LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2009 là năm thứ 3 Việt Nam tham gia tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) và cũng là năm chứng kiến sự biến động mạnh mẽ trên thị trường tài chính
tiền tệ trong nước và quốc tế. Sự biến động cuộc khủng hoảng kinh tế Thế giới đã
tác động mạnh đến đời sống nhân dân: lạm phát tăng cao, giá dầu, giá vàng tăng kỷ
lục,… lãi suất cũng liên tục biến động mạnh trong năm. Không chỉ ảnh hưởng đến
đời sống nhân dân, hệ thống Ngân hàng cũng chịu rất nhiều tác động xấu, cụ thể
nhất là khả năng thanh khoản của các Ngân hàng, tạo ra sức ép tăng lãi suất huy
động.
Năm 2009 cũng là năm cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng diễn
ra quyết liệt hơn với nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới được các ngân hàng
triển khai cung cấp tới khách hàng. Các ngân hàng có vốn Nhà nước tập trung
phát triển theo hướng thành lập các tập đoàn tài chính, trong khi các ngân hàng
thương mại cổ phần có quy mô trung bình và nhỏ tập trung định hướng phát triển
ngân hàng bán lẻ với các đối tượng khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và
nhỏ và khách hàng cá nhân. Vì vậy có thể nhận thấy trên thị trường dịch vụ ngân
hàng năm qua sôi động hơn với việc các ngân hàng đẩy mạnh các hoạt động
ngân hàng bán lẻ. Khách hàng có thêm nhiều lựa chọn sử dụng những tiện ích
ngân hàng để thanh toán cho những chi phí trong cuộc sống hàng ngày như tiền
điện, nước, điện thoại, internet, mua sắm tại một số siêu thị,…
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu hướng phát triển chung của thị trường. Ngay từ những ngày đầu thành
lập VCB cũng đã xác định cạnh tranh phát triển cho vay tiêu dùng sẽ là hướng đi
mới giúp phân tán rủi ro và nâng cao khả năng hội nhập. Tuy đã bước đầu hình
thành và tổ chức hoạt động theo thông lệ của các NHTM hiện đại trên thế giới,
theo đó các hoạt động bán lẻ được quan tâm chỉ đạo và kiểm soát một cách bài
bản nhưng trong bối cảnh nền kinh tế đương đầu với những khó khăn thách thức,
hoạt động tín dụng tiêu dùng của Vietcombank gặp không ít khó khăn.
Xuất phát từ lý do đó, tôi chọn đề tài “ Mở rộng cho vay tiêu dùng tại
ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” làm đề tài cho
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để xem xét một cách tổng quát và có hệ thống về thực trạng
cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam
trong xu thế hội nhập. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm làm cho sản
phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương
phong phú và đa dạng hơn, thu được hiệu quả cao hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề
Đề tài lấy hoạt động cho vay tiêu dùng tại Vietcombank làm đối tượng
nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là thực trạng hoạt động cho vay tiêu
dùng tại thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam trong các năm 2007,
2008, 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề hoàn thành nhờ sử dụng kết hợp các phương pháp như:
Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử với phương pháp nghiên cứu lý
luận, thực tiễn, so sánh.
5. Kết cấu chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương
mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY TIÊU
DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về cho vay tiêu dùng
1.1.1 Khái niệm về cho vay tiêu dùng
Tín dụng là một trong những chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân
hàng, để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của các thành phần trong nền kinh tế. Trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu, chiếm
từ 1/3 đến 2/3 nguồn thu của các ngân hàng. Các ngân hàng cung cấp nhiều loại
hình cho vay khác nhau dựa trên quy mô của từng ngân hàng, tương ứng với sự
đa dạng trong mục đích vay, trên cơ sở đó mà tín dụng được phân thành nhiều
loại như : cho vay ngắn hạn, cho vay dài hạn, cho vay cá nhân, cho thuê…trong
đó mảng CVTD là một trong những thị trường đầy tiềm năng của các ngân hàng.
Vậy CVTD là gì?
Trên thực tế có rất nhiều định nghĩa khác nhau về CVTD. Nhưng nhìn
chung có thể định nghĩa CVTD là khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài
chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia
đình, xe cộ,… Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và dịch
vụ… cũng có thể được tài trợ bởi CVTD.
1.1.2 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Ngoài những đặc trưng chung của tín dụng ngân hàng: là quan hệ vay mượn
dựa trên cơ sở niềm tin, là quan hệ vay mượn có thời hạn và có hoàn trả, tiền vay
được cấp dựa trên cơ sở hoàn trả vô điều kiện, CVTD có những đặc điểm riêng
như sau:
• Khách hàng vay: là các cá nhân và hộ gia đình. Thu nhập và tiêu dùng
có mối quan hệ thuận chiều với nhau nên những người có thu nhập cao
thường có xu hướng vay tiền nhiều hơn những người có thu nhập thấp,
và thường có nhu cầu vay nhiều hơn so với thu nhập hàng năm của
mình. Tương tự như vậy, những gia đình mà chủ gia đình hay người
tạo ra thu nhập chính có học vấn cao cũng thường có nhu cầu sử dụng
những hàng hóa hiện đại và đắt tiền hơn, do đó mà nhu cầu tiêu dùng
cũng cao hơn.
