Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện phú tân, tỉnh cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.69 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----



-----

LÂM NGỌC SƠN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----



-----

LÂM NGỌC SƠN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU


Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ

Hà Nội, năm 2021



MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong q trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
ngồi việc phát huy nguồn nhân lực để đưa nền kinh tế phát triển bền vững và
nâng cao năng lực cạnh tranh, mặt khác phải khơng ngừng hồn thiện hệ
thống an sinh xã hội, trước hết là bảo hiểm xã hội để giúp người lao động có
thêm tiềm lực chống đỡ, vượt qua rủi ro. Do vậy, chính sách bảo hiểm xã hội
ln là vấn đề nóng vì có sự chi phối của các quy luật nền kinh tế thị trường,
nó ln có sự cạnh tranh gay gắt, xã hội đang diễn ra sự phân chia với một
ranh giới rõ ràng giữa người chủ và người lao động. Lẽ đó, người lao động
cần có sự tương trợ trong cuộc sống do các rủi ro mang lại, vì vậy mà việc xác
định đúng đắn vị trí của bảo hiểm xã hội trong cuộc sống, sự tác động của nó
đối với người lao động còn là một vấn đề đang được cả xã hội quan tâm.
Đặc biệt, là trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa nước ta hiện nay, hệ thống an sinh xã hội, nhất là bảo hiểm
xã hội càng phải được phát triển đồng bộ và toàn diện hơn, đáp ứng được
người lao động và cho nhân dân; bởi lẽ, thực hiện bảo hiểm xã hội đối với

mọi người lao động là thực hiện sự công bằng giữa mọi người thuộc các thành
phần kinh tế. Do đó, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, coi trọng thực hiện
các chính sách an sinh xã hội, cụ thể rõ nét nhất là hệ thống các chế độ bảo
hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện, đây là mục tiêu quan
trọng và thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp xu thế
chung của quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an tồn.
Từ khi thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội đến nay, Nhà nước ta
đã nhiều lần thay đổi, bổ sung theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn cho phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ, với mục tiêu phấn đấu là
để mọi người lao động đều sống và làm việc trong môi trường có bảo hiểm,
mức sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tại Đại hội Đại biểu toàn
1


quốc lần thứ IX của Đảng nêu: “Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo
hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho
mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân”; tới Đại hội lần thứ XII của
Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ, giải pháp là: “Giải quyết tốt lao động, việc
làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội” [15]; đồng
thời, tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII tiếp tục chỉ rõ: “Bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính
của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, bảo đảm
ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước”,
chính vậy việc xây dựng chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và bảo
hiểm xã hội tự nguyện nói riêng là phù hợp thực tiễn và rất cần thiết, bởi
chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ áp dụng cho đối tượng không thuộc
diện làm công ăn lương, không được bảo vệ bằng bảo hiểm xã hội bắt buộc,
những đối tượng làm nghề tự do, những người nông dân v.v… mà trong nền
kinh tế thị trường của chúng ta hiện nay, đối tượng này rất rộng lớn.

Mặc dù, bảo hiểm xã hội tự nguyện đã được triển khai trong nhiều năm
qua, hệ thống bảo hiểm xã hội đã phân cấp tổ chức bộ máy đến huyện và cấp
xã đều có đại lý tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận tham gia. Tuy
nhiên, thời gian qua số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện rất
hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của họ cũng như mục tiêu của Đảng,
Nhà nước đề ra. Nguyên nhân chủ yếu việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã
hội tự nguyện vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp với đặc điểm
lao động của nhóm đối tượng tham gia ở nước ta như: trình độ học vấn, nhận
thức xã hội, lao động chủ yếu chưa qua đào tạo, thu nhập thiếu ổn định,… và
chưa phù hợp với nhu cầu chung về bảo hiểm của người lao động, nhất là
trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đất nước ta đang có những thay đổi quan
trọng để hội nhập theo xu hướng tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Trên cơ sở
2


đó, cho thấy việc thực thi loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện là thật sự cấp
thiết và sao cho phải phù hợp với nguyện vọng, khả năng đa số người lao
động, đó là yếu tố quyết định. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, em chọn
đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú
Tân, tỉnh Cà Mau” làm luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh
tế, với mong muốn góp phần hồn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự
nguyện ở nước ta nói chung và việc thực thi tại huyện Phú Tân, góp phần đưa
chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống người dân hiệu quả nhất.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện đã được các nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu và tiếp cận theo nhiều cách với những cấp độ khác nhau. Một
số cơng trình tiêu biểu đã được thực hiện dưới dạng đề tài tốt nghiệp cấp độ

