lợi ích quốc gia là mục tiêu cơ bản và nhân tố quyết định cuối cùng trong

việc hoạch định chính sách đối ngoại. Lợi ích quốc gia là khái niệm có tính khái
qt hóa cao bao gồm những nhu cầu sống cịn của quốc gia đó. Đó là tự bảo vệ,
độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quân sự và thịnh vượng về kinh tế….
- Đối với nước ta hiện nay, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết có ý nghĩa
rất thiết thực, là cơ sở cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cho sự ổn định, phát triển
và tạo nên nguồn lực to lớn cho công cuộc đổi mới.
+ Đại hội XII đã chỉ rõ: “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển;
đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế”.
- Lợi ích quốc gia - dân tộc còn tạo cơ sở ngày càng vững chắc để chúng ta
đấu tranh và hợp tác với các đối tác bên ngoài. Kiên quyết đấu tranh, làm thất bị
mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất
nước.
+ Đảng ta đã chỉ ra 04 nguyên tắc trong hoạt động đối ngoại như sau:
Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau.
Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thơng qua thương lượng hịa
bình.
Bốn là, tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
+ Đảng ta cũng đã chỉ rõ 04 phương châm trong hoạt động đối ngoại như sau:
Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
 Đối ngoại phục vụ lợi ích chân chính của dân tộc và đó cũng là cách thực
hiện tốt nhất nghĩa vụ quốc tế, là sự đóng góp đối với sự nghiệp cách mạng thế
giới.



 Lợi ích cao nhất của dân tộc mà cũng là của Đảng cộng sản Việt Nam là xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
ra sức phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, ổn định chính trị vững chắc, phát triển
lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự đóng góp hiệu quả,
thiết thực nhất của Đảng và nhân dân Việt nam đối với cách mạng thế giới.
 Đảng luôn kiên định quan điểm coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạng thời đại.
Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại.
 Đây là sự phát triển sáng tạo bài học của cách mạng Việt Nam về kết hợp
giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh
quốc tế trong điều kiện lịch sử mới.
 Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, phát
huy sức mạnh bên trong là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là
điều kiện để mở rộng và nâng cao uy tín quốc tế của đất nước.
 Sự kiên định độc lập tự chủ, tự lực, tự cường là vấn đề có tính ngun tắc để
mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, tránh được
những tình huống bất lợi về đối ngoại, củng cố và nâng cao vị thế đất nước ở khu
vực cũng như trên thế giới.
Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
 Cần phải nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp tác và đấu tranh,, coi đây
là hai mặt gắn bó hữu cơ của quan hệ quốc tế, phải hết sức tránh hợp tác một chiều
hoặc đấu tranh một chiều.
 Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh, ĐCS Việt nam nhấn mạnh một nhận
thức mới là đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp tác, tránh trực diện đối đầu, không để cho
các thế lực thù lịch đẩy vào thế bị cô lập, đặc biệt là tránh bị đột quân sự hoặc bị
khiêu khích vũ trang. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh còn nhằm tranh thủ
những lực lượng có thể tranh thủ được, phân hóa và thu hẹp đến mức có thể đối

với các thế lực thù địch hoặc khơng thân thiện. Tiêu chí để xác định hướng hợp tác
hay đấu tranh chính là lợi ích dân tộc chân chính.
Bốn là, tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước.
 VN đặc biệt chú trọng hợp tác khu vực, nhất là đối với các nước láng giềng
nhằm tạo một môi trường hịa bình, ổn định lâu dài chung quanh đất nước.
 Việc tạo lập được mối quan hệ hợp tác trên cơ sở tùy thuộc lẫn nhau về an
ninh cũng như về phát triển với các nước trong khu vực sẽ là bảo đảm hết sức quan
trọng nhằm xác lập một vị thế có lợi hoặc chí ít là bất lợi nhất trong quan hệ quốc
tế.


 Cùng với việc đề cao quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng
và khu vực, Đảng và Nhà nước VN đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng
quan hệ với tất cả các nước. đặc biệt các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn.
Trong hoạt động đối ngoại, Đảng, Nhà nước quan tâm đúng mức đến
nghĩa vụ quốc tế
- Để phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới phải giao lưu hội nhập với các
nước, khu vực, cộng đồng quốc tế.
- Phương hướng hoạt động đối ngoại của Đảng đã chỉ rõ: Chú trọng phát
triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng, thúc đẩy
quan hệ với các đối tác lớn, đối tác quan trọng.
- Phương châm hoạt động của Đảng cũng đã đề ra: Tham gia hợp tác khu vực,
đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
- Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là
bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Vì vậy, hoạt động đối ngoại của Đảng và nhà nước ta đã đạt nhiều thành tựu
quan trọng như sau:
+ Có sự chuyển biến mạnh mẽ tư duy về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

+ Hội nhập quốc tế trở thành một trong những động lực quan trọng cho phát
triển kinh tế xã hội, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.
+ Quan hệ của nước ta với các đối tác trên thế giới ngày càng được mở rộng
và đi vào chiều sâu. Đến này, VN đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187 nước,
quan hệ kinh tế với hơn 224 nước và vùng lãnh thổ. Gia nhập ASEAN (1995),
tham gia AFTA (1996), là thành viên sáng lập ASEM (1996), gia nhập APEC
(1998), WTO (2007), TTP (2015)…
+ Chưa bao giờ quan hệ đối ngoại của Việt nam lại được mở rộng và phát
triển như hiện nay.
- Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trách nhiệm của Đảng trước dân tộc và
trước cộng đồng quốc tế ngày càng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: nếu khơng
hồn thành trách nhiệm đối với dân tộc thì cũng khó có thể hoàn thành trách nhiệm
đối với cộng đồng quốc tế và ngược lại. Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là thực hiện ước vọng ngàn đời
của toàn dân tộc Việt Nam cũng là sự đóng góp thiết thực của Việt Nam vào sứ
mệnh chung của cộng đồng quốc tế trong thời đại hiện nay. Muốn vậy, ngoại giao
phải gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nội lực với ngoại lực,
xem nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng; lấy lợi ích quốc gia làm yếu tố
hàng đầu trong việc hoạch định chính sách đối ngoại, đồng thời kết hợp hài hòa
giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế, với lợi ích chính đáng của các đối tác, từ
đó tìm mẫu số chung để hợp tác tốt nhất, đưa đất nước hội nhập sâu, toàn diện vào
khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu phát triển.



×