• Mục đích vay: Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân chứ không phải
mục đích kinh doanh. Các nhu cầu đó có thể liệt kê như : mua nhà, xây
dựng nhà cửa, mua sắm vật dụng gia đình, chữa bệnh, đi học,…
• Nguồn trả nợ: Việc sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay của người
tiêu dùng thường không đem lại thu nhập. Do vậy, nguồn trả nợ
thường được lấy từ lương hoặc thu nhập từ các hoạt động khác. Việc
sử dụng vốn vay của ngân hàng sẽ tạo cho người vay một tâm lý tích
lũy, tăng đọng lực làm việc của khách hàng.
• Quy mô khoản vay: Ngoại trừ khoản vay bất động sản, hầu hết các
khoản vay tiêu dùng đều có giá trị nhỏ. Tuy nhiên đối tượng của tín
dụng tiêu dùng là mọi tâng lớp dân cư trong xã hội nên số lượng các
khoản vay lại lớn. Khi khách hàng định mua bất cứ vật dụng gì, họ đều
đã có một khoản tích lũy từ trước bởi vì ngân hàng không bao giờ cho
vay 100% nhu cầu vốn. Vì thế, nhu cầu vốn của người tiêu dùng
thường không quá lớn đối với ngân hàng ngay cả khi vay để mua nhà,
xây nhà,…
• Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ
kinh tế.
Đối với người tiêu dùng, nhờ vay tiêu dùng họ được hưởng các tiện ích
trước khi tích luỹ đủ tiền. Chính vì vậy khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, thu
nhập của người dân cũng tăng lên, họ cảm thấy lạc quan về tương lai, do đó họ
có nhu cầu mua sám nhiều, vì vậy nhu cầu về vay tiêu dùng có xu hướng tăng
mạnh. Ngược lại khi nền kinh tế suy thoái, thu nhập của người dân có xu hướng
giảm, do giá cả tăng cao nên người dân có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn là chi
tiêu, do đó nhu cầu vay tiêu dùng giảm
• CVTD là khoản mục có rủi ro cao nhất do các nguyên nhân:
Nguồn trả nợ chủ yếu từ thu nhập của người đi vay, mà tình hình tài chính
của các cá nhân và hộ gia đình có thể thay đổi nhanh chóng tùy theo tình trạng
công việc hay sức khỏe của họ nên họ không dễ dàng vượt qua khó khăn về tài
chính so với một hãng kinh doanh.
Việc thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng
thường gặp khó khăn do vấn đề thông tin không đầy đủ. Các thông tin cá nhân
đưa ra thường không rõ rang và minh bạch như các báo cáo tài chính của doanh
nghiệp. Trong khi các doanh nghiệp có báo cáo kiểm toán thì các cá nhân lại dễ
dàng giữ kín thông tin về triển vọng công việc cũng như sức khỏe của mình.
• Chi phí quản lý khoản vay tiêu dùng lớn: Các ngân hàng thường mất
nhiều thời gian và nhân lực để điều tra, thu thập các thông tin cá nhân,
hộ gia đình trước khi phát tiền vay. Trong khi đó, số lượng các khoản
CVTD lại lớn khiến chi phí để quản lý các khoản tín dụng này của
ngân hàng là rất lớn, không những vậy ngân hàng còn phải chịu những
chi phí khác như chi phí quản lý khoản vay, theo dõi với khách hàng
thường xuyên.
• Lợi nhuận từ CVTD cao: Do rủi ro và chi phí cao nên ngân hàng
thường đặt mức lãi suất cao đối với các khoản CVTD. Lãi suất CVTD
phải đáp ứng được phần lợi nhuận mong đợi và phần bù rủi ro.
1.1.3 Vai trò của cho vay tiêu dùng
1.1.3.1. Đối với người tiêu dùng
Việt Nam đang là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế
nhanh nhất thế giới, tình hình chính trị ổn định, đời sống vật chất và tinh thần
của dân cư ngày càng được nâng cao một cách rõ rệt. Chính vì vậy nhu cầu tiêu
dùng của người dân về những sản phẩm tiện ích, hiện đại ngày càng cao. Tuy
nhiên do không phải tất cả mọi người đều có khả năng tự trang trải cho tất cả các
nhu cầu của mình bằng chính nguồn lực của mình. Dịch vụ cho vay tiêu dùng ra
đời đã giúp khách hàng được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền, đặc
biệt trong những trường hợp cấp thiết như nhu cầu về giáo dục và y tế.
1.1.3.2 Đối với ngân hàng
• CVTD nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng :Việt Nam đã chính
thức gia nhập sân chơi chung của nền kinh tế thế giới, điều tất yếu đó là
các ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự cạnh trang găy gắt từ phía các TCTD
trong nước cũng như nước ngoài tham gia vào thị trường tiền tệ Việt
Nam. Để đảm báo khả năng cạnh tranh thì ngân hàng phải đưa ra được các
dịch vụ tài chính thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng hơn đối thủ
cạnh tranh. Một trong những dịch vụ đó là CVTD
• CVTD là một trong những dịch vụ tài chính giúp các ngân hàng mở rộng
quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền
gửi cho ngân hàng
• CVTD tạo điều kiện giúp ngân hàng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh,
nhờ vậy nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
1.1.3.3 Đối với nền kinh tế
• CVTD giúp người dân được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền,
nhất là trong những trường hợp chi tiêu có tính cấp bách như chi tiêu cho
giáo dục, y tế. Như vây CVTD không chỉ mang lại lợi ích cho người tiêu
dùng mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế.