Thạc sĩ như: Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự
nguyện – Thực trạng và giải pháp” của tác giả Dương Thảo Phương (thực
hiện năm 2014), “Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
tại thành phố Đà Nẵng” của tác giả Phan Võ Thị Hạnh Thủy, Đại học Quốc
gia Hà Nội (thực hiện năm 2015). Ngoài ra, cịn có các đề tài được trình bày,
nghiên cứu dưới dạng bài báo tạp chí khoa học như: “Chính sách bảo hiểm xã
hội tự nguyện của một số nước trên thế giới” của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
đăng trong Thông tin Khoa học bảo hiểm xã hội, số 3/2014; “Phân tích thực
trạng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động tự do” của
Nguyễn Thị Thúy, Báo Công thương online; “Chế độ bảo hiểm xã hội tự
nguyện” của Nguyễn Xuân Thu, đăng trên Tạp chí Luật học, số 9 năm 2006;
Giáo trình Luật an sinh xã hội do PGS.TS Nguyễn Hữu Chí chủ biên, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2012,...
Do đó, luận văn này trên cơ sở kế thừa các cơng trình nghiên cứu trước
đó kết hợp với thực tiễn thực thi pháp luật trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh
Cà Mau, nhằm bổ sung thêm vào hệ thống lý luận về bảo hiểm xã hội tự
3


nguyện, qua đó đề ra một số giải pháp, kiến nghị để từng bước hoàn thiện
pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích
Tìm hiểu, nghiên cứu lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội nói chung và
bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng; phân tích thực trạng pháp luật hiện hành
của Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện, việc vận dụng triển khai thực
hiện pháp luật này thực tiễn tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Từ những bất

cập trong quy định của pháp luật và áp dụng trong thực tiễn tại địa phương để
đưa ra một số giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định về bảo
hiểm xã hội tự nguyện và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
3.2. Nhiệm vụ
-

Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và

pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện.
-

Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam

hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện.
-

Phân tích, đánh giá thực tiễn việc triển khai thực hiện các quy định

của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Phú

Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực thi tại huyện

Tân, tỉnh Cà Mau và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm xã
hội tự nguyện.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định pháp luật hiện hành của Việt
Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện theo Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và
các văn bản hướng dẫn thi hành.

4


Cùng với đó, luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật bảo
hiểm xã hội tự nguyện trên cơ sở các tài liệu, số liệu trong những năm gần đây
của bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp

luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện như: đối tượng, chế độ hưởng, tài chính,
trình tự, thủ tục hưởng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Luận văn không nghiên
cứu các nội dung về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp bảo hiểm xã hội
tự nguyện.
-

Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã

hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
-

Về thời gian: Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực trạng tại địa bàn

nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2018 – 2020.

5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp
luận của học thuyết Mác - Lênin bao gồm phép biện chứng duy vật và phương
pháp luận duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở các quan điểm,
định hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm xã hội Việt Nam
giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu: phân tích và tổng hợp, so sánh, liệt kê; kết hợp với phương pháp nghiên
cứu thực tiễn, dự báo khoa học. Tùy từng nội dung mà các phương pháp
nghiên cứu này được sử dụng linh hoạt, kết hợp hoặc riêng rẽ với nhau.
6.
-

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa khoa học: Luận văn khái quát hệ thống và làm rõ hơn một số

vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật về bảo hiểm xã hội
tự nguyện. Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện
tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Trên cơ sở những bất cập, hạn chế, luận văn
5


mạnh dạn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy định của pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện.
-


Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần cung cấp kiến thức cho những

người đang làm công tác thực tiễn về bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã
hội tự nguyện nói riêng, cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Qua
đó, giúp họ thực thi pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện đúng, đảm bảo
quyền lợi. Bên cạnh đó, đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên,
học viên, nhà nghiên cứu quan tâm đến pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Việc đi sâu tìm hiểu đề tài là vấn đề lớn, nên khơng tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ.
7.

Kết cấu luận văn

Ngồi Mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện

và quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại
huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân,
tỉnh Cà Mau.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO
HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

TỰ NGUYỆN
1.1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật bảo hiểm
xã hội tự nguyện
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Theo Bách khoa toàn thư mở (Trang thông tin điện tử Wikipedia Việt
Nam): "Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử
tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo
an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm
bảo an tồn xã hội" [37].
Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
Về nội dung, cả hai khái niệm nêu trên khơng có gì khác biệt. Tuy
nhiên khái niệm về bảo hiểm xã hội theo từ điển Bách khoa được trình bày chi
tiết phù hợp với cách tiếp cận bảo hiểm xã hội có sự bảo hộ của Nhà nước,
cịn khái niệm bảo hiểm xã hội theo Luật bảo hiểm xã hội phù hợp hơn với xu
thế của nền kinh tế mở, kinh tế hội nhập hiện nay.
Để có một khái niệm thống nhất trong việc nghiên cứu bảo hiểm xã hội
tại Việt Nam, trên phương diện lý thuyết bảo hiểm xã hội được khái quát như
7


sau: Bảo hiểm xã hội là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện thông
qua việc tạo lập quỹ tài chính bảo hiểm xã hội, nhằm đảm bảo thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu

nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết. Với khái niệm bảo hiểm xã hội này, ta có
thể tiếp cận về bảo hiểm xã hội trên cả phương diện kinh tế và phương diện xã
hội. Song, về mặt bản chất bảo hiểm xã hội là “bù đắp” khoản thu nhập bị
giảm hoặc mất của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện
Xét về sự tự nguyện, có thể hiểu một cách đơn giản đó là sự lựa chọn
và hành động tự do trong ý thức, bắt nguồn từ những tác nhân được xem xét
dựa trên lý trí để đạt đến một mục đích nào đó, theo cách này chủ thể điều
khiển được chính bản thân trong những hành động và quyết định của chính
mình [23, tr.9].
Q trình lao động, con người có thể gặp những sự cố bất thường như
lủ lụt, hạn hán, hỏa hoạn, bệnh tật,... dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
tài sản; đó là những rủi ro ngồi tầm kiểm sốt, người lao động khơng mong
muốn xảy ra. Với tiến trình xã hội ngày càng phát triển thì những rủi ro có xu
thế tăng, nên nhu cầu về bảo hiểm xã hội của người lao động ngày càng lớn.
Để đảm bảo thu nhập tài chính khi gặp rủi ro đến thì cần sự tương trợ giúp đỡ
của cộng đồng, mà bảo hiểm xã hội tự nguyện xuất hiện bên cạnh bảo hiểm xã
hội bắt buộc như là một yếu tố khách quan, thật sự là nhu cầu cần thiết cho
người lao động.
Song, trước khi có bảo hiểm xã hội tự nguyện không phải tất cả người
lao động thuộc các thành phần kinh tế ai cũng đều được tham gia, mặc dù họ
có nhu cầu. Trong môi trường lao động, nếu như người lao động làm việc tại
khu vực chính thức được chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc thì sẽ có điều kiện
nguồn lực hỗ trợ vượt qua khó khăn nếu rủi ro khơng may đến; nhưng đối với
8


những người lao động không thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì
lại khơng có điều kiện tài chính, cơ chế tự bảo vệ mình một cách phù hợp với

điều kiện sống thiếu đảm bảo và thu nhập khơng ổn định. Chính vậy, ngồi
bảo hiểm xã hội bắt buộc thì loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện được thiết
kế nhằm đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng đa số người lao động.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: “Bảo hiểm xã hội tự
nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ
chức, bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có
nhu cầu bảo hiểm” [30, tr.85]


Việt Nam, khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện lần đầu tiên được

quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 như sau: “Bảo hiểm xã hội tự
nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia,
được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của
mình để hưởng bảo hiểm xã hội. Đến Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 tiếp tục
phát triển hoàn thiện khái niệm hơn, cụ thể tại Khoản 3, Điều 3 nêu: “Bảo
hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà
người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu
nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội
để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất”.
Có thể thấy, định nghĩa về bảo hiểm xã hội tự nguyện theo pháp luật
Việt Nam năm 2014 đã có sự bổ sung cụ thể hơn, hồn thiện hơn so với Luật
bảo hiểm xã hội 2006. Theo đó, định nghĩa này đã nhấn mạnh vai trò của Nhà
nước trong bảo hiểm xã hội tự nguyện, đồng thời định nghĩa đưa ra cụ thể hai
chế độ mà người tham gia được hưởng. Tuy nhiên việc quy định các chế độ
bảo hiểm xã hội tự nguyện trong khái niệm này phần nào làm hạn chế việc mở
rộng chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện trong tương lai.