• CVTD có vai trò quan trọng trong việc kích cầu, góp phần vào việc xây
dựng nền tài chính vững mạnh cho một quốc gia. Thị trường CVTD đã
góp phần tạo nên sự sôi động của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển,
tạo nguồn vốn cho khu vực sản xuất trong nước, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, từ đó tăng GDP cho nền kinh tế. Đi đôi với nó là hàng loạt các vấn
đề xã hội được giải quyết như tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động, giúp họ cải thiện mức sống, giảm tệ nạn xã hội…
Mặt khác CVTD còn góp phần làm giảm chi phí giao dịch xã hội thông
qua việc tiết kiệm chi phí và thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng.
Tóm lại, CVTD mang lại lợi ích cho cả người tiêu dùng, người sản xuất,
NHTM hay tổng quan nền kinh tế nói chung. Có thể nói, phát triển CVTD là một
hướng đi phù hợp với sự phát triển của xã hội và tuân theo quy luật kinh tế của
các NHTM trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
1.1.4 Các hình thức CVTD
Việc phân loại CVTD được dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau nhằm giúp
đưa ra một cái nhìn toàn diện về CVTD ở những giác độ khác nhau.
1.1.4.1 Căn cứ vào mục đích vay
Căn cứ vào mục đích vay, CVTD được chia ra làm hai loại:
• CVTD cư trú (Residential Mortgate Loan): Là các khoảm cho vay nhằm
tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng
là cá nhân hay hộ gia đình.
• CVTD phi cư trú (Unresidential Loan): CVTD phi cư trú là các khoản cho
vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình,
chi phí học hành, giải trí và du lịch…
1.1.4.2 Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Căn cứ vào phương thức hoàn trả, CVTD có thể chia làm ba loại:
• CVTD trả góp (Installment Consumer Loan): Đây là hình thức CVTD
trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiên gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều
lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này
được áp dụng cho những khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập định kì
của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay.
Đối với loại CVTD này, các NHTM thường quan tâm đến một số vấn
đề mang tính nguyên tắc sau:
+ Loại tài sản được tài trợ:
Loại tài sản được tài trợ có ảnh hưởng lớn đến thiện chí trả nợ của khách
hàng. Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản hình thành từ tiền
vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Chính vì vậy
nên ngân hàng thường muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời
hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn. Vì với những tài sản như vậy, người tiêu
dùng sẽ hưởng những tiện ích của chúng trong một thời gian dài nên thiện chí trả
nợ của họ sẽ tốt hơn.
+ Số tiền phải trả trước
Ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần
giá trị tài sản cần mua sắm, số tiền này được gọi là số tiền trả trước. Phần còn lại
ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn một mặt, một mặt làm
cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu tài sản, Mặt khác có tác dụng
hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng mình chính là
chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người đi vay có thể sẽ có thái độ
miễn cuỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra khi khách hàng không trả được nợ, trong
nhiều trường hợp ngân hàng đành phải thụ đắc hoặc phát mãi tài sản để thu hồi
nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị thường nhỏ hơn giá trị
đã hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có một vai trò rất quan trọng
giúp ngân hàng hạn chế rủi ro.
Số tiền trả trước nhiều hay ít thường tuỳ thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại tài sản: Đối với loại tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả
trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm, thì số
tiền trả trước ít.
- Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã qua sử dụng: Tài sản sau khi sử dụng
vẫn có thể được tiếp tục mua, bán dễ dàng thì số tiền trả trước có xu hướng thấp,
ngược lại nếu tài sản đã qua sử dụng mà rất khó tìm được thị trường tiêu thụ thì
số tiền trả trước có xu hướng cao hơn.
- Môi trường kinh tế : Là hệ thống hoàn cảnh cấu tạo các nhân tố tạo điều
kiện, cơ sở, đồng thời tác động đến các yếu tố của nền kinh tế từ sản xuất, phân
phối, lưu thông đến tiêu dùng. Bao gồm những yếu tố của sản xuất như tình hình
cung cấp, thị trường về các loại như vật tư, nguyên liệu, sức lao động, tình hình
vốn, tài chính tín dụng, thu nhập dân cư, giá cả thị trường, sức mua của dân cư
và dung lượng thị trường, quan hệ kinh tế với nước ngoài. Như vậy, khi môi
trường kinh tế thay đổi theo chiều hướng thuận lợi thì số tiền trả trước có xu
hướng thấp và ngược lại, khi nền kinh tế thay chiều hướng bất lợi thì số tiền trả
trước có xu hướng cao hơn.
+Năng lực tài chính của người đi vay.
Là yếu tố quyết định khả năng trả nợ của khách hàng do vậy với những
khách hàng có năng lực tài chính tốt thì số tiền trả trước có thể thấp hơn so với
những khách hàng có năng lực tài chính kém hơn
+ Chi phí tài trợ
Đây là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử dụng
vốn. Chi phí tài trợ bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi phí tài
trợ phải trang trải cho được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động, rủi ro, đồng
thời mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho ngân hàng.
+ Điều khoản thanh toán
Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách
hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập,
trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
Giá trị của tài sản tài trợ không thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi
Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. kỳ hạn trả nợ
thường theo tháng. vì thông thường nguồn trả nợ chính của người vay tiêu dùng
là lương, được nhận hàng tháng
Thời hạn tài trợ không nên quá dài. Thời hạn tài trợ bị giới hạn bởi thời
hạn hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị tài sản tài
trợ bị giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ của
người đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi định kỳ có thể được
tính bằng một trong số các phương pháp sau:
- Phương pháp gộp (Add-on Method): Đây là phương pháp thường được
áp dụng trong CVTD trả góp.