9



1.1.1.3. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
Hiện nay, bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện rộng rãi trên thế
giới. Tại mỗi quốc gia có quan điểm, đường lối, trình độ phát triển dân trí
khác nhau thì chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng có
những điểm khác nhau; tên gọi chính sách đơi khi cũng khác nhau nhưng cho
cùng mục đích là cấp hỗ trợ an sinh xã hội cho cơng dân đất nước mình. Dù
trình độ dân trí có khác nhau nhưng loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện là
loại hình được xây dựng trên cơ sở hồn tồn tự nguyện của người tham gia,
bằng cách đóng góp một phần thu nhập của mình để được hưởng chế độ bảo
hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một chính sách xã hội của quốc gia
nhưng đồng thời cũng là công cụ của Nhà nước nhằm tham gia vào việc phân
phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý giữa các tầng lớp xã hội. Tại Việt
Nam, pháp luật bảo hiểm xã hội ra đời năm 1945 khi bắt đầu lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa; tuy nhiên các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội
tự nguyện tại Việt Nam mới được cụ thể tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006
và được sửa đổi, hoàn thiện hơn trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Pháp
luật bảo hiểm xã hội tự nguyện điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh từ
hoạt động bảo hiểm xã hội trong đó bao gồm các quy định về đối tượng tham
gia, mức đóng phí, mức hưởng bảo hiểm cho đến quy định về thủ tục thực
hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện, mức phí và phương thức đóng phí bảo hiểm
xã hội tự nguyện và các nội dung liên quan khác. Do vậy, có thể hiểu pháp
luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện là hệ thống những quy định do Nhà nước
ban hành, quy định về đối tượng tham gia, mức phí và phương thức đóng phí,
các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, thủ tục hưởng quyền lợi, quản lý của
nhà nước và vấn đề khác về bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Tóm lại, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện là hệ thống những
chính sách do Nhà nước ban hành quy định các hình thức đảm bảo điều kiện
10



vật chất, tinh thần cho người lao động và thành viên trong gia đình trong
trường hợp bị mất hoặc bị giảm khả năng lao động, mất việc làm, khi họ tham
gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
1.1.1.4. Phân biệt bảo hiểm xã hội tự nguyện với loại hình kinh doanh
bảo hiểm (bảo hiểm thương mại)
*

Sự giống nhau:

Bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thương mại được thực hiện
trên cùng một nguyên tắc là có sự đóng góp của đối tượng tham gia thì mới
được hưởng quyền lợi. Hoạt động của hai loại hình này đều nhằm bù đắp tài
chính cho đối tượng tham gia bảo hiểm khi họ bị rủi ro trong khn khổ hình
thức bảo hiểm đang tham gia. Phương thức hoạt động của hai loại hình này
đều mang tính cộng đồng, lấy số đơng bù cho số ít, mang tính chất cộng đồng
chia sẽ rủi ro.
* Sự khác nhau:
-

Mục tiêu hoạt động của bảo hiểm xã hội tự nguyện là nhằm thực hiện

chính sách xã hội của Nhà nước, góp phần ổn định đời sống cho người lao
động và các thành viên của gia đình họ; tức là, hoạt động bảo hiểm xã hội tự
nguyện là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội. Còn đối
với mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận.
-

Phạm vi hoạt động của bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ diễn ra trong


từng quốc gia, với từng chính sách bảo hiểm xã hội riêng biệt phù hợp với
điều kiện quốc gia đó, mà nó sẽ trực tiếp liên quan đến người lao động và các
thành viên gia đình của họ. Về mức đóng, hình thức đóng, thời gian đóng,
mức hưởng dựa trên tiền lương, mức thu nhập của họ; khi có chính sách thay
đổi tiền lương hoặc chỉ số giá sinh hoạt tăng thì cũng sẽ được điều chỉnh phù
hợp để ổn định cuộc sống người lao động và đảm bảo cho họ tham gia để
được thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội

11


Còn phạm vi hoạt động của bảo hiểm thương mại khơng chỉ diễn ra
trong mỗi quốc gia mà cịn sang những quốc gia khác, trên toàn thế giới; các
sản phẩm của bảo hiểm thương mại có mặt hầu hết trên tất cả lĩnh vực kinh tế
xã hội. Hoạt động bảo hiểm thương mại thực hiện theo cơ chế thị trường và
nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Nội dung hoạt động rất rộng, không chỉ
đảm bảo rủi ro về người mà còn đảm bảo rủi ro các đối tượng khác như: cơng
trình, hàng hóa, phương tiện,... Ứng với mỗi gói sản phẩm và mức đóng góp
nhất định mà cơng ty bảo hiểm đưa ra thì khi có sự kiện rủi ro xảy ra người
tham gia bảo hiểm sẽ được nhận một mức quyền lợi tương ứng được quy định
trước, do đó quan hệ giữa mức đóng góp và mức hưởng bảo hiểm là quan hệ
tương đồng.
-