Theo phương pháp này, lãi được tính bằng cách lấy vốn gốc nhân với lãi suất
và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh
toán để tìm số tiền phải thanh toán ở mỗi định kỳ.
Công thức tính toán như sau:
T = (V+L)/n
Với L = V × r × n
Trong đó:
T : Số tiền phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ hạn
L: Chi phí tài trợ, bao gồm lãi vay phải thanh toán và các chi phí khác
có liên quan
V: Vốn gốc
N: Số kỳ hạn
R: Lãi suất tính cho mỗi kỳ hạn
- Phương pháp lãi đơn (Simple Interest Method): Theo phương pháp này,
vốn gốc người đi vay phải trả từng định kì, được tính đều nhau bằng cách lấy
vốn ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả mỗi định kỳ được
tính trên số tiền khách hàng thực sự thiếu ngân hàng.
- Phương pháp hiện giá (present Value Method): Theo phương pháp này,
số tiền gốc và lãi mà người đi vay phải trả theo từng định kỳ nhất định được tính
theo công thức sau đây:
Trong đó:
a =
V × (1+i)n × i
(1+i)n - 1
a : Số tiền gốc và lãi phải trả theo từng định kỳ
V: Số vốn gốc ban đầu
i : Lãi suất cho vay
n : Số kỳ hạn trả nợ
+ Vấn đề phân bổ lãi cho vay theo thời hạn
Khi sử dụng phương pháp gộp để tính lãi, các ngân hàng thường tiến
hành phân bổ lại phần lãi cho vay đã được tính. Việc phân bổ theo định kỳ gắn
liền với các kỳ thanh toán hoặc cũng có thể được thực hiện theo quý hay theo
năm tài chính. Tuy nhiên, việc phân bổ lãi theo năm tài chính thường được các
ngân hàng áp dụng nhiều hơn. Các phương pháp phổ biến dùng để phân bổ lãi
cho vay bao gồm:
- Phương pháp đường thẳng (phương pháp tỷ lệ cố định) : theo phương
pháp này, phần lãi trong kỳ đó so với toàn bộ số tháng tính lãi của thời hạn vay.
- Phương pháp tỷ suất lợi tức hiệu dụng (phương pháp quy tắc 78): tên gọi
“quy tắc 78” xuất phát từ kết quả tổng cộng của dãy số từ 1 đến 12, tượng trưng
cho 12 chu kỳ trả góp của một khoản vay 1+2+3+4+5+6+7+8+9+10+11+12=78
Quy tắc này vẫn có thể áp dụng cho các khoản vay trả góp có số kỳ hạn
khác 12 kỳ. Đây là phương pháp được ngân hàng sử dụng phổ biến nhất trong
việc hạch toán phân bổ lãi của các khoản cho vay trả góp.
- Phương pháp lãi: Theo phương pháp này, trước hết, lãi suất cho vay
được quy đổi ra thành lãi suất hiệu dụng. Sau đó, lãi suất hiệu dụng
này được áp dụng phương pháp hiện giá để tính phần lãi phân bổ cho
kỳ đó
+ Vấn đề trả nợ trước hạn:
Thông thường người đi vay được quyền trả nợ trước hạn mà không bị
phạt. Nếu tiền trả góp được tính theo phương lãi đơn và lãi hiện giá thì vấn đề rất
đơn giản, người đi vay, người đi vay phải thanh toán toàn bộ vốn gốc còn thiếu
và lãi vay của kỳ hạn hiện tại (nếu có) cho ngân hàng. Tuy nhiên nếu tiền trả góp
được tính bằng phương pháp gộp thì vấn đề có phần phức tạp hơn. Vì theo
phương pháp gộp, lãi được tính trên cơ sở giả định rằng tiền vay sẽ được khách
hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng, cho nên nếu khách hàng trả nợ
trước hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn giả định ban đầu, như vậy
số tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Trong trường hợp này, ngân hàng thường
áp dụng phương pháp giống như các phương pháp phân bổ lãi cho vay nói trên
để tính ra số lãi thực sự phải thu, dựa trên thời hạn nợ thực tế.
• CVTD phi trả góp (Noninstallment Consumer Loan):
Các khoản CVTD phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ, với
thời hạn không dài. Theo phương pháp này tiền vay được được khách hàng thanh
toán một lần khi đến hạn.
• CVTD tuần hoàn (Revoling Consumer Credit):
Là các khoản CVTD trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín
dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai.
Theo phương pháp này, trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ
vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng
cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo hạn
mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể được tính dựa trên một trong ba cách sau:
+ Lãi được tính trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương pháp
này số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau khi
khách hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng.
+ Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo
phương pháp này, số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ mối kỳ có trước khi
khoản nợ được thanh toán.
+ Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân
1.1.4.3Căn cứ vào nguồn gốc khoản nợ
Căn cứ vào nguồn gốc khoản nợ, CVTD gồm:
a. CVTD gián tiếp (Indirect Consumer Loan):
CVTD gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản
nợ phát sinh do những công ty bán lẻ bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người
tiêu dùng.
Thông thường CVTD gián tiép được thực hiện theo sơ đồ sau:
3
NGÂN HÀNG
CÔNG TY BÁN LẺ
NGƯỜI TIÊU DÙNG
1
5
4
2
6
(1): Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán chịu. Trong
hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được
bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu.
(2): Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu
hàng hoá. Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(4): Công ty bán lẻ bán toàn bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân
hàng.
(5): Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ
(6): Người tiêu dùng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ
* CVTD gián tiếp có một số ưu điểm sau:
• Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số CVTD
• Cho phép ngân hàng tiết giảm được chi phí trong cho vay
• Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động
ngân hàng khác.
• Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, CVTD gián
tiếp an toàn hơn CVTD trực tiếp.
* Một số nhược điểm của CVTD gián tiếp:
• Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu.
• Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán
chịu hàng hoá.
• Kỹ thuật nghiệp vụ CVTD gián tiếp có tính phức tạp cao.
CVTD gián tiếp thường được thực hiện thôn qua các phương thức sau:
• Tài trợ truy đòi toàn bộ (Full Recourse Financing):
Theo phương thức này khi bán cho ngân hàng các khoản nợ mà người tiêu
dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ
các khoản nợ nếu khi đến hạn, người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng.
• Tài trợ truy đòi hạn chế (Limited Recourse Financing):
Theo phương thức này, trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với các khoản
nợ người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng
mực nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã được thoả thuận giữa ngân hàng
với công ty bán lẻ.
Các thoả thuận thường gặp trong truy đòi hạn chế:
Công ty bán lẻ phải chịu trách nhiệm thanh toán một phần nợ trong
trường hợp nếu người mua chịu không đủ các tiêu chuẩn tín dụng do ngân hàng
đề ra.
Công ty bán lẻ cam kết chịu trách nhiệm cho toàn bộ số nợ đã bán chịu
cho đến khi ngân hàng thu hồi được một số lượng khoản nợ nhất định đúng hạn.
Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn
theo một tỷ lệ nhất định so với tổng số nợ trong một thời hạn nhất định.
Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn
trong phạm vi số tiền sự phòng ký gửi tại ngân hàng. Thường thì số tiền dự
phòng được trích từ chênh lệch giữa chi phí tài trợ mà công ty bán lẻ tính cho
người mua chịu và chi phí tài trợ mà công ty bán lẻ tính cho người mua chịu và
chi phí tài trợ mà ngân hàng tính cho công ty bán lẻ. Số tiền dự phòng tại ngân
hàng có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng khi người mua chịu không trả nợ
trước hạn hoặc trả nợ trước hạn.
• Tài trợ miễn truy đòi (Nonrecourse Financing):
Theo phương pháp này sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng, công ty
bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc chúng có được hoàn trả hay không.
Phương thức này chứa đựng rủi ro cao cho ngân hàng nên chi phí tài trợ thường
được các ngân hàng tính cao hơn so với các phương thức nói trên và các khoản
nợ được mua được kén chọ rất kỹ. Ngoài ra chỉ có những công ty bán lẻ được
ngân hàng rất tin cậy mới áp dụng phương thức này.
• Tài trợ có mua lại (Repurchase Financing):
Khi thực hiện CVTD gián tiếp theo phương thức miẽn truy đòi hoặc truy
đòi một phần nếu rủi ro xảy ra, người tiêu dùng không trả nợ thì ngân hàng
thường phải thanh ký tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả
thuận trước thì ngân hàng có thể bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình
chưa được thanh toán kèm với tài sản được thụ đắc trong một thời hạn nhất định
b. CVTD trực tiếp (Direct Consumer Loan):
Là các khoản CVTD trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách
hàng vay cũng như trực tiếp thu hồi nợ từ người này.
CVTD trực tiếp thường được thực hiện qua sơ đồ sau:
(1): Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.
(2): Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty
bán lẻ.
NGÂN HÀNG
CÔNG TY BÁN LẺ
NGƯỜI TIÊU DÙNG
1
2
3
5
4
(3): Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán
lẻ.
(4): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5): Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
So với CVTD gián tiếp, CVTD trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được
một số ưu điểm sau:
• Ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của nhân viên tín dụng, nên
các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng
cao hơn.
• Do tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên CVTD linh hoạt hơn so với
CVTD gián tiếp. Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng,
có rất nhiều lợi thế có thể phát sinh, có khả năng làm thoả mãn quyền
lơi cho cả hai phía khách hàng lẫn ngân hàng.
Nhược điểm của CVTD trực tiếp:
• Ngân hàng thường khó tăng doanh số cho vay
• Ngân hàng thường khó mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng vì
ngân hàng phải trực tiếp tiếp xúc với khách hàng mà số lượng cán bộ
tín dụng của ngân hàng không đủ để đáp ứng
• Chi phí cao hơn nên lãi suất cho vay thường cao
Các hình thức CVTD trực tiếp
- Cho vay trả theo định kỳ : theo phương pháp này, khách hàng vay và
trả trực tiếp với ngân hàng, với mức trả và thời hạn trả mỗi lần được
quy định khi cho vay, thường là một lần trên tháng. Nếu được cấp tiền
vay, toàn bộ số tiền vay được ghi nợ tài khoản cho vay và ghi có tài
khoản tiền gửi cá nhân hoạc giao tiền mặt cho khách hàng
- Thấu chi : Là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hạn
mức tín dụng, được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được sử
dụng dư nợ trong một thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai và
mức dư nợ tối đa bằng hạn mức tín dụng đã cam kết
- Thẻ tín dụng : Là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng phát hành
thẻ tín dụng cho những người có tài khoản, đủ điều kiện cấp thẻ và ấn
định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng.
Mỗi tấm thẻ có một mức tín dụng nhât định, và mức này có thể thay
đổi tùy theo mức độ tín nhiệm và tùy theo yêu cầu của khách hàng.
Nếu chi trả chậm hoạch một số khoản chi trả không đúng thời hạn, thẻ
có thể bị thu hồi. Thẻ được tái phát hành định kỳ, điều này cho phép
ngân hàng đánh giá lại được khả năng thanh toán của chủ thẻ.
Một số loại thẻ tín dụng phổ biến hiện nay:
Căn cứ vào đặc tính kỹ thuật : Thẻ tín dụng bao gồm thẻ băng từ
(magnetic Card), Thẻ thông minh (Smart Card)…
Căn cứ vào chủ thể phát hành: Thẻ do ngân hàng phát hành (Bank Card)
như thẻ Visa, Master,… Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành (Non-Bank
Card) phát hành như thẻ Dinner, Amex Card,…
Căn cứ vào hạn mức tín dụng: Thẻ vàng (Gold Card), Thẻ thường (Blue
Card)
Căn cứ vào phạm vi sử dụng thẻ : Thẻ nội địa và thẻ quốc tế
1.2 Nội dung cơ bản của mở rộng CVTD
1.2.1 Quan niệm về mở rộng CVTD
Trước đây, do quan niệm các khoản CVTD có quy mô rất nhỏ, rủi ro vỡ
nợ lại tương đối cao, mức sinh lời thấp mà các NHTM thường không cho vay
đối với các cá nhân và hộ gia đình. Chỉ từ đầu thế kỷ 20, đối mặt với sự cạnh
tranh khốc liệt, các NHTM mới chú ý đến mảng sản phẩm dịch vụ này và bắt
đầu hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng.
Sản phẩm CVTD không chỉ đem lại lợi ích cho các NHTM, cho khách hàng mà
còn thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Vì vậy, việc các NHTM mở
rộng cung cấp sản phẩm dịch vụ này là một xu hướng phát triển tất yếu và cần
thiết.
Mở rộng CVTD có nghĩa là tạo ra sự gia tăng về mặt quy mô, khối lượng,
số lượng, là nói đến tăng trưởng theo chiều rộng của các khoản tín dụng tiêu
dùng. Như vậy, mở rộng CVTD tức là việc ngân hàng thực hiện tăng quy mô, tỷ
trong CVTD trong cơ cấu cho vay nhằm đáp ứng tốt nhất các nhu cầu chính
đáng của người tiêu dùng.
Như vậy có thể hiểu rằng:
• Mở rộng CVTD phản ánh khả năng đáp ứng ngày càng tăng về vốn
của nền kinh tế, theo một cơ cấu hợp lý phù hợp với tốc độ phát triển
của xã hội trong từng thời kỳ, qua đó cho thấy sự tăng trưởng và phát
triển của ngân hàng
• Mở rộng CVTD chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan như : khả
năng quản lý, nguồn vốn, trình độ của đội ngũ cán bộ,… và khách
quan như: sự phát triển kinh tế xã hội, cơ chế chính sách nhà nước,
tình hình Chính trị,…
• Mở rộng CVTD được xác định trên cơ sở việc thực hiện đa dạng hóa
khách hàng, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng như các đối tượng
vay. Việc xây dựng các mức lãi suất hợp lý cũng như xác định kỳ hạn
trả nợ phù hợp với nguồn thu nhập của khách hàng, với chu kỳ sản
xuất kinh doanh cũng góp phần làm mở rộng CVTD của ngân hàng.
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng CVTD
1.2.2.1 Nhân tố khách quan
+ Môi trường kinh tế
• Tốc độ tăng trưởng : Ngân hàng sẽ dễ dàng huy động vốn và sử dụng
vốn khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Khi đó mức sống của người
dân cũng không ngừng được nâng cao, thu nhập ổn định, nhu cầu của
người dân cũng thay đổi theo chiều hướng phong phú đa dạng hơn. Vì
vậy, CVTD sẽ có môi trường thuận lợi để phát triển.
Ngược lại khi nền kinh tế suy thoái thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong
việc sử dụng vốn, đặc biệt là sử dụng vốn để CVTD vì lúc này người tiêu dùng
có xu hướng chững lại trong chi tiêu.
• Lạm phát : Khi lạm phát tăng, sức mua của đồng tiền giảm mạnh, thu
nhập thực tế của người dân giảm, người dân sẽ có xu hướng đầu tư vào
tài sản hoặc ngoại tệ mạnh, nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh. Việc huy
động vốn cũng như CVTD sẽ khó khăn hơn
• Lãi suất : Khi lãi suất huy động vốn cao thì lãi suất cho vay cũng cao
hơn, không khuyến khích khách hàng vay tiêu dùng.
• Thất nghiệp : Khi thất nghiệp tăng, thu nhập của người dân sẽ thấp
hoặc không ổn định dẫn đến khả năng thanh toán nợ vay cá nhân giảm,
làm tăng rủi ro của ngân hàng, ngân hàng sẽ có xu hướng giảm CVTD
+ Môi trường văn hóa - xã hội
• Thái độ, thói quen tiêu dùng : Có tác động đáng kể đến CVTD, cụ thể
là quyết định của người tiêu dùng. Ở Việt Nam, người dân có thói
quen sử dụng tiền mặt hơn là sử dụng các hình thức thanh toánqua tài
khoản thanh toán. Vì vậy mà rất khó khăn trong việc phát triển các
hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
• Trình độ dân trí : Là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến quyết định sử
dụng các dịch vụ, sản phẩm của ngân hàng. Ở những nước phát triển,
trình độ dân trí cao, người ta chủ yếu thanh toán qua ngân hàng vì nó
tiện lợi và đảm bảo an toàn. Ở Việt Nam thì người dân lại chưa có thói
quen này, cũng có thể do trình độ dân trí mà cũng có thể do lối làm ăn
nhỏ lẻ của người dân.