Bảo hiểm xã hội tự nguyện ngồi việc là một chính sách xã hội và

đồng thời cũng là một công cụ nhà nước tham gia vào việc phân phối lại thu
nhập quốc dân đảm bảo hài hòa, phù hợp với tầng lớp dân cư. Mặc dù, nguồn
kinh phí thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện do người sử dụng

lao động và người lao động đóng góp nhưng đều do nhà nước bảo hộ, đảm
bảo quỹ bảo hiểm không bị vỡ và cũng nhằm giảm gánh nặng cho nguồn ngân
sách nhà nước và thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài, bền vững.
Còn bảo hiểm thương mại được thực hiện bởi các tổ chức kinh doanh
bảo hiểm trên thị trường. Bảo hiểm thương mại chỉ hoạt động mà nơi đó
doanh nghiệp chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một
khoản tiền gọi là phí bảo hiểm tham gia để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện
bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm khi có sự kiện rủi ro xảy ra mà các bên đã
thỏa thuận trước thông qua hợp đồng bảo hiểm.
-

Mối quan hệ giữa người lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội là dài

hạn và trọn đời. Còn đối với mối quan hệ của người được bảo hiểm và người
bảo hiểm trong bảo hiểm thương mại là có thời hạn, thơng thường là ngắn hạn
(bảo hiểm phi nhân thọ).
12


1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện
-

Dưới góc độ chính trị xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện là một phạm

trù xã hội thuộc hệ thống các chính sách xã hội, đây cũng là một trong những
giải pháp góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người dân của một đất nước.
-

Đối với góc độ kinh tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện là phạm trù kinh tế


tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập cho người lao động khi đối mặt với sự kiện
rủi ro khách quan mà họ không lường trước được dẫn đến tình trạng giảm
hoặc mất khả năng lao động. [13]
-

Cịn đối với góc độ pháp lý, bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại

hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức và quản lý mà trong đó người lao
động tự nguyện tham gia, được lựa chọn tham gia, lựa chọn mức đóng,
phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Do đó, cho thấy rằng:
Thứ nhất, về đối tượng bảo hiểm xã hội tự nguyện có đối tượng áp
dụng rộng rãi và việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện dựa vào ý chí của
người tham gia. Do tính chất tự nguyện của loại bảo hiểm xã hội này nên nhà
nước không bắt buộc người lao động tham gia; đây cũng là một trong những
tiêu chí phân biệt giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt
buộc. Khi không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, người
lao động từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tham gia hoặc không tham gia bảo hiểm
xã hội tự nguyện.
Thứ hai, người tham gia tự chọn mức đóng và phương thức đóng, phù
hợp với thu nhập và điều kiện thực tế của người tham gia (như là có thể lựa
chọn thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nơng thơn; phương
thức đóng có thể là đóng hàng tháng, 03 tháng hoặc 06 tháng một lần;…).
Vấn đề này được nhà nước quy định linh hoạt, xuất phát từ đặc điểm của đối
tượng tham gia chủ yếu là người lao động có thu nhập bấp bênh, việc làm
thiếu ổn định.

13


Thứ ba, ngồi sự đóng góp của người lao động, thì cịn được nhà nước

hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội. Để khuyến khích người lao động tham gia
bảo hiểm xã hơi tự nguyện, nhà nước có quy định cụ thể về mức hỗ trợ tiền
đóng (cụ thể tại Điều 14 Nghị định 134/2015/NĐ-CP)
Thứ tư, về chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện không thực hiện tất cả các
chế độ bảo hiểm xã hội mà chỉ thực hiện một số chế độ nhất định như: chế độ
hưu trí và chế độ tử tuất. Cụ thể, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
khi đủ 60 tuổi đối với nam; 55 tuổi đối với nữ và đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã
hội trở lên thì được hưởng lương hưu; đối với chế độ tử tuất thì được giải
quyết hưởng trợ cấp mai táng, trợ cấp tuất theo quy định.
1.1.3. Nguyên tắc của bảo hiểm xã hội tự nguyện
-

Bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự

nguyện của người tham gia. Đây là ngun tắc đặc trưng của loại hình này;
chính ngun tắc này tạo điều kiện cho mọi người lao động trong xã hội tham
gia, dù giữa họ có sự chênh lệch về thu nhập. Tuy nhiên, sự tự nguyện này
còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố mệnh lệnh; thể hiện ở việc nhà nước ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự
nguyện rất cụ thể và chặt chẽ áp dụng cho cả nước, các cơ quan bảo hiểm xã
hội không được tự ý đặt ra bất kỳ chế độ, quy định nào khác thêm.
-

Trong quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện có sự linh

hoạt nhưng cũng có giới hạn nhất định. Đặc trưng này nhằm đảm bảo sự bình
đẳng, hài hịa lợi ích của các chủ thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự
nguyện; tránh sự chênh lệch quá lớn về đời sống của những người cùng
hưởng bảo hiểm, cũng nhằm tránh gây mất cân đối cho quỹ bảo hiểm xã hội
khi chi trả bảo hiểm.