• Yếu tố xã hội: Như quy mô dân số, mật độ dân cư, tháp dân số, kết cấu
dân số, trật tự an toàn xã hội,… ảnh hưởng trực tiếp tới mối quan hệ
cho vay giữa ngân hàng với khách hàng. Thông thường nơi nào tập
trung nhiều những người có địa vị xã hội thì mới có cơ hội phát triển
mạnh CVTD vì họ có thu nhập cao và ổn định, họ cũng nhận thức
được những tiện lợi mà CVTD mang lại. Còn nơi nào tập trung những
người lao động chân tay thì khó phát triển CVTD vì những người này
thường cú xu hướng tích trữ tiền tại ngân hàng, vì vậy đây được xem là
nguồn cung tín dụng không những đối với tín dụng thương mại mà còn
đối với CVTD.
+ Môi trường chính trị pháp luật
Ngân hàng là một trong những ngành kinh tế chịu sự giám sát, quản lý
chặt chẽ của luật pháp và các cơ quan chức năng của Chính phủ. Hoạt động của
ngân hàng được điều chỉnh bởi các quy định của Ngân hàng Nhà nước, luật các
tổ chức tín dụng, luật dân sự và các quy định khác. Khi những văn bản pháp luật,
các quy định rõ ràng, đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ là hành lang pháp lý vững
chắc, góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong hoạt động
cho vay. Mặt khác cũng sẽ khuyến khích đầu tư trong nước, gọi vốn từ nước
ngoài,.. từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Ngược lại khi những quy định của luật pháp không rõ ràng, không đồng
bộ, kịp thời, không ổn định sẽ làm cho khả năng mở rộng CVTD bị giảm sút.
+ Môi trường công nghệ
Các ngân hàng phải nắm bắt và ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt
động ngân hàng. Đặc biệt trong lĩnh vực CVTD như công nghệ thẻ, hệ thống
máy tính và phần mềm hiện đại giúp ngân hàng giải quyết công việc nhanh
chóng, hiệu quả và chính xác cao. Từ đó tăng quy mô, chất lượng sản phẩm dịch
vụ, tăng vị thế của ngân hàng trong cạnh tranh. Bên cạnh việc áp dụng công
nghệ hiện đại thì các ngân hàng cũng cần phải chú trọng vào đào tạo nhân viên
có trình độ có thể làm chủ được công nghệ ấy.
1.2.2.2 Nhân tố chủ quan
+ Nguồn lực về tài chính:
• Vốn tự có : Là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập và thuộc
quyền sở hữu của ngân hàng. vốn tự có thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song nó có vai trò hết sức quan
trọng, vốn tự có được xem là “ tấm đệm chống tổn thất cho ngân
hàng”, là cơ sở để ngân hàng mở rộng hoạt động của mình. Ngân hàng
nào có vốn tự có lớn thì góp phần làm tăng lòng tin của người gửi tiền
và đảm bảo cho các hoạt dộng kinh doanh của ngân hàng diễn ra an
toàn. Ngược lại, sẽ làm cho các hoạt động của ngân hàng khó khăn
hơn.
• Khả năng huy động vốn : Vốn được đánh giá trên hai yếu tố là quy mô
của nguồn vốn huy động và chi phí huy động vốn. Khi quy mô vốn
huy động lớn thì ngân hàng càng có khả năng đáp ứng tốt cho nhu cầu
kinh doanh của mình và với chi phí hợp lý thì ngân hàng có điều kiện
cho vay ra với lãi suất cạnh tranh. Điều này sẽ tốt cho việc mở rộng và
phát triển hoạt động CVTD cả về mặt chất và lượng.
• Chất lượng tín dụng: Một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ dễ gặp
rủi ro. Khách hàng dù là cá nhân hay doanh nghiệp đều quan tâm đến
chất lượng tín dụng của ngân hàng vì đó là nơi họ gửi tiền vào từ đó
ảnh hưởng đến quyết định sử dụng các sản phẩm khác của ngân hàng
trong đó có sản phẩm CVTD. Vì thế, khi tỷ lệ nợ quá cao, ngân hàng
rất khó khăn trong huy động vồn và chất lượng tín dụng sẽ không cái
thiện được.
+Chất lượng cán bộ tín dụng :
Thể hiện ở trình độ nghiệp vụ cũng như khả năng giao tiếp, đạo đức cán
bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng chính là hình ảnh của ngân hàng dưới con mắt của
khách hàng. chính vì vậy, chất lượng của con người sẽ quyết định đến chất lượng
sản phẩm, từ đó quyết định đến uy tín, hình ảnh của ngân hàng, vị thế của ngân
hàng trên thị trường.
+ Trình độ tổ chức
Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức và nội quy làm việc hợp lý sẽ tạo ra bầu
không khí làm việc hăng hái nhiệt tình trong tổ chức. Từ đó, động viên được
nhân viên ngân hàng trung thành và cống hiến vì sự phát triển của ngân hàng
hơn.
+ Cơ sở vật chất thiết bị
Việc trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến, phù hợp với phạm vi, quy mô
hoạt động phục vụ kịp thời các yêu cầu của khách hàng, tạo sự thuận tiện, thoải
mái cho quá trình giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng, từ đó giúp ngân
hàng tăng khả năng cạnh tranh, thu hút được nhiều khách hàng hơn.
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá sự mở rộng CVTD
1.2.3.1 Chỉ tiêu về số lượt khách hàng giao dịch với ngân hàng
Khi ngân hàng có sự tập trung vào việc mở rộng CVTD, ngân hàng sẽ có
biện pháp để thu hút khách hàng đến với mình, sẻ dụng các sản phẩm tín dụng
của mình. Ngân hàng càng thực hiện tốt việc mở rộng CVTD bao nhiêu thì số
lượng khách hàng giao dịch sẽ tăng lên bấy nhiêu.
• Số lượng khách hàng: Là tổng số khách hàng thực hiện giao dịch với
ngân hàng. trong hoạt động CVTD, số lượng khách hàng thể hiện số
các khoản vay tiêu dùng mà ngân hàng cấp cho khách hàng.
• Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về số lượng khách hàng tuyệt đối
Mức tăng, giảm số lượng khách hàng= Số lượng khách hàng năm (t)- Số
lượng khách hàng năm (t-1)
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho phép ngân hàng đánh giá việc mở rộng quy mô
và đối tượng khách hàng tại ngân hàng.
• Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng khách hàng tương đối
Giá trị tăng trưởng khách
hàng tương đối
=
Mức tăng giảm số lượng khách hàng . 100%
Số lượng khách hàng VTD năm (t-1)
• Chỉ tiêu số lượt khách hàng: là số lần khách hàng đến giao dịch với
ngân hàng trong một năm. Trong hoạt động CVTD, số lượt khách hàng
thể hiện số lần khách hàng đến ngân hàng thực hiện vay tiêu dùng. Khi
số lượt khách hàng tăng lên thể hiện hoạt động CVTD của ngân hàng
được mở rộng, đồng thời cũng cho biết sự tin tưởng của khách hàng
đối với ngân hàng.
• Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu khách hàng vay tiêu dùng
Tỷ trọng khách hàng là
cá nhân VTD
=
Số lượng khách hàng VTD là cá nhân . 100%
Tổng số khách hàng VTD
1.2.3.2 Chỉ tiêu phản ánh doanh số CVTD
• Doanh số CVTD : Là tổng số tiền ngân hàng CVTD trong kỳ, nó phản
ánh một cách khí quát nhất về hoạt động tín dụng của ngân hàng theo một
thời kỳ nhất định, thường tính theo năm tài chính.
• Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số CVTD tuyệt đối : Chỉ tiêu này
được tính bằng hiệu số giữa tổng doanh số CVTD năm nay (t) và tổng
doanh số CVTD năm trước (t-1)
Giá trị tăng trưởng
doanh số tuyệt đối
=
Tổng doanh số CVTD
năm (t)
-
Tổng doanh số CVTD
năm (t-1)
Ý nghĩa : Chỉ tiêu này cho biết doanh số CVTD năm (t) tăng so với
năm(t-1) về số tuyệt đối là bao nhiêu. Khi chỉ tiêu này tăng lên, tức là số tiền mà
ngân hàng cung cấp cho khách hàng để tiêu dùng cũng tăng lên, thỏa mãn tốt
hơn nhu cầu của khách hàng, từ đó nó cũng thể hiện hoạt động CVTD của ngân
hàng đã được mở rộng.
• Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số tương đối : Chỉ tiêu này được
tính bằng tỷ lệ % của thương số giữa giá trị tăng trưởng doanh số CVTD
tuyệt đối với tổng doanh số CVTD năm (t-1).
Giá trị tăng trưởng
doanh số tương đối
=
Giá trị tăng trưởng doanh số tuyệt đối . 100%
Tổng doanh số CVTD năm (t-1)
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng trưởng doanh số của hoạt động
CVTD năm (t) so với năm (t-1). Khi chỉ tiêu này tăng lên, thể hiện rằng doanh số
CVTD qua các năm của ngân hàng đã tăng lên về số tương đối.
• Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng về tỷ trọng:
Tæng doanh sè CVTD . 100%
Tû träng =
Tæng doanh sè ho¹t ®éng cho vay
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết doanh số của hoạt động CVTD chiếm tỷ
trọng bao nhiêu trong tổng doanh số của hoạt động cho vay của ngân hàng. Khi
tỷ trọng của CVTD tăng lên qua các năm, chứng tỏ rằng hoạt động CVTD đã
được mở rộng.
1.2.3.3 Chỉ tiêu phản ánh dư nợ CVTD
• Dư nợ CVTD:
Dư nợ tín dụng phản ánh số tiền mà khách hàng đang nợ ngân hàng tại
một thời điểm, nên chỉ tiêu này là một con số thời điểm. Căn cứ vào mức dư nợ
và tỷ lệ dư nợ có thể cho ta biết ngân hàng có thực hiện mở rộng tín dụng hay
không. Bởi khi ngân hàng thực hiện chính sách mở rộng tín dụng thì dư nợ tín
dụng thường ở mức cao. Tuy nhiên để có thể đánh giá chính xác việc mở rộng
tín dụng của ngân hàng, phải kết hơp giữa chỉ tiêu dư nợ tín dụng với chỉ tiêu
danh số cho vay của ngân hàng.