-

Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện phải đảm bảo sự liên thông giữa

bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc. Nguyên tắc này
nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động, khi quan hệ lao động ln có sự
14


thay đổi khơng ngừng trong điều kiện kinh tế có nhiều sự chuyển biến như sự
chuyển dịch của cơ cấu ngành, lãnh thổ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu thành
phần lao động, khu vực lao động,... hoặc là có sự yêu cầu về trình độ kỷ thuật,
tay nghề ngày càng cao dẫn đến người lao động sẽ chuyển từ khu vực chính
thức sang phi chính thức và ngược lại. Do đó, người lao động có quyền tham
gia bảo hiểm xã hội theo đúng loại hình dù ở bất kỳ khu vực môi trường lao
động nào, đảm bảo sự liên tục, thơng suốt q trình đóng bảo hiểm xã hội.
1.1.4. Vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.4.1. Tạo điều kiện để nhà nước thực hiện chỉnh sách kinh tế xã hội
Trong những năm qua, bảo hiểm xã hội ngày càng phát triển toàn diện,
số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng đông và ngày càng được mở
rộng ra các thành phần kinh tế khác nhau, chính sách bảo hiểm xã hội tự
nguyện đã tạo điều kiện cho hàng triệu người lao động làm việc ở vùng nơng
thơn có thể tham gia bảo hiểm xã hội để họ yên tâm làm việc, gắn bó và phát
triển nông nghiệp, nông thôn, giảm sức ép di dân ra các đơ thị. Đồng thời, cịn
giúp thu hút lao động về làm việc tại các vùng nông thôn, miền núi để cho nhà
nước thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển xã hội lành mạnh,
cân bằng giữa các vùng miền, khôi phục và phát triển các làng nghề nhằm
phát huy sức mạnh của tất cả các nguồn lực xã hội.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện ra đời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện có hiệu quả một số chính sách xã hội khác như chính sách về dân số

và kế hoạch hóa gia đình. Vì hiện nay, đại bộ phận lao động khi tuổi già, mất
sức, ốm đau khơng có thu nhập để sống, có tâm lý chung là phải đẻ nhiều con
để được nương nhờ khi già yếu. Với tâm lý đó, mặc dù có nhiều cặp vợ chồng
đã có 2, 3 con thậm chí 4, 5 con nhưng vẫn đẻ thêm để mong được nương nhờ
vào các con khi tuổi già. Như vậy, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ
là chỗ dựa vững chắc cho mỗi người lao động khi già yếu, góp phần xóa đi
tâm lý “trẻ cậy cha, già cậy con”.
15


1.1.4.2. Tăng cường nội lực, kích thích phát triển nền kinh tế
Trong đời sống xã hội con người có an cư mới lập nghiệp, việc đảm bảo
quyền lợi cho người lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội sẽ tạo cho người
lao động an tâm công tác, lao động sản xuất. Trong định hướng chiến lược
phát triển đất nước đã đặt ra đó là tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh
tế xã hội nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phát triển sản xuất kinh
doanh; hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường; tăng cường nội lực của các
công cụ, chính sách quản lý vĩ mơ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối
ngoại; chính sách phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo khoa học
công nghệ; tiếp tục đổi mới chính sách xã hội, chính sách bảo vệ mơi trường
và thúc đẩy cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững
mạnh.
Trong việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường thì yếu tố phát
triển thị trường vốn và tiền tệ cũng rất được quan tâm chú trọng. Nếu xét trên
phương diện tài chính thì nguồn thu bảo hiểm xã hội tạm thời nhàn rỗi cũng
có thể được coi là nguồn vốn bổ sung, hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh
nghiệp và trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở.
Mặt khác, việc thu hút đông đảo đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, về

mặt chính trị sẽ đảm bảo được vấn đề an sinh xã hội, về mặt tài chính thì
thơng qua chính sách bảo hiểm xã hội sẽ tập trung được lượng tiền tạm thời
nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân phục vụ cho việc đầu tư và tăng trưởng
kinh tế. Ngồi ra việc hình thành quỹ bảo hiểm xã hội độc lập góp phần giảm
bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, từ đó giúp cho việc tập trung đầu tư
vào các mũi nhọn kinh tế có trọng điểm từ nguồn ngân sách nhà nước có hiệu
quả hơn.

16


1.2. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội tự
nguyện
Theo pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện gồm có các văn
bản quy phạm pháp luật hiện hành sau: Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, có
hiệu lực từ ngày 01/01/2016. Nghị định 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật bảo hiểm xã hội
về BHXH tự nguyện. Thông tư số 01/2016/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Theo đó, pháp luật
quy định một số nội dung cơ bản sau:
1.2.1. Về đối tượng tham gia
Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ
15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc
theo Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/04/2017 của Bảo hiểm Xã hội Việt
Nam, bao gồm:
-

Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 03


tháng trước ngày 01/01/2018; người lao động làm việc theo hợp đồng lao
động có thời hạn dưới 01 tháng từ ngày 01/01/2018 trở đi.
-

Người hoạt động không chun trách ở thơn, ấp, bản, sóc, làng, tổ dân

phố, khu, khu phố;
-

Người lao động giúp việc gia đình.

Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không

hưởng tiền lương.
-

Xã viên không hưởng tiền lương, tiền công làm việc trong hợp tác xã,

liên hiệp hợp tác xã.
-

Người nông dân, người lao động tự tạo việc làm bao gồm những

người tự tổ chức hoạt động lao động để có thu nhập cho bản thân và gia đình.

17


-


Người lao động đã đủ điều kiện về tuổi đời nhưng chưa đủ điều kiện

về thời gian đóng để hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm xã hội;
-

Người tham gia khác.

So với Luật năm 2006 thì cho thấy đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện mở rộng hơn. Luật năm 2014 đã bỏ quy định tuổi trần tham gia, chỉ
quy định người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam, đủ
15 tuổi trở lên. Việc quy định rõ ràng các đối tượng tham gia tạo điều kiện
thuận lợi cho cán bộ, nhân viên làm công tác ngành bảo hiểm xã hội dễ dàng
giải thích cụ thể cho người tham gia.
Đồng thời, quy định về đối tượng là người tham gia khác là quy định
mở, mang tính linh hoạt để cập nhật và có bổ sung phù hợp với sự phát triển
khơng ngừng của tình hình kinh tế, xã hội và nhu cầu của người tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện. Song, việc liệt kê cụ thể, rõ ràng từng đối tượng nêu
trên dễ xảy ra thiếu sót đối tượng.
1.2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.2.1. Chế độ hưu trí
*

Theo Điều 73, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì: Người tham gia

bảo hiểm xã hội tự nguyện khi đủ 55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam và
đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu, như sau:
Lương hưu = (Mức bình qn thu nhập đóng bảo hiểm xã hội) x (Tỷ lệ
hưởng lương hưu)
Trong đó:

- Mức bình qn thu nhập đóng bảo hiểm xã hội: được tính bằng bình quân
các mức thu nhập tháng đã đóng bảo hiểm xã hội của tồn bộ thời gian đóng.

- Tỷ lệ hưởng lương hưu:
+ Đối với nữ được hưởng 45% tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm
xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì tính thêm 2%; mức
tối đa bằng 75%.
18


+

Đối với nam được hưởng 45% tương ứng với số năm đóng bảo hiểm

xã hội theo bảng dưới đây, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội,
được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%:
Bảng 1.1: Tỷ lệ hưởng lương hưu
Năm nghỉ hưu

Số năm đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với tỷ lệ
hưởng lương hưu 45%

[Nguồn: Luật Bảo hiểm xã hội]
Ngoài ra, Điều 73, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Nghị định số
134/2015/NĐ-CP của Chính phủ còn quy định thêm trường hợp người tham
gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55 đối với nữ nhưng
thời gian đóng bảo hiểm xã hội cịn thiếu khơng q 10 năm so với thời gian
quy định như trên, kể cả những người đã có từ đủ 10 năm đóng bảo hiểm xã
hội bắt buộc trở lên mà chưa nhận bảo hiểm xã hội một lần, có nhu cầu tham
gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì được đóng tiếp bảo hiểm xã hội tự nguyện

cho đến khi đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí.
Tại Điều 5, Nghị định số 134/2015/NĐ-CP của Chính phủ cịn quy định
thêm trường hợp chế độ hưu trí đối với người trước đó có thời gian đóng bảo
hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại Điều 71, Luật bảo hiểm xã hội năm
2014.
Điều đó cho thấy pháp luật quy định cụ thể vấn đề liên thông giữa bảo
hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết của người
tham gia bảo hiểm xã hội. Trường hợp người tham gia bảo hiểm xã hội đã đủ

19


tuổi nhưng thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 20 năm thì sẽ khơng được
hưởng chế độ hưu trí. Mặt khác, so với trước đây thì điều kiện hưởng lương
hưu hàng tháng được qui định chi tiết hơn với các nhóm đối tượng, đặc biệt là
nâng dần tuổi nghỉ hưu để được hưởng chế độ hưu trí với mức thấp hơn.
*
Song, tại điểm C, Khoản 1, Điều 219, Bộ Luật Lao động năm
2019
(có hiệu lực từ ngày 01/01/2021) đã có sửa đổi, bổ sung điều kiện hưởng
lương hưu tại Điều 73, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Theo đó, độ tuổi nghỉ
hưu đã được Bộ Luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP
ngày 18/11/2020 của Chính phủ điều chỉnh.
Tại Khoản 1, 2, Điều 169, Bộ Luật Lao động 2019 quy định: “1. Người
lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định
của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ
hưu.”; “2. Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình
thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động
nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. ”
Biểu đồ 1.1: Quy định chính thức về tuổi nghỉ hưu từ 01/01/2021


[Nguồn: Thư viện Pháp luật]

20


Như vậy, trong năm 2021 với điều kiện lao động bình thường, thì tuổi
nghỉ hưu của người lao động là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với nam và đủ 55 tuổi
04 tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động
nam và 04 tháng đối với lao động nữ, cụ thể từng năm theo Biểu đồ trên.
Ngồi ra, Luật này cịn quy định đối với người lao động bị suy giảm
khả năng lao động; làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;
làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, thì từ năm 2021 trở đi: Áp dụng
theo nguyên tắc “Có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi
so với người lao động làm việc ở điều kiện lao động bình thường”. Tóm lại,
điều kiện độ tuổi của người lao động muốn được hưởng lương hưu đã được
Nhà nước điều chỉnh tăng lên theo lộ trình từng năm như phân tích trên.
*

Tiếp tục tại Điều 75, Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 còn quy định

việc trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, khi người lao động nếu có thời gian đóng
bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%,
cứ mỗi năm được tính bằng 0,5 tháng bình qn thu nhập tháng làm căn cứ
đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Quy định này đảm bảo quyền lợi của người
lao động phù hợp với thời gian đóng bảo hiểm vào quỹ bảo hiểm xã hội của
họ, bảo đảm cơng bằng trên cơ sở ngun tắc có đóng có hưởng, tạo điều kiện
cho người lao động yên tâm công tác và thực hiện các nghĩa vụ tham gia bảo
hiểm xã hội theo quy định.
Về chế độ bảo hiểm xã hội một lần cũng được được quy định tại Điều

77, Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và Điều 7, Nghị định số 134/2015/NĐ-CP
của Chính phủ, áp dụng đối với người không đủ điều kiện hưởng lương hưu
hàng tháng. Quy định này, nhằm tạo điều kiện đảm bảo quyền lợi cho người
lao động khi họ không đủ số năm đóng bảo hiểm xã hội theo quy định hoặc đã
đủ số năm đóng nhưng vì lý do đặc biệt hồn cảnh gì đó họ muốn hưởng bảo
hiểm xã hội một lần.

21


Khi người lao động chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng và
khơng có nguyện vọng hưởng bảo hiểm xã hội một lần thì được bảo lưu thời
gian đóng bảo hiểm xã hội. Quy định này, nhằm tạo điều kiện cho họ được
tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và được hưởng những quyền đầy
đủ hơn khi bị phát sinh sự kiện gì đó ngồi ý muốn làm gián đoạn q trình
đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện của họ. Tính liên thơng của bảo hiểm xã hội
tự nguyện và bắt buộc cũng được thể hiện ở quy định này, khi thời gian gián
đoạn có thể là khoảng thời gian chuyển tiếp giữa hai loại hình bảo hiểm, hay
xuất phát từ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, khi khơng có thu
nhập khơng ổn định.
1.2.2.2. Chế độ tử tuất
Khi người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chết hoặc tòa án tuyên
bố chết, người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương
cơ sở thuộc một trong các trường hợp sau:
-

Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có thời gian tính hưởng

chế độ tử tuất từ đủ 60 tháng trở lên;
-


Người đang hưởng lương hưu.

Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có thời gian đóng bảo

hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 12 tháng trở lên;
-

Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đang hưởng trợ cấp tai nạn

lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng đã nghỉ việc.
Chế độ tử tuất được đơng đảo người lao động quan tâm, đồng tình, bởi
lẽ khi người lao động mất đi thì những người thân của họ cần được trợ cấp để
đảm bảo khoản tài chính nhất định nhằm trang trải ổn định cuộc sống. Thời
gian tính hưởng chế độ tử tuất là tổng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội bắt
buộc và tự nguyện, khơng bao gồm thời gian đóng bảo hiểm xã hội đã được
tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần.

22